VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH – Nguyễn Du

VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH

Nguyễn Du

DỰNG ĐÀN GIẢI THOÁT

Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Lọt hơi sương lạnh buốt xương khô

Não người thay bấy chiều thu,

Ngàn lau khảm bạc, giếng ngô rụng vàng

Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Ngọn đường lê lác đác mưa sa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm

Trong trường dạ tối tăm trời đất,

Xót khôn thiêng phảng phất u minh…

Thương thay Thập loại chúng sinh

Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Phận bồ côi lần lữa đêm đen

Còn chi ai khá ai hèn

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu

Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát

Nước tĩnh bình rưới hắt dương chi

Muôn nhờ đức Phật từ bi

Giải oan cứu khổ, hồn về Tây phương

THẬP LOẠI CHÚNG SINH

1. Vua chúa bị giết

Nào những kẻ tính đường kiểu-hạnh

Chí những lăm cướp gánh non sông

Nói chi đang thuở thị hùng

Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau

Bỗng phút đâu tro bay ngói giỡ

Khôn đem mình làm đứa thất phu

Cả giàu sang, nặng oán thù

Máu tươi lai láng, xương khô rã rời

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,

Quỷ không đầu van khóc đêm mưa

Đã hay thành bại là cơ

Mà u hồn biết bao giờ cho tan

2. Quí-nữ liều thân

Nào những kẻ màn lan trướng huệ

Những cậy mình cung Quế Hằng Nga,

Một phen thay đổi sơn hà,

Tấm thân mảnh lá biết là làm sao

Lên lầu cao, xuống dòng nước chảy

Phận đã đành trâm gãy bình rơi

Khi sao đông đúc vui cười

Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương

Thảm thiết nhẽ không hương không khói

Hồn vẩn vơ bãi cói ngàn sim

Thương thay chân yếu tay mềm

Càng năm càng héo, càng đêm càng dàu

3. Tể-thần thất thế

Nào những kẻ mũ cao áo rộng,

Ngòi bút son thác sống ở tay

Kinh luân chất một xải đầy

Đã đêm Quản Cát, lại ngày Y Chu

Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,

Trăm loài ma xắm-nắm chung quanh

Nghìn vàng khôn chuộc được mình

Lầu ca viện xướng tan tành còn đâu

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước

Biết lấy ai bát nước nén hương

Cô hồn thất thưởng dọc ngang

Nặng oan, khôn lẽ tìm đường hóa sinh

4. Đại tướng bại trận

Nào những kẻ bài binh bố trận

Vâng mệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung

Gió mưa thét rống đùng đùng

Phơi thây trăm họ làm công một người

Khi thất thế cung rơi tên lạc

Bãi sa trường thịt nát máu rơi

Bơ vơ góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết vùi vào đâu

Trời xâm xẩm mưa gào gió thét

Khí âm ngưng mù mịt trước sau

Năm năm sương nắng dãi dầu

Còn đâu tế-tự, còn đâu chưng-thường

5. Ham giàu chết đường

Cũng có kẻ tính đường trí phú

Làm tội mình nhịn ngủ bớt ăn

Ruột rà không kẻ chí thân

Dầu làm nên nữa, dành phần cho ai

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ

Của phù vân dẫu có như không

Tuy rằng bạc chảy tiền dòng

Khi đi mang được một đồng nào đi

Khóc ma mướn thương gì hàng xóm

Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm

Thẩn thơ nội rộc đồng chiêm

Tàn hương giọt nước biết tìm vào đâu

6. Ham danh chết quán

Cũng có kẻ muốn cầu chữ quý

Dấn thân vào thành thị bôn ba

Mấy thu lìa cửa lìa nhà

Văn chương đã chắc đâu mà trí thân

Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng

Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng

Anh em : thiên hạ, láng giềng : người dưng

Bóng tang-tử xa chừng hương-khúc

Bãi tha ma kẻ dọc người ngang

Cô hồn nhờ gửi tha hương

Gió trăng hiu hắt, khói hương lạnh lùng

7. Buôn bán chết xa

Cũng có kẻ vào sông ra bể

Cánh buồm dơi chạy xế gió đông

Gặp cơn giông tố giữa dòng

Đem thân vùi rập vào lòng kình nghê

Lại có kẻ đi về buôn bán

Đòn gánh tre chèn-đắn hai vai

Gặp cơn mưa gió, trở trời

Hồn đường sá, biết lạc loài vào đâu

8. Binh lính chết trận

Lại có kẻ mắc vào ngũ lính

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan

Nước bầu cơm ống gian nan

Dãi dầu muôn dặm, lầm than một đời

Trong chiến trận xem người như rác

Thân đã dành đạn lạc tên rơi

Lập lòe ngọn lửa ma trơi

Tiếng oan văng vẳng, tối trời càng thương

9. Kĩ nữ cô đơn

Cũng có kẻ lỡ làng một tiết

Liều tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa

Ngẩn ngơ khi trở về già

Ai chồng con mấy, biết là cậy ai

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa

Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu

10. Chết bởi nghèo nàn tai họa

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất

Dõi những ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc

Gửi thân vào chiếu lác một manh

Gói xương chôn lấp góc thành

Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi

Lại như đứa tiểu nhi tấm bé

Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha

Lấy ai bồng bế vào ra

Ư ư tiếng khóc xót xa nỗi lòng

Cũng có kẻ đắm sông chìm suối

Cũng có người sẩy cũi ngã cây

Có người leo giếng đứt dây

Người trôi nước lụt, kẻ lây cháy thành

Người thì mắc sơn tinh thủy quái

Người thì lăm răng khái ngà voi

Có người có đẻ không nuôi

Có người sinh sẩy, mạng người gian nguy

CẢNH LANG THANG CỰC KHỔ CỦA CÔ HỒN

Mắc phải lúc đi đường lỡ bước

Cầu Nại-hà kẻ trước người sau

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ

Hoặc là ẩn dọc bờ dọc bụi

Hoặc là nương ngọn suối chân mây

Hoặc là bãi cỏ lùm cây

Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ

Hoặc là tựa thần từ, Phật tự

Hoặc là quanh đầu chợ cuối sông

Hoặc là thơ thẩn đồng không

Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre

Mấy thu chịu nhiều bề thảm thiết

Dạ héo khô, gió rét căm căm

Dãi dầu biết mấy trăm năm

Khóc than dưới đất, ăn nằm trên sương

Nghe gà gáy, tìm đường lánh ẩn

Tắt mặt trời, lẩn thẩn tìm ra

Lôi thôi bồng trẻ dắt già

Có khôn thiêng hỡi lại mà chứng minh

CẦU PHẬT GIẢI THOÁT CÔ HỒN

Nhờ Phật lực siêu sinh Tịnh độ

Phóng hào quang cứu khổ độ u

Khắp trong tứ-đại-bộ-chu

Não phiền thoát sạch, oán thù rửa trong

Đạo Vô thượng thần thông quảng đại

Chuyển pháp luân tam giới thập phương

Nhơn nhơn Tiêu Diện quỉ-vương

Linh kỳ một lá dẫn đường độ sinh

Nhờ Phật lực uy linh dũng mãnh

Trong giấc mê, phút tỉnh chiêm bao

Mười loài là những loài nào

Gái trai già trẻ cũng vào nghe kinh

Kiếp phù sinh như hình bào ảnh

Có câu rằng: Vạn cảnh giai không

Ai ơi lấy Phật làm lòng

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi

MỜI CÔ HỒN HƯỞNG LỄ

Đàn chẩn tế theo lời Phật giáo

Có vật gì, lưng cháo nén hương

Gọi là manh áo thoi vàng

Giúp cho làm của ăn đàng siêu thiên

Ai tới đó, dưới trên ngồi lại

Lấy chút lòng, chớ ngại bao nhiêu

Phép thiêng biến ít ra nhiều

Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh

Phật hữu tình từ bi tế độ

Chớ ngại rằng có có chăng chăng

Nam-mô PHẬT, Nam mô PHÁP, Nam mô TĂNG

Nam mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.

(Hết)

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

%d người thích bài này: