Quảng Ngãi ơi! Tiếng nấc không rời
Quảng Ngãi ơi! Tiếng nấc không rời

Hoàng Ngọc Lễ
( Bài này đã 15 năm tôi post lên QNNT. Nay đọc lại cảm động quá. Xin phép anh HOÀNG cho tôi post lại. Anh viết hay quá, đáng lẽ anh có nhiều tác phẩm mới đúng. Một thiệt thòi lớn cho anh em) ( Nguyễn Liệu }
………………..
Tôi không phải là nghệ sĩ nhưng cuộc đời tôi lại dính liền với nhiều anh chị em nghệ sĩ, trong đó có những người đã qua đi như Nghiêu Đề, Minh Đường, Phan Nhự Thức, Vương Thanh, Lê Văn Nghĩa, Lê Vĩnh Thiều, Tạ Ký…. Tôi viết đôi hàng này, để tưởng nhớ những người bạn nghệ sĩ tình nghĩa và thủy chung. Họ đã để lại trong tôi những kỷ niệm nồng nàn, sâu thẳm và nhiều nỗi nhớ thương.
Tôi bị đổi ra Quảng Ngãi ngay sau tết Mậu thân, khi ấy chiến cuộc ở đây vẫn đang xảy ra khắp mọi nơi. Hỏa tiển đêm đêm vẫn rót về thành phố và trung tâm thị xã không mấy ngày lại không để tang, vì những cái chết oan ức và đau thương. Lòng phố nhỏ bé và hẹp được bịt kín bởi hai căn cứ quân sự quan trọng: Tiểu khu và bộ tư lệnh sư đoàn 2. Thành phố ngập tràn khói lửa, không đâu là nơi an bình.
Tuy mới quen biết, tôi được Chế Quân cho về trọ tại một căn gác khá rộng tại số 237 Võ Tánh, gần ngã năm Nghĩa Hành. Trong căn phòng này đã có sẵn Nghiêu Đề, vì thế tôi quen anh từ đấy.
Nghiêu Đề lớn hơn tôi 4 tuổi, dáng vẻ nghệ sĩ hao gầy và anh có một dáng đi nhẹ nhõm với vòm lưng hơi cong. Anh ít nói và miệng anh hình như lúc nào cũng nhả khói thuốc Ruby. Một loại thuốc mà hình như tôi ít khi thấy anh thay đổi. Tính khí anh rất hiền hòa và thường có một nụ cười tươi vui nhưng kín đáo.
Khi ra tới Quảng Ngãi, tôi còn duy chỉ hai bộ quần áo và cái kỷ niệm đầu tiên của những đêm đầu Quảng Ngãi hơi cay đắng đối với tôi. Những đêm dài thức giấc nồng nặc khói thuốc và hai bộ quần áo dính lấm những nước sơn màu nham nhúa. Một hôm thức dậy, đóng bộ đi làm, tôi mới khám phá ra rằng tay áo đã dính bê bết màu sơn. Mùi sơn còn nồng, hăng, chứng tỏ vệt sơn mới dính. Tôi ngao ngán, tức bực nhìn về phía Nghiêu Đề thì anh ta đang ngáy ngủ. Buộc lòng tôi phải xuống lầu tìm Chế Quân cầu cứu. Chế Quân cũng vóc dáng như tôi, nên Bích Thu vợ hắn đã tìm cho tôi mượn một chiếc áo mới. Đi làm về, tôi tìm Nghiêu Đề tả oán, cuối cùng anh ta xuề xòa cắt nghĩa rằng đêm qua nửa tỉnh nửa mơ, hứng tình dậy vẽ chân dung chắc nhìn lầm, tưởng áo chemise là vải lau cọ.
Nghiêu Đề hình như không biết tiêu tiền và mỗi khi có tiền thì hình như để người khác xài dùm. Có lần đem tranh về Sàigòn dự thi, trúng thưởng và bán tranh có tiền sao đó, anh ta về lại đúng lúc chúng tôi đang kéo xì tố với nhau, mà rủ đi nhậu. Trong cơn đen đỏ vui chơi, chúng tôi ngồi lì không nhúc nhích. Nghiêu Đề dù một quân bài không biết, nhưng cũng ngồi sau lưng tôi dúi tiền chơi ké. Mỗi ván bài thắng, anh ta vỗ tay đen đét nhưng những ván thua thì lại thụi vào lưng tôi đùm đụp. Thấy thế, tồi bảo Nghiêu Đề: “Thôi đừng ké nữa, non dơ như thế thì thiên hạ biết mẹ nó cả tẩy”.
Mỗi buổi chiều đi làm về, chúng tôi tuy không hẹn nhưng thường kéo nhau về khu Trùng Khánh, bên hông khách sạn Việt Nam. Ở đây có một dãy phòng chừng 6,7 căn. Đa số bao thuê bởi các thày giáo và các sĩ quan trẻ. Đa phần họ đều là những văn nghệ sĩ, kẻ viết văn, người viết báo, làm thơ. Nhờ qua Chế Quân và Nghiêu Đề, sau này tôi trở thành thân thiết với họ, tình nghĩa và rất thắm thiết.
Cứ mỗi chiều, chúng tôi thường gặp nhau, lúc đầu thì những câu chuyện gẫu bên tách trà, ly cà phê. Phía đầu ngõ là lão già tàu Trùng Khánh, mặt đỏ như Trương Phi, hàm râu dài bạc trắng với cại bụng phệ không khác gì thổ địa. Lão già tài phiệt này giàu có và con cái đều làm ăn, sinh sống ở Hồng Kông. Cửa hàng của lão rất bề thế và bày bán đủ loại rượu quý, trà ngon. Chính vì thế, chúng tôi thường thay nhau tới tiệm lão mua trà. Tiếng Việt của lão hình như chỉ ngoài mấy tiếng “đụ mạ”, “đụ bà”, lúc nào lão cũng nằm chình ình trên chiếc ghế đẩy trước cửa và thở hơi nồng nặc mùi men rượu. Trông tướng mạo lão ta thật đáng ghét, với cái vẻ mặt hắc ám khinh người nhưng khách vào mua cừ dồn dập vì chỉ nơi này mới có thằng Johny đi bộ và thiết quan âm.
Sau những câu chuyện gẫu, thường là những màn bàn bạc thơ, văn. Đa số anh em ở đây đều là những văn thi sĩ.: Nguyễn Văn Minh sĩ quan tiểu khu, sau này là chủ tịch hội đồng tỉnh (bút hiệu Mê Kông, Phan Nhự Thức), Nguyễn Văn Đồng, giáo sư trường nữ (bút hiệu Hà Nguyên Thạch), Trần Hữu Huy, sĩ quan đảo trưởng Lý Sơn (bút hiệu Vương Thanh), Lê Ngọc Châu, sĩ quan sư đoàn 2 (bút hiệu Luân Hoán), giáo sư Đinh Văn Quý (bút hiệu Đynh Hoàng Sa), Lê Văn Nghĩa, sĩ quan thiết đoàn trưởng kỵ binh (bút hiệu Lê Việt Nguyên, Tô Yên), Nguyễn Cao Can, Trần Anh Lan, Nghiêu Đề, Phạm Cung, Khắc Minh, Minh Đường, Vũ Hồ, ….Họ cũng ra được một vài tạp chí văn học và đã phát hành một số tác phẩm thơ văn.
Sau những lúc bàn bạc thơ văn ra, thường chúng tôi rủ nhau qua quán cà phê Dung. Cô chủ quán có mái tóc thề óng ánh, mượt mà và giọng nói rất Huế. Quán hình như chỉ quy gồm anh em văn nghệ sĩ và những người yêu thích thơ văn. Sau này anh chị Lê văn Nghĩa có bỏ tiền ra xây một câu lạc bộ (không tên), ngay sau khu vườn niệm Phật đài của ông bà Lệ Ảnh. Anh chị Nghĩa đã rất rộng lòng và hy sinh cho anh chị em nghệ sĩ và thân hữu khá nhiều. Nghĩa đã hy sinh trong một trận kịch chiến tại vùng rừng núi Quế Sơn. Tại nhà Nghĩa, thường có những cuộc đàm đạo thơ văn và những đêm bình thơ, ngâm thơ.
Sau biến cố Mậu Thân, một số anh em đã bỏ khu Trùng Khánh ra đi như Luân Hoán (bị thương, tôi được Minh đưa đến bệnh viện tiểu khu thăm anh) … tôi thường lui tới nơi này để trọ ngủ nơi phòng Vương Thanh, trong những đêm đen bất ổn vì địch quân thường hay quấy rối ở ngã năm Nghĩa Hành. Ngoài tôi ra, thường còn có những anh em khác tới ngủ trọ, như giáo sư, thi sĩ Vũ Hồ, g.s. Nguyễn Liệu, hiệu trưởng trường Quảng Ngãi Nghĩa Thục.
Anh Liệu là một người trong sạch và là một ông vua chống tham nhũng, khiến các vị quan to, tai to mặt lớn nể vì. Anh đã tham gia đảo chánh chống ông Diệm vào năm 61 và sau đó bị lưu đầy Côn Đảo với bác sĩ Phan Quang Đán và một số người lãnh đạo của cuộc đảo chánh bất thành này. Sau đảo chánh thành công của tướng Minh, anh Liệu được trả tự do, gĩa từ chính trị và đã trở về Quảng Ngãi vận động mở trường trung học Quảng Ngãi Nghĩa Thục. Trường dạy miễn phí cho con em nghèo, bất phân thành phần chính trị. Do sự quen biết với Chế Quân và những anh em khác, tôi đã nhận lời anh Liệu để dạy một số giờ anh văn tại đây. Anh em giáo sư ở đây rất thân tình và có tinh thần xã hội rất cao. Nhất là những anh Vương Thanh, Phan Nhự Thức, Chế Quân, Nguyễn Cao Can….họ đã bỏ gần như tất cả những thời giờ nhàn rỗi để lo cho trường.
Trong thời gian cộng tác với QNNT, tôi thường đi lại với anh em và ban giám đốc một cách thân tình, chẳng thế mà tôi đã bị nhà văn Trùng Dương (Nguyễn Thị Thái), chủ nhiệm báo Sóng Thần và anh em phong tặng chức hiệu : “Hội trưởng hội khuyển học”. Sở dĩ tôi có được cái danh hiệu quái ác này cũng chỉ vì trận bão Herta.
Nhân dịp phái đoàn báo Sóng Thần do nhà văn Chu Tử và chị Trùng Duơng cùng một số nhà báo khác ra thăm Quảng Ngãi Nghĩa Thục, anh Vương Thanh, Phan Nhự Thức và Chế Quân có nhờ tôi đứng ra lo phần ẩm thực. Thấy khí trời đổi lạnh và lại quen biết với trung úy Châu (gốc Nam Định), một tay nhậu khét tiếng với món rựa mặn , sườn nướng và món dồi “sống trên đời”, và hơn nữa, vì thấy phái đoàn S.T. cũng quy tụ hầu hết anh chị em gốc Bắc, nên tôi đã thực hiện món “nai đồng quê” ngay tại “bát quái đài”, một túp lều tranh mái bát giác, làm chỗ ngồi nghỉ mát cho giáo sư ngay trong khuôn viên trường.
Khí trời se lạnh do gió bấc thổi về, món cầy tơ nướng bốc khói, thơm nồng, thật là lý tưởng và ngon lành cho những tay nhậu, yêu thích mộc tồn. Nhưng rồi một điều không may xảy ra, ngay trong đêm đó, bão Herta đã thổi đến tàn phá tan tành và bát quái đài đã bay vù và biến mất theo giông bão.
Trong đêm hôm ấy, một số anh em chúng tôi vì ngủ lại trong văn phòng trường đã bám theo anh Liệu, chạy đuổi theo những tấm tôn đang bị gió lốc cuốn bay. Thú thật là thân xác tôi gầy yếu và lại nhát gan như thỏ đế, nên tôi chỉ ôm chặt cột trong một góc kín quan sát. Anh Liệu thật là quả cảm, anh la hét như một tướng công đang xung chiến. Anh chạy đuổi theo những tấm tôn, bất chấp nguy hiểm do những vật đè rơi. Tuy số tôn thu nhặt lại không được bao nhiêu nhưng trong lòng tôi thật khâm phục anh Liệu, một người quả cảm. Qua đó, tôi mới thấy rằng việc anh chỉ huy lực lượng nhân dân tự vệ tỉnh tới bắt một vị phó tỉnh trưởng ra bêu ngoài đường vì ông ta quá tham nhũng là không có gì phải ngạc nhiên. Qua vụ đó, anh Liệu đã được báo chí Sài Gòn phong tặng là “Tướng giặc cờ đen” và nhà văn Chu Tử đã đề cử Nguyễn Liệu và Lý Đại Nguyên đứng chung liên danh trong cuộc bầu cử chống lại liên danh ông Thiệu. Báo Sóng Thần đã dành cả một trang đầu để in hình và viết lời ca tụng.
Trận bão Herta đã tàn phá một phần tỉnh Quảng Ngãi và tôi luôn vẫn bị mang theo mình một tục danh: “Hội trưởng hội khuyển học”, kể cả khi đã bỏ Quảng Ngãi về Sài Gòn.
Sau một thời gian dài ở Quảng Ngãi, tôi được thuyên chuyển về Sài Gòn và vẫn luôn nhớ đến Quảng Ngãi và những anh em tình nghĩa thắm thiết. Thỉnh thoảng tôi có dịp ghé thăm anh chị em Sóng Thần và qua đó, đôi khi gặp lại những anh em bạn cũ Q.N., nhất là Nguyễn Văn Minh (Phan Nhự Thức) vì Minh đã cưới một cô nhà văn trẻ do ông Chu Tử là nghĩa phụ. Rồi sau này, thỉnh thoảng anh em vào Sai Gon công tác cũng có ghé thăm tôi. Ca sĩ Hồng Vân cũng có ghé thăm nhà tôi và có tổ chức đêm thơ….
*
Sau một thời gian dài xa cách, 30 năm sau, tôi mới có dịp về thăm lại Quảng Ngãi. Cảnh cũ còn đây mà người xưa đã đâu mất nhiều rồi! Tôi ôm chật Chế Quân, Bích Thu, Hữu Cảnh, Hồng Hạnh, Vũ Hồ, Trần Văn Vạn tức tưởi. Thương nhớ đầy vơi những bạn đã lìa đời. Nào là Vương Thanh, Nghiêu Đề, Minh Đường, Phan Nhự Thức, Lê Văn Nghĩa, Trần Ngọc Tấn, Lê Vĩnh Thiều…
– Anh Lê Vĩnh Thiều là một người anh đã chuẩn bị cho tôi nhiều hành trang và cả thơ văn để vào đời. Với tôi, anh vừa là một người anh, vừa là một thầy tình nghĩa và tận tình, vừa là một bộ tự điển sống. Có lần tới thăm tôi, nhìn một chén kiểng do một thày trụ trì tại chùa Phật học tặng. Anh đã nhiếc cặp kiếng han rỉ, chăm chú đọc đi, đọc lại rồi thích thú dịch cho tôi nghe:
Cưỡi lừa qua cầu nhỏ
Thương tiếc cụm mai gầy.
Bây giờ thì thật sự, tôi thương tiếc anh, một cụm mai gầy đầu ngõ trong buổi Xuân qua.
– Vương Thanh là một người bạn gốc Bắc qúy hiếm của tôi trong những ngày lưu lạc Quảng Ngãi. Có lẽ trong đồng cảnh ngộ nên Vương Thanh đã bao che, khuyên bảo và giúp đỡ tôi nhiều điều và cũng đã từng cho tôi ngủ trọ trong suốt thời gian ngã năm nghĩa Hành nổi cảnh binh đao.
– Anh Trần Ngọc Tấn, anh ruột của nhà văn Cung Tích Biền (Trần Ngọc Thao), một người nóng nảy nhưng ngay thẳng. Mặc dầu là một vị chỉ huy quân trấn, anh đã đích thân tới đồn quân cảnh để lôi tôi ra, sau một cuộc lùa quân sai trái của bọn Mỹ bên kia cầu Trà Khúc. (Hôm đó, tôi cùng mấy người bạn qua Sơn Long thưởng thức món bê thui, không ngờ một cuộc hành quân hỗn hợp ập tới. Mấy thằng Mỹ của sư đoàn Americal đóng ở Chu Lai đã nhào vào chỉ súng, bắt mọi người lên xe. Chúng trợn trừng cặp mắt cú vọ, bảo: “Có một thằng du kích mặc áo đen cầm súng AK vừa chạy vào đây. Chắc là chúng mày vừa mới tàng hình ? Chúng tôi lên xe, bên cạnh họng súng M16 dí lưng. Nói gì chúng cũng không nghe. Khi tới cổng đồn quân cảnh, chúng chỉa súng, dồn chúng tôi xuống xe và có lẽ trong lúc những bước chân khập khễnh và buồn chán đang lê gót mỏi vào đồn đã có anh em nào nhìn thấy, nên anh Tấn đã đến ngay sau đó).
Bây giờ nghe tin anh chết, anh đã oai hùng hy sinh trong một chiến trận cực kỳ ác liệt giữa một quân số địch đông gấp nhiều lần. Tôi nhớ tới anh, nhớ tới những canh xì xưa mà chẳng thà anh chịu thua, vứt tiền lật tẩy, chứ không để thiên hạ chơi nước tố. Tôi nhớ tới anh và vì nhờ anh mà tay tôi chưa bị bọn Mỹ tra còng.
– Minh Đường ơi! Tao không thể quên được những chung trà mà mày pha cho tao hôm trước. Những chung trà “thái đức” mà bao đêm không ngủ. Những sái thuốc phiện lần đầu tiên phập phòng, tắt lên tắt xuống, ói mửa liên hồi, mật xanh mật đỏ. Nhìn trời đất quay vòng mà tưởng mình bên chiếc hang sâu. Tao ước mong tìm lại được những băng xưa để nghe cái giọng “liêu trai” mà tao đã từng phong tặng mày là “Lão Ngoan đồng”. Những lời đọc và phát biểu của mày trên đài phát thanh trôi tuột như giòng thác chảy. Nó trôi tuột nhưng khơi động rầm vang và khơi nguồn kích cảm. Tao vẫn nhớ những chung trà bên mày, nhớ những lúc mày chem chép vành môi sau những ngụm trà sôi bỏng. Tao vẫn thích trà, có lẽ cũng vì mày. Mày đã tạo cho tao một nguồn cảm khoái nâng nâng và nhớ đến mày, tao lại chem chép đôi môi. Không thể quên được những canh xì mà mày đã lật tẩy tao sau những phen dọa tố. Cuối cùng tao cũng không thể quên được những phen cùng mày tán gẫu cô Cẩm hàng xén trứơc cửa Trùng Khánh. Cô có hàm răng đều đặn trắng toát, nụ cười kín đáo thơ ngây và mái tóc dài óng ả. Mày đố tao, tao đố mày: “Ai là người chiến thắng?”. Tao đi rồi, mày có thắng tao không?
– Phan Nhự Thức ơi! Minh ơi! May mắn là tao đã gặp lại mày trong những lúc cuối đời trong quán bún bò Huế của vợ mày bên đường Lý Thường Kiệt. Thân xác mày tả tơi, tâm hồn mày tơi tả. Mày không nhận ra tao nhưng tao nhận ra mày. Bên mày, tao thấy mỉa mai, chua chát sao ấy! Cuộc đời lại bạc bẽo khùng điên thế cơ à! Tao với mày như hai bóng ma trong đêm dài tăm tối, những con sẻ lạc bày cất tiếng chim chíp thảm thương như hồi tao với mày tập diễn Kiều Loan (người điên) của Hoàng Cầm.
Đố ai gỡ được mái nhà
Cho đàn chim sẻ bớt tha buồn về.
Mày bảo tao đóng vai lão giang hồ tinh quái:
Này chủ quán chuốc cho ta một vò mỹ tửu
Rượu không say tao sẽ giết nhà ngươi
Tao với mày chìm đắm trong cơn say, giữa một đêm dài tăm tối. Mày đọc tao nghe, những câu thơ trữ tình đôi khi ai oán nhưng không hờn căm. Đời mày là thơ, không phủi bụi nhơ, từ một sĩ quan tâm lý chiến bé nhỏ đến chủ tịch hội đồng một tỉnh. Lúc nào cũng thế, không phương tiện xa hoa, không bê tha lo lót.
Tao lại về gặp mày, quán bún bò xưa đã biến đâu mất, ngỡ ngàng sao thấy xót xa.
– Tôi lại trở về đây, tìm lại tiếng cười rộn rã, la quát không thôi của một con người tinh thông nhưng hơi phẫn trí. Tại những hàng quán này đây, đã có những lần anh Tạ Ký chở tôi trên chiếc xe lambretta, đôi khi mất má hông. Do bởi té ngã dọc đường sau những cơn say hay bởi những kẻ “đùa dai” tháo gỡ. Hình như đêm nào cũng thế, thủ phủ anh đặt nơi đây, những ly rượi đầy vơi, tuôn trào ngày tháng.
Có những lần tôi vội vã chia tay, việc này, việc nọ. Anh nhắc khéo đôi lời.
Bắt chước tao đây ngồi chợ Đũi
Uống năm, ba chén cho qua ngày
Không tiền gọi chủ ra ghi sổ
Thằng nào trả hộ lại càng hay!
Tôi ghé về đây, nhớ về năm xưa, cáo từ vĩnh biệt. Còn đâu tiếng cười rộn rã của những bạn cũ thuở xưa, còn đâu những chén trà, đêm dài không ngủ, bên những tiếng thi ca. Tôi trở về đây không phải với nụ cười mà là với niềm cô đơn nhung nhớ, nặng nề dấu bước chân lê, như kẻ lạc loài, lâu ngày về thăm quê cũ.
Tôi cầm nén nhang tưởng đoái, làn khói ngút hương, bay cao lên miền xa thẳm, trong lòng tiếng nấc đầy vơi.
Hoàng Ngọc Lễ
Nguồn: http://www.angelfire.com