KIM THANH Apollinaire: chờ nhau qua chi chết…
LUÂn HOÁN
Hôm nay mưa nhẹ như mưa thu, thật buồn, mời các bạn đọc một bài viết rất đáng đọc và nghe ca khúc Mùa Thu Chết của nhạc sĩ Phạm Duy, có liên quan đến bài viết này (KT có nhận định trực tiếp, tùy nghi quí bạn suy ngẫm nhận định về những nhận định – người hát ca sĩ Lệ Thu).
+
KIM THANH
Apollinaire: chờ nhau qua cõi chết
@
1. Apollinaire (1880-1918) không phải là thi sĩ quen thuộc đối với độc giả Việt Nam, và cả người Pháp trung bình, so với Lamartine hay Victor Hugo, chẳng hạn. Người ta biết ông nhiều qua bài “Le pont Mirabeau” phổ quát, dễ hiểu, loại trữ tình, bi ca (élégie), mà học sinh trung học nào cũng phải thuộc. Tuy nhiên, một bài thơ khác của ông cũng hay không kém, hoặc hơn, nhưng ít ai nhắc đến, trừ trong sách nghiên cứu -nhất là ở Việt Nam, mặc dù đã được một ông nhạc sĩ lấy dịch làm thành ca khúc.
Đó là bài “L’adieu.” Sự vĩnh biệt, bởi mạo từ (article) l’. Chứ không phải vĩnh biệt, “Adieu” -¬thán từ (interjection) chia ly, như tựa đề một bài thơ văn xuôi của Rimbaud1 . Đầu đề “L’adieu”, tự nó, báo trước sẽ kể một chuyện tình buồn, chia lìa lứa đôi. Bài thơ rất ngắn, như sau:
1. J’ai cueilli ce brin de bruyère
2. L’automne est morte souviens-t’en
3. Nous ne nous verrons plus sur terre
4. Odeur du temps brin de bruyère
5. Et souviens-toi que je t’attends (tôi đánh số và in đậm)
đã được hiểu, và dịch, từ trước đến nay bởi đa số độc giả như lời độc thoại của một nhân vật duy nhất:
1. Anh đã hái cọng thạch thảo này
2. Mùa thu đã chết em hãy nhớ
3. Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
4. Mùi thời gian cọng thạch thảo
5. Và em hãy nhớ rằng anh chờ em2
Bài thơ được trích từ Alcools (Tửu thi, 1913), thi tập đầu tiên xuất bản của Apollinaire, gồm những bài đã đăng rải rác trên các báo từ 1898 đến 19123. Ông sống cùng thời với các họa sĩ lập thể và được xem như người tiên phong của Phong trào Siêu thực (Mouvement Surréaliste), hô hào giải phóng thi ca, đi tìm “cái chưa biết” (l’inconnu), “ngôn ngữ mới” (nouveau langage) bằng những sáng tạo độc đáo, gây ngạc nhiên với hình ảnh táo bạo, nếu không muốn nói lập dị, và lời thơ giàu nhạc điệu4. Tuy vậy, ông không được André Breton, thủ lãnh phong trào, và văn học sử công nhận là một thi sĩ siêu thực chính hiệu, vì thơ ông tổng hợp nhiều thể điệu và thể loại khác nhau, kể cả tượng trưng (cf. Signe, Cors de chasse). Như bài “L’adieu” trên, bên ngoài có vẻ “tự do” bởi xóa bỏ các dấu chấm câu (phát minh đầu tiên trong thi ca Pháp), thực ra chỉ là một trong những bài “ngũ cú bát ngôn” (quintil d’octosyllabes) với qui luật nhất định và cách hiệp vận bắt buộc ABAAB, mà độc giả từng gặp ở Baudelaire5.
“L’adieu” được đăng lần đầu trong báo “Le Festin d’Ésope”, số 2, tháng 12, 1903, cách đây (2006) đúng 103 năm. Khởi thủy được viết dưới dạng đối thoại giữa hai người, với ngoặc kép, dấu chấm câu, một khoảng trống sau câu 3, và nội dung câu 2, 4 khác với bản hiện tại. Câu 1-3 dành cho người sống nói (chàng, anh?), và 4-5 là của người chết hoặc sắp chết (nàng, em?):
“Anh đã hái cọng thạch thảo này.
Em hãy đặt nó trên tim em lâu hơn
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời”.
“Em đã đặt hoa thạch thảo trên tim em,
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh”.
Hai câu 2, 4 trên, thi sĩ thấy tầm thường, nên đã thay bằng “Mùa thu đã chết em hãy nhớ” và “Mùi thời gian cọng thạch thảo” khi đăng lại trong “Vers et Prose”, bộ XXXI, tháng 10-11, 1912, và nhờ vậy bài thơ bỗng biến hình, trở nên diễm tuyệt. Dấu ngoặc kép và chấm, phết bị bỏ, nhưng vẫn còn khoảng trống sau câu 3 để giữ lại thể đối thoại6. Bản in trong Alcools -cũng là bản chính thức, vĩnh viễn- nhập chung lời hai người, như ta thấy, để độc giả muốn hiểu, hoặc tưởng tượng, sao cũng được. Và chính cái mơ hồ, mông lung đó tạo cho bài thơ nét đẹp cô đọng tuyệt vời và điệu buồn man mác, ngất ngây. Vấn đề của độc giả Việt Nam là cần biết lai lịch và hiểu rõ nội dung bài thơ mới dịch đúng hai đại danh từ (pronom) je và tu: anh trở thành em, và ngược lại.
Đối thoại hay độc thoại không là thắc mắc đối với dân Tây: họ hiểu một cách tự nhiên, qua mạch thơ, rằng “L’adieu” kể về hai người phải xa cách nhau trên cõi đời này bởi cái chết, hơn là do mối tình tan vỡ: chàng vào nghĩa trang thăm nàng, cả hai tâm sự (dĩ nhiên chỉ trong trí tưởng của chàng, như những lời độc thoại không dứt), giữa cảnh thu tàn, đìu hiu và hoang vắng với những cành hoa thạch thảo mọc quanh mộ nàng.
Và ta thử dịch lại, với khoảng trống tưởng tượng sau câu 3 -đã có trước kia- như lời đối thoại giữa hai người:
Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh
Ở tiếng Việt, khác với tiếng Pháp, câu cuối thay đổi cách xưng hô đột ngột như vậy làm độc giả thấy bỡ ngỡ. Nhưng thay đổi rất hợp lý. Vì đó là ý của thi sĩ, ít ra từ lúc đầu, như ta biết. Và vì nếu chính chàng nói je t’attends (anh chờ em) sau khi bảo nous ne nous verrons plus sur terre (chúng ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời) thì hóa ra tự mâu thuẫn, ngoại trừ chờ em ở một nơi nào bên kia thế giới. Mà dù bên kia thế giới, chàng cũng không thể nói câu đó được. Phải là nàng. Em chờ anh, để tái hợp dưới chốn tuyền đài. Chỉ người chết mới chờ người sống. Ngược lại, sẽ là chuyện liêu trai.
Có thể, đơn giản hơn, em chờ anh đến thăm em, tại nghĩa trang này, như Victor Hugo, trong bài “Demain, dès l’aube…”, buổi sáng khi sắp đi viếng mộ con gái, Léopoldine, cũng nói biết cô đang chờ ông7: “Demain, dès l’aube, à l’heure où blanchit la campagne / Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends (…)” (Ngày mai, từ rạng đông, vào giờ cánh đồng phủ trắng / Cha sẽ ra đi. Con thấy không, cha biết con đang chờ cha)…
Về “L’adieu”, vài nhà bình luận nêu giả thuyết rằng hai tình nhân chia tay vì đã hết yêu nhau. Nhưng nghĩ cho cùng thấy không ổn. Vì vĩnh biệt là ra đi, một khởi hành mới, nhưng ra đi đâu phải lúc nào cũng có nghĩa là tình đã mất -điều lại càng không xảy ra ở bài thơ này8. Mà giả sử tình đã hết và bắt buộc xa nhau trọn đời (sur terre) thật rồi thì còn tiếc nuối gì để phải thốt lên anh chờ em một cách kỳ quặc, nếu không nói lẩm cẩm như vậy? Rồi ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời: không trên đời này, thì còn ở đâu khác, ngoài cõi âm?
Một chi tiết cần nhắc tới -một lỗi văn phạm “quả tang”, rành rành- trong câu
2: L’automne est morte… Trong thế kỷ XVII, ta biết, automne có hai giống (genres), vừa masculin (đực) vừa féminin (cái). Từ sau đó, theo tự điển, luật văn phạm hiện hành, và dựa trên nguyên chữ Latin, autumnus, m, chữ automne bắt buộc chỉ được dùng ở giống đực. Học sinh nào viết sai giống, là bị trừ điểm. Nhưng ở đây động từ est morte lại được Apollinaire chia ở giống cái. Vô lẽ ông không biết? Hay ông cố tình phạm lỗi -dễ dàng được “tha” vì là một nhà thơ? Phải chăng thi sĩ muốn nhân cách hóa, và đồng hóa, mùa thu với người yêu, và như vậy, trong bài thơ, mùa thu đã chết (tức người yêu đã chết) mới có giá trị đặc biệt đến nỗi phải nhớ đến cùng với cọng thạch thảo? Tại sao không, vì trong một bài khác, “Signe”, ông cũng đặt Automne (A hoa) ở giống cái cùng với tĩnh từ éternelle, để dùng -chỉ hai lần trong suốt tập Alcools- như ẩn dụ cho nàng: Mon Automne éternelle ô ma saison mentale (Mùa Thu vĩnh cửu của tôi ôi mùa trí tưởng của tôi)? Tương tự Gérard de Nerval, trước ông, trong bài “El Desdichado” (Kẻ bất hạnh) tuyệt hay, cũng đã gọi người tình khuất xa là étoile (vì sao): Ma seule étoile est morte, -et mon luth constellé / Porte le soleil noir de la Mélancolie (Vì sao duy nhất của tôi đã chết, và cây đàn tỳ bà lấp lánh của tôi / Mang mặt trời đen của nỗi Muộn Phiền)9.
2. Bài “L’adieu” đầy thơ đầy mộng, ít phổ thông này của Apollinaire đã được nhà soạn ca khúc tài danh Phạm Duy dịch ra, từ lâu, thành “Mùa thu chết” rất quen thuộc trước đây, được nhiều người ưa chuộng. Như sau:
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi
Em nhớ cho, em nhớ cho
Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ… đợi em10
Theo thiển ý, nhạc rên siết, nghe thảm não. Nội dung nghèo nàn, thành ra tầm thường. Lời ca xúc động thái quá, hóa nên giả tạo (văn chương gọi là pathos), so với nỗi đau nghẹn ngào, chơi vơi mộng ảo, làm tan nát cõi lòng, từ mỗi câu, mỗi chữ của “L’adieu”. Nhưng rõ ràng Phạm Duy đã dịch từ bài thơ, dù đôi chỗ ông phóng bút “quá tay”, thêm thắt hoặc bỏ đi vài chữ -mà có lẽ ông không thấy tầm quan trọng- cho hợp với dòng nhạc và nhận thức riêng. Ông không phóng tác, lấy ý, hoặc gợi hứng theo, như nhiều người vẫn nghĩ, và chính ông tự thổ lộ11. Vì rằng, nếu không biết bài thơ, và nếu không bị đánh lừa, quyến rũ bởi giai điệu, người ta không chắc đã hiểu bài ca muốn nói gì với cụm thạch thảo, với mùa thu đã chết rồi, với hương thời gian, từ đâu, tự nhiên gom lại đứng chung với nhau một cách vô cớ (gratuit) như thế. Quả thực, nội dung “Mùa thu chết” không có gì khác với “L’adieu”. Cũng bấy nhiêu ý tình, bấy nhiêu từ ngữ, bấy nhiêu hình ảnh, bấy nhiêu sầu biệt ly. Ngoại trừ bài thơ ngắn, bề ngoài tưởng dễ này đã chưa được hiểu đúng mức, hoặc chuyển ngữ một cách cẩn trọng. Ngoại trừ, trong bài ca, chữ ta, đối với em, trịch thượng, theo truyền thống “nam phiệt” (macho) của các thi nhạc sĩ Việt Nam -truyền thống cần xét lại dưới ánh sáng phân tâm học12.
Không ai đòi hỏi một nhạc sĩ, bị gò bó bởi cung bậc, phải dịch đúng bản chính. Càng không bắt phải hiểu một bài thơ như người khác, hoặc chính mình, hiểu (miễn sao có lập luận vững chắc), vì nếu ai cũng bình giảng một kiểu, thì còn gì độc đáo, hấp dẫn? Nhất là trong thơ của Apollinaire -khác với, chẳng hạn, của Victor Hugo, “chân phương” hơn- người ta không thấy đâu biên giới giữa thực và hư, sống và chết, lý trí và con tim; tất cả xóa nhòa theo cảm xúc của thi nhân và của riêng từng người đọc, như ở bài “L’adieu” này13. Tuy nhiên, đã gọi là dịch, dù ít dù nhiều, dù thoáng dù sát, thì tối thiểu những nét căn bản của nguyên văn phải được tôn trọng, nếu không, bài thơ sẽ biến dạng, giảm giá trị. Ví dụ hai câu đầu trong “Mùa thu chết”:
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa thu đã chết rồi!
tuy được dịch -không phỏng theo, xin nhắc lại- từ:
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
(Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ)
vẫn có những điểm dị biệt quan trọng: thì quá khứ (passé composé) của động từ ai cueilli (đã hái), và chỉ thị tĩnh từ (adjectif démonstratif) ce (có thể là này, this, hoặc đó, that, hoặc cả hai, tùy theo cách diễn giải) biến mất trong Phạm Duy, để được thay bằng ta ngắt đi khơi khơi, không chỉ rõ thời gian, và thay ce bằng bất định quán từ (article indéfini) một cụm (một cụm khác với cọng này lắm chứ!)
Bài thơ mở ra trên một kỷ niệm -điều, rất tiếc, không thấy có trong lời ca. Thử dựng nên một phân cảnh (scénario): thi sĩ nói chuyện với người khuất mặt, chỉ cho nàng cọng thạch thảo này (hiện tại) chàng mới hái cầm trong tay -như cọng thạch thảo đó (quá khứ) mà trước kia chàng đã hái, một lần nào, với nàng trong ngày cuối thu- để nhắc nhở nàng cả hai sự việc cùng được hàm chứa trong đại danh từ en
điều đó): hái cọng thạch thảo và mùa thu đã chết đều thuộc về quá khứ và liên quan mật thiết với nhau (j’ai cueilli ce brin de bruyère đi liền với l’automne est morte, và souviens-t’en đứng sau cùng để muốn nàng nhớ cả hai việc, trong khi Phạm Duy, vì không thấy sự liên quan ấy, lại cho em nhớ cho chen vào giữa, ngăn đôi hai vế cụm thạch thảo và mùa thu đã chết rồi). Như vậy, brin de bruyère -cọng thạch thảo, có vai trò thiết yếu trong bài thơ- làm sống dậy cả một dĩ vãng, như chiếc bánh “madeleine” chấm vào tách trà tỏa thơm đã khởi động trí nhớ của Marcel Proust trong hành trình đi tìm thời gian đã mất14. Thiết yếu đến nỗi, ở câu 4, brin de bruyère được lặp lại bởi nàng, lần này với odeur du temps cùng tượng trưng cho kỷ niệm như l’automne est morte ở câu 2, và đã hiện diện, ta biết, ngay trong các bản in đầu tiên.
Tách rời hai sự việc trên, như nhạc sĩ đã làm, người ta không thể hiểu tại sao khi ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo thì em nhớ cho mùa thu đã chết rồi. Dường như Phạm Duy chỉ chú trọng đến l’automne est morte, mà quên ce brin de bruyère, nên đã dành trọn ba câu ca tiếp cho mùa thu đã chết rồi (ba lần) và van nài (ca sĩ hát nấc lên thảm thiết đoạn này) em nhớ cho (ba lần). Chữ cho bày tỏ sự thiết tha năn nỉ (tại sao phải năn nỉ đến thế nhỉ?), trong khi souviens-t’en có cùng “rime masculine”15 với t’attends, ở câu 5, đọc nghe vang vọng lời yêu thương ray rứt hay tiếng thổn thức gợi sầu miên man. Mà mùa thu đã chết rồi (tức đông sang, theo diễn nghĩa khách quan), nếu bị tách khỏi mạch thơ thì có gì để phải nhớ đến một cách cường điệu, lộ liễu như vậy? Hay Phạm Duy cũng muốn, như Apollinaire, xem trong mùa thu đã chết hình ảnh của một người tình đã mất, nhưng bỗng nhiên hóa nên thảm sầu hơn (và, bởi vậy, nghe kỳ quặc hơn chăng)?
Thêm nữa, về từ vựng (vocabulaire), cũng không đúng lắm. Cueilli có nghĩa ngắt hoặc hái. Nhưng ngắt không thể dùng cho cụm. Rồi tại sao ngắt đi? Chữ đi ở đây mang nghĩa xấu (péjoratif), tiêu cực: ngắt để vứt đi cho rồi, biểu lộ sự bực dọc, khó chịu, miễn cưỡng16. Rồi làm sao brin lại biến thành cụm (cọng hay cụm đều hợp với nốt nhạc kia mà)? Rồi ngắt cả một cụm để làm chi? Hình thù hoa thạch thảo đâu cho phép dùng cụm, mà chỉ cành hoặc cọng thôi17. Trong câu thơ, không phải ngẫu nhiên mà brin, tức cọng (như brin d’herbe, brin de paille, cọng cỏ, cọng rơm), được dùng: cọng ở đây là ẩn dụ cho sự đơn lẻ, như hoàn cảnh của thi sĩ và người xa cách, mong manh như kỷ niệm và cuộc tình giữa hai người ngay từ trong quá khứ (ai cueilli). Lại nữa, theo phép điệp vận (allitération), trong brin de bruyère, nối kết hai phụ âm (consonnes) [b] (môi, labiale) + [R] (lưỡi, linguale), được lặp lại hai lần, gợi nên lời buồn vời vợi, thì thầm, như tiếng lá hoa xào xạc, thích hợp với không khí nghĩa trang và nỗi lòng thi sĩ. Đó chưa kể âm mũi (nasale) -in trong brin, cũng như -iens và -en trong souviens-t’en của câu kế, nghe đượm nước mắt18. Làm sao chuyển được các âm sắc ấy, hoặc tương tự, vào bài hát Việt mới là tài, thay vì bắt ca đi ca lại những câu rỗng ý, vô vị theo đòi hỏi của âm giai. Người ta tin Phạm Duy dư khả năng làm việc đó -điều mà ông chứng tỏ qua những ca khúc khác, bài “Nếu một mai em sẽ qua đời”, chẳng hạn, cũng phổ thơ và cùng nội dung chia ly- nếu ông chịu khó nghiên cứu bài thơ kỹ hơn, dù để dịch, “mượn”, hoặc chỉ phóng tác, lấy hứng.
Ta hãy nghe tiếp bài hát:
Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Bốn câu ca dài, thừa thãi, để chỉ dịch quanh một câu thơ nhẹ nhàng, súc tích:
Nous ne nous verrons plus sur terre (Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời).
Chỉ một câu thơ cũng đủ làm vỡ nát trái tim rồi, cần gì phải hát vòng vo? (Nous) verrons là thì tương lai (temps futur) của se voir, và se voir không có nghĩa nhìn nhau (phải là “se regarder”), mà thấy nhau. Ngay trong Việt ngữ, nhìn cũng đã khác lắm với thấy. Phạm Duy, dĩ nhiên, không thể nào không biết điều sơ đẳng ấy. Chẳng qua, tôi đoán, ông phân vân không biết nên hiểu câu thơ và ý của thi sĩ -mặc dù đã quá rõ với nous ne nous verrons plus- theo hướng nào trước sur terre là nhóm chữ mà ông nghĩ có thể áp dụng cho cả hai trường hợp: vĩnh biệt nhau trên cõi đời này vì bỏ nhau (sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa), hay cách ngăn bởi cái chết (mãi mãi không thấy nhau). Cho nên ông dịch se voir ra hai động từ (nhìn nhau và thấy nhau) cho “chắc ăn” chăng? Có thể lắm! Nhưng đã chẳng còn nhìn nhau nữa thì kết quả hiển nhiên là mãi mãi không thấy nhau, có gì lạ mà phải nói ra đến hai lần? Rồi tại sao đặt thêm cái mốc từ nay cho thời gian vĩnh biệt mà Apollinaire cố tình bỏ lửng, lãng đãng khói sương?
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
để dịch, gần nguyên văn:
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
(Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh)
Hai câu đáp của nàng, trong Apollinaire, dĩ nhiên do chàng tưởng tượng, được nối kết bởi chữ et (và). Odeur nghĩa là mùi. Nếu là hương, thì đã có chữ “parfum”. Hương thời gian, như ta biết, chỉ là sáo ngữ trong thi ca Việt Nam -bắt buộc thời gian luôn luôn phải thơm, không hiểu tại sao và để làm gì19. Trong câu thơ, odeur du temps (mùi thời gian) có một ý nghĩa đặc biệt: thời gian của Apollinaire bao trùm quá khứ -nhất là quá khứ- tức kỷ niệm (với hai động từ ai cueilli và est morte ở “passé composé”), tương lai (verrons, “futur”), và hiện tại (attends, “présent”). Một đời, như trong Marcel Proust. Hay một cuộc tình, ở đây. Nghĩa là (quá) dài lâu. Mùi, vì vậy, trung tính, khách quan, thơm hay không là do cảm nhận của người trong cuộc. Mùi thời gian trong bài thơ, đó là sự cô đơn, cách xa, buồn đau, là kỷ niệm hiện về cùng với cọng thạch thảo và mùa thu chết trong nghĩa trang vắng lạnh, là lãng quên và chờ đợi mỏi mòn. Mùi thời gian, như vậy, không cay đắng, hư mốc thì thôi, làm sao mà ngát hương cho được? Cho nên, khi nhắc đến mùi thời gian và cọng thạch thảo, nàng phải bảo chàng rằng em đang chờ anh đây. Chờ anh đến thăm em tại nghĩa trang này, hay về cùng em nơi chín suối.
Một điểm cần nói thêm. Cũng như trường hợp động từ se voir, Phạm Duy muốn được “an toàn” với chữ odeur vì có lẽ, một lần nữa, không rõ dụng ý của thi sĩ, nhưng vẫn muốn trung thành với nội dung bài thơ: ông dịch odeur ra thành hai chữ, hương cho thời gian, nhưng mùi cho thạch thảo, thế nào cũng trúng một (giá ông đổi lại: mùi cho thời gian, hương cho thạch thảo, sẽ hay và đúng biết mấy!) Quả vậy, về mặt cấu trúc và văn phạm, trong câu thơ “suôn đuột”, thiếu chấm, phết trên, chữ odeur có thể (có thể thôi) hợp với cả temps lẫn brin de bruyère (thử viết đầy đủ: odeur du temps et du brin de bruyère). Nhưng dựa trên mạch thơ, người ta lại nghĩ khác: cọng thạch thảo được nhắc, lần này cùng với thời gian, như một kỷ niệm, một ám ảnh, tự nó đã là yếu tố quan trọng, độc lập, không cần hương hay mùi kèm theo. Cho nên odeur có lẽ chỉ thuộc về temps mà thôi.
Về câu ca chót. Chữ vẫn (trong ta vẫn chờ em) dư, được nhạc sĩ chế ra, và bắt ca đi ca lại; vì vậy làm hỏng ý thơ và rắc rối thêm nội dung bài hát vốn đã khó hiểu rồi. Nàng nói je t’attends, em chờ anh (muốn dùng “vẫn” thì có “encore” hay “toujours”) mà không nhốt sự chờ đợi vào khung thời gian nhỏ hẹp nào. Je t’attends của Apollinaire là câu nói cho một hiện tại vĩnh cửu, rộng đầy, luôn luôn mới, vượt trên quá khứ, vị lai. Một thiên thu. Mênh mông như niềm đau và nỗi mong chờ.
3. Trên tạp chí “Thế Giới Ngày Nay” (TGNN) năm 2003, nhà báo nổi tiếng Nguyễn Văn Chức có viết một bài về cả “L’adieu” và “Mùa thu chết”20. Tuy chỉ bình luận qua, nhân về một đề tài khác, ông cũng nêu hai “cái sai” vừa nhỏ vừa lớn của Phạm Duy. Nhỏ, câu 1 của “L’adieu”: Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo. Nguyễn Văn Chức phân tích, rất chính xác, động từ ngắt đi và danh từ cụm -mà ông nói nhạc sĩ đã dịch sai. Nhưng chính ông lại không đúng khi thay chữ cụm bằng chữ nhánh. Vì, hiển nhiên, nhánh (hay cành) phải là “branche”, không thể brin, trong bài thơ này và ở mọi trường hợp.
Và đây là “cái sai lớn của Phạm Duy”, câu 3, về động từ se voir, được ông nhạc sĩ dịch ra nhìn nhau và thấy nhau -mà cả hai, theo Nguyễn Văn Chức, đều không đúng. Ông Chức viết: “Tiếng Pháp ‘se voir’ không có nghĩa là nhìn thấy nhau hoặc trông thấy nhau, mà có nghĩa là ‘se rencontrer’ (gặp nhau), hoặc ‘se fréquenter’ (lui tới nhau, đi lại với nhau). Gặp nhau, lui tới nhau, trong bài L’Adieu [sic] còn có nghĩa là âu yếm nhau, ái ân với nhau”, t.43. Thật vậy sao? Động từ se voir “không có nghĩa là trông thấy nhau” ư? Dĩ nhiên, se voir có thể hiểu là “se rencontrer”, hoặc “se fréquenter”, như ông nói, nhưng còn tùy theo câu văn, mạch thơ, trạng huống. Trong trường hợp “L’adieu”, ông đã đi quá xa, quá trớn, hơn cả Phạm Duy. Vì rằng, nếu giữa khung cảnh biệt ly não nùng hay trong nghĩa trang lạnh lẽo câu thơ nous ne nous verrons plus sur terre còn có nghĩa “chúng ta sẽ không còn âu yếm nhau, ái ân với nhau”, như ông Chức viết, thì chàng -nhân vật của bài thơ- quả có bệnh, hoặc bị ám ảnh bởi Mê Hồn Ca của Đinh Hùng:
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?21
Điều này cho thấy Nguyễn Văn Chức hiểu bài thơ theo hướng khác, nghĩa là một trong những cuộc chia tay rất bình thường, và tầm thường, của những người chán nhau, không như Phạm Duy, dầu sao, còn ngập ngừng trước sur terre, như vừa phân tích, với kiểu dịch “nước đôi” ở trên.
Quả vậy, ta hãy nghe ông nhà báo giới thiệu “L’adieu”: “Theo sách vở và truyền tụng, Apollinaire viết bài thơ nói trên để vĩnh biệt người yêu (nàng Marie Laurencin), kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” (cf. TGNN, t.43). Đúng là nàng Marie Laurencin bị oan Thị Kính! Vì theo tiểu sử (chứ không phải “truyền tụng”) rải rác tên những người Apollinaire đã yêu, thường là đơn phương, và “sách vở” của những nhà nghiên cứu, thi sĩ chỉ gặp Marie Laurencin, qua trung gian của danh họa Picasso, bạn chung, vào năm 1907, và bị nàng bỏ rơi năm năm sau (và dĩ nhiên làm gì có chuyện vĩnh biệt “kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” -nghe có vẻ cải lương), mà bài thơ “L’adieu” thì, như ta biết, đã được đăng năm 1903, bốn năm trước, thời gian ông si mê, theo đuổi các bóng hình khác, đầu tiên là Marie Dubois ở Stavelot (Bỉ)21.
Nhưng thiết nghĩ cũng không cần nêu tên tuổi nàng nào. Quả vậy, “L’adieu” bây giờ không thuộc riêng ai nữa, đã vượt không gian và thời gian để trở thành muôn thuở, dành cho những đôi lứa “bên trời lận đận” còn mãi mãi yêu nhau. Và đang chờ nhau qua cõi chết.
CHÚ THÍCH
(1) Trong “Une saison en enfer” (Một mùa dưới địa ngục), 1873. Bài thơ của Rimbaud, gồm những ý nghĩ rời về cuộc đời, quan niệm thi ca…, mở đầu bằng câu: “L’automne déjà!” (Mùa thu rồi đấy!). Trong bài “Zone” của Apollinaire, người ta còn đọc: Adieu Adieu / Soleil cou coupé. Bài “L’adieu” trích ra từ tập Alcools, Gallimard, 1944, với tựa đề được viết chính xác như thế, không phải “l’Adieu” hoặc “L’Adieu” theo một số người (có nhà báo Nguyễn Văn Chức).
(2) Sinh viên Mỹ các lớp Văn chương Pháp và đa số độc giả Việt Nam, kể cả nhạc sĩ Phạm Duy của “Mùa thu chết” và nhà báo Nguyễn Văn Chức của bài viết “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo…” (trong “Thế Giới Ngày Nay”, số 178, tháng 3- 4, 2003), đều cho hai câu 4-5 là do nam nhân vật nói và dịch theo ý hướng đó. Ví dụ, Nguyễn Văn Chức đã dịch câu cuối: Và em hãy nhớ anh đang chờ em. Ngoài ra, trong “Cỏ Thơm” (Tam cá nguyệt san Văn học Nghệ thuật Biên khảo, chủ nhiệm: Lưu Nguyễn Đạt, Fairfax, VA, số 6, 1997, t. 162) dịch giả Hồng Bào đã “chuyển ngữ” bài thơ của Apollinaire như sau: Anh vừa hái nhánh hoa sim / Mùa thu đã chết im lìm từ lâu / Ta không còn được thấy nhau / Sống chung trên cõi địa cầu ấm êm / Thời gian còn ngát hoa sim / Biết chăng anh vẫn chờ em mỏi mòn.
(3) Trong Alcools, thấy xuất hiện tất cả các chủ đề của thế giới thơ Apollinaire: hình ảnh sống động của cuộc đời được chụp hoặc gợi nhớ bằng kỷ niệm, trạng thái tâm hồn, bốn mùa, đàn bà, tình yêu-độc tố, tiên nữ và ngư nhân, ám ảnh bởi thời gian như nước trôi qua cầu, v.v… Có tám bài về sông Rhin, Đức (cf. Rhénanes), rất đặc sắc: Le mai le joli mai en barque sur le Rhin (Mai) (Tháng năm tháng năm xinh đẹp đi thuyền trên sông Rhin). Thi tập Alcools lấy nguồn cảm hứng và kết thành từ mối tình tuyệt vọng, dai dẳng, đau khổ thi sĩ dành cho Annie Playden, cô giáo người Anh: Et ma vie pour tes yeux lentement s’empoisonne (Les Colchiques) (Và cuộc đời tôi cho đôi mắt em từ từ bị tẩm độc).
(4) Sống vào thời kỳ tàn lụn của thi ca Tượng trưng, và trước phong trào Siêu thực đang mở ra, Apollinaire hiểu được giá trị của tiếng thơ vọng lên từ tiềm thức, thi điệu tự nhiên, lời thơ tự động (écriture automatique), những phối hợp tâm lý ngẫu hứng -tất cả làm nền cho thơ Siêu thực mà ông tích cực hỗ trợ. Tuy nhiên, so với các thi sĩ siêu thực chính hiệu, Apollinaire còn rất dễ hiểu, và những bài thơ hay nhất của ông, theo thiển ý, vẫn là những bài mang hơi hướng cổ điển, tượng trưng, kể cả trữ tình. “L’adieu” là một ví dụ, cùng với “Le pont Mirabeau” và nhiều bài khác. Còn Nguyễn Văn Chức, cũng trên bài báo đã dẫn, t.43, viết rằng Apollinaire đã “đưa nền thi ca Pháp từ trường phái biểu tượng (symbolisme) đến trường phái siêu thực (surréalisme)”. Sự thật, văn học sử và cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ (ông chết, lúc mới 38 tuổi, bởi dịch cúm Tây Ban Nha, năm 1918, đã giết hàng triệu người ở Âu châu) phủ nhận vai trò của ông trong việc dẫn dắt hai “trường phái” (école? chữ này, trong sách Pháp, chưa thấy dùng cho Siêu thực và Tượng trưng, chỉ có mouvement, phong trào). Về công lao của ông, như Nguyễn Văn Chức hàm ý, nếu có đối với phong trào Siêu thực mới phôi thai, cũng như của Rimbaud hay Nerval trước ông, không quan trọng như vậy, so với thủ lãnh Breton. Quả thế, Apollinaire, Rimbaud, hay Nerval, ít nhiều chỉ là những người tiên phong (cf. Jeanine Moulin, trong Guillaume Apollinaire, Droz, 1952).
(5) A: bruyère B: souviens-t’en A: terre
A: bruyère B: t’attends
Một số thi sĩ trước Apollinaire, hoặc đồng thời, đã làm lối thơ này, ví dụ Baudelaire, Verlaine, Laforgue, v.v… Trích một bài của Baudelaire:
Que m’importe que tu sois sage? A
Sois belle! et sois triste! Les pleurs B
Ajoutent un charme au visage A
Comme le fleuve au paysage; A
L’orage rajeunit les fleurs. B
(Madrigal triste)
Do đó Breton, trong “Manifeste” (Tuyên ngôn) về phong trào Siêu thực, trách cứ Apollinaire đã không dám “hy sinh những phương tiện văn chương tầm thường” (“…sacrifié de médiocres moyens littéraires”), ám chỉ các loại thơ có qui luật, và [Apollinaire] “chỉ được có mỗi cái chữ, đã vậy vẫn không hoàn hảo, của siêu thực” (“…possédé… que la lettre, encore imparfaite, du surréalisme”) (cf. Roger Lefèvre, Alcools, nxb Larousse, 1965, t.21).
(6) Nguyên văn bài “L’adieu” đăng trong “Le Festin d’Ésope”:
“J’ai cueilli ce brin de bruyère.
Mets-le sur ton coeur plus longtemps
Nous ne nous verrons plus sur terre”.
“J’ai mis sur mon coeur la bruyère
Et souviens-toi que je t’attends”.
(trích lại từ Œeuvres poétiques d’Apollinaire, La Pléiade, t.1054.)
Về lai lịch bài thơ, có rất nhiều tài liệu. Bài viết này dựa trên các sách tiêu biểu như:
– Œuvres poétiques d’Apollinaire do André Billy viết tựa, Marcel Adéma và Michel Décaudin tuyển chọn, ghi chú, La Pléiade, Editions Gallimard, 1965, Notes, t.1054.
– Le dossier d’Alcools của Michel Décaudin, Librairie Minard, Paris, 1965, t.139.
– La poésie partout của Anna Boschetti, Collection Liber, Seuil, 2001, t.63.
– Guillaume Apollinaire – Alcools của Marie-Jeanne Durry, 3 quyển, SEDES, Paris, 1964, t. 119, 154, 172-174 (q.2), 70-71, 74 (q. 3).
– Alcools, dịch bởi Anne Hyde Greet, U. of California Press, Berkeley and Los Angeles, 1965, Notes, t.88-89.
(7) Trong Les Contemplations (1856). Hai câu cuối của bài thơ như sau:
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
(Và khi đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ con
Một bó ô-rô xanh và thạch thảo nở hoa)
Vì sự hiện diện của bruyère và khung cảnh nghĩa trang trong cả hai bài thơ, người ta thắc mắc không biết thi sĩ của chúng ta có chịu ảnh hưởng của Victor Hugo trong bài “Demain, dès l’aube…” cảm động này không. Hoặc chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên. Bruyère (“heath”, hay “heather” trong tiếng Anh) là một loại cây có hoa tím hoặc hồng, thơm, thích sống ở đất “siliceux” (đá cứng, bởi vậy mới gọi
bruyère / heather / thạch thảo
thạch thảo?) tạo nên vùng “lande” (Thanh Nghị dịch là “truông”) hoang dại, rất đặc biệt ở Pháp. Trong thơ Pháp, đến bây giờ, ngoài “L’adieu”, người ta chỉ gặp chữ bruyère hai lần nữa với bài trên của Hugo, và một bài khác không quan trọng của Apollinaire. Tại Việt Nam, Phạm Duy có lẽ là người đầu tiên nói đến thạch thảo. Trong “Văn Nghệ Tiền Phong”, số 410, 16-28/2/1993, t.62-66, có một truyện ngắn của Thảo Như -mà nội dung, tôi đoán, phóng tác theo ngoại quốc hoặc lấy hứng từ “Mùa thu chết”, có tựa là “Chùm hoa thạch thảo”, với bối cảnh Alaska, trong đó thạch thảo được tác giả xem như một loài hoa mọc trên núi, “dù cành khô cứng mà hoa vẫn tươi” (?)
(8) Xem bài “Les variations de personne dans Alcools” của Brian Gill trong Études autour d’Alcools, xb bởi Anne de Fabry và Marie-France Hilga, Summa Publi-cations, INC, Birmingham, Alabama, 1985, t.55-56. Theo tiểu sử, không có nhân tình nào của thi sĩ chết sớm, chỉ chê hoặc bỏ ông thôi. Cho nên, ở đây, không thể kết hợp đời thực vào với thơ.
(9) Ngoài hai trường hợp trên, trong Apollinaire, automne đều là “masculin”. Ngoài trừ trong thơ văn, luật mẹo (về ngữ vựng, văn phạm v.v…) rất khắt khe đối với học sinh và sinh viên các trường Pháp. Đàng khác, không chỉ mùa thu chết, mà mùa đông cũng chết nữa. Ví dụ trong bài “La chanson du mal-aimé”: L’hiver est mort tout enneigé… (Mùa đông đã chết phủ đầy tuyết…). Bài thơ của Nerval trích từ tập Les Chimères (Ảo vọng), 1853.
(10) Trích theo tài liệu của Phạm Duy trên internet, t. 155-156, và Ngàn Lời Ca, PDC xb, Quận Cam, 1987, t.199. Ông ghi: “Mùa thu chết, theo thơ Guillaume Apollinaire, Saigon, 1970”, và giải thích: “Tôi mượn bài thơ tình đầy chết chóc của thi sĩ Pháp Guillaume Apollinaire để soạn ca khúc…”, và: “Bài thơ này đã từng ám ảnh tôi từ hồi thập niên 50 khi tôi còn là sinh viên học nhạc tại Pháp. Được phổ nhạc thành một ca khúc Việt Nam, mang ngữ thuật nhạc trẻ, vào năm 1970 này, bài khúc Mùa Thu Chết nối lại truyền thống soạn nhạc mùa Thu của các nhạc sĩ lãng mạn trước đây, lần này thì ở một xúc cảm cao độ nhất. Vì nó khóc một cuộc tình có thật.” Có bốn điều cần đặt ra: -(a) Phạm Duy không lần nào nêu tên bài thơ, dù bị “ám ảnh” bởi nó; tại sao? -(b) Ông gọi bài thơ của Apollinaire là “bài thơ tình đầy chết chóc”: đầy chết chóc là một hàm súc (connotation) tổng quát, thực tế xấu xí, và là cụm từ thiếu trang trọng, không xứng với bài thơ hoặc bài hát; điều này chứng tỏ ông không thấy hết vẻ đẹp lãng mạn tiềm ẩn, nỗi đau câm nín chất chứa trong bài thơ. -(c) Ông nói bài thơ đã “ám ảnh” ông từ lâu; vậy mà ông vẫn không biết lai lịch của nó (để đến nỗi hiểu sai), nhất là khi còn ở Pháp, có nhiều sách vở, tài liệu, cơ hội. -(d) Ông không bao giờ nhận dịch bài thơ, mà chỉ nói mượn, theo, phổ nhạc… Nhưng theo Viên Linh, trước 1975, có một bản dịch bài thơ “L’adieu” do Bùi Giáng, và câu: Mùa thu đã chết, em nhớ cho “là của Bùi Giáng” (cf. Khởi Hành, số 111-112, tháng 1-2, 2006, t.22), đã bị Phạm Duy “mượn” nhưng không nêu tên dịch giả Bùi Giáng.
(11) Phạm Duy đặt lời Việt, hoặc phóng tác, cho nhiều bài ca ngoại quốc hay bản nhạc cổ điển. Riêng lời bài “Mùa thu chết”, tôi vẫn tin chắc là đã được ông, hoặc một người nào khác (ví dụ, Bùi Giáng) dịch từ “L’adieu”, trái với ý kiến của đa số, trong số có Nguyễn Văn Chức, trên bài báo đã dẫn, không xác quyết là dịch hay phỏng theo ý: “Lời ca, Phạm Duy lấy từ L’Adieu [sic] của Apollinaire.” (bđd t.43).
(12) Truyền thống “macho” này có thể là một đề tài hấp dẫn cho phân tâm học. Một số các thi nhạc sĩ Việt Nam cũ, mới, không hiểu tại sao, trong sáng tác, cứ xưng ta và gọi em với các người đẹp. Mặc cảm tự tôn, hay một lối “trả thù” vô thức? Hay chữ ta dùng để vô ngã hóa “cái tôi đáng ghét”?
(13) Thơ của Victor Hugo nói riêng, và các thi sĩ lãng mạn Pháp, và Baudelaire dễ hiểu, một phần vì sử dụng “alexandrin” là câu thơ dài 12 âm, có thể diễn đạt trọn vẹn ý tình, trong khi câu thơ “octosyllabe”, 8 âm, của Apollinaire lại ngắn, tỉnh lược (elliptique), súc tích, bắt độc giả phải vận dụng trí óc, suy luận, cảm xúc bén nhạy mới hiểu hết ý. Giống như, bên ta, thơ lục bát so với thơ Đường luật. Bài thơ “Demain, dès l’aube…” là một bằng chứng: tình cảm bộc lộ rõ ràng, lời thơ giản dị, hình ảnh đơn sơ.
(14) Marcel Proust, “Du côté de chez Swann”, thiên đầu của tuyệt phẩm A la recherche du temps perdu (1913-1927).
(15) Thi pháp Pháp, từ thế kỷ XVII, bắt “rime féminine” (vần cái) và “rime masculine” xen kẽ nhau. “Rime féminine” là vần kết thúc bằng -e câm, bruyère và terre, còn “rime masculine” kết thúc bằng âm phải đọc ra, souviens-t’en và t’attends, đan vào nhau cốt tạo nên nhạc điệu cho câu thơ.
(16) Trong bài báo đã dẫn, Nguyễn Văn Chức cũng nêu cái sai ấy của Phạm Duy: “Ngắt đi, tức là hái rồi liệng đi, không giữ gìn quý trọng.”, bđd, t.43. (17) Cụm là một khối gồm những cây nhỏ cùng một gốc, chụm lại với nhau, chẳng hạn cụm hoa, cụm rau thơm. Thạch thảo, trái lại, có những cọng, nếu tỏa lớn ra, thành nhánh, cành. (18) Nhạc tính trong “L’adieu” được diễn giải, dĩ nhiên, theo tiêu chuẩn ngữ học Pháp, không thể áp dụng cho âm Việt. Ví dụ tỵ âm (nasale) Pháp -in, -en có thể được thay bằng -nh, -m, -ng trong Việt ngữ (nhớ nhung, mẹ, nghẹn ngào v.v…) Xuân Diệu có câu: Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người, nghe như có lệ đẫm. Trong Kiều, ta đọc: Tóc mây một món dao vàng chia đôi -câu thơ với âm m chỉ sự trìu mến, dịu dàng, mà Đoàn Phú Tứ lấy đem vào “Màu thời gian”.
(19) Cho đến bây giờ, chưa thấy bài thơ Việt Nam nào có mùi thời gian, mà chỉ hương thời gian, màu thời gian. Ví dụ tiêu biểu nhất là bài “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ (tựa đề làm nghĩ đến Couleur du temps, 1949, di cảo, vở kịch thơ ba hồi của Apollinaire) với câu: “Hương thời gian thanh thanh”. Theo nội dung bài thơ này, có phải tình yêu trái ngang, mà thủy chung, giữa quân vương và Tần phi đã làm cho thời gian đợi chờ trở nên thanh thanh, đẹp, thơm nồng chăng? Có thể lắm. Nhưng còn thời gian chiến chinh, chẳng hạn, thời gian góa bụa, tang tóc, v.v…, thời gian chia lìa, lãng quên như trong “L’adieu”, cũng ngát hương được sao? Thời gian của Proust, trái lại, không có mùi, không có hương, được biến hóa vào các địa danh và kỷ niệm, và đánh dấu bởi sự xung đột giữa vĩnh cửu và hạn hữu, giữa tình yêu tuyệt diệu và phản bội ê chề, giữa khung trời hoa bướm và thế giới già nua, cằn cỗi…
(20) Trên bài báo đã dẫn, Thế Giới Ngày Nay số 178, tháng 3-4, 2003, Nguyễn Văn Chức cho rằng Phạm Duy đã hiểu sai “L’adieu”. Về bài thơ “L’adieu” ông Chức cũng nói “thuộc nó đã gần nửa thế kỷ” (t.43), giống như Phạm Duy (“từ hồi thập niên 50”, xem chú thích 10). Trong một bài báo mới nhất về Phạm Duy, chủ yếu đả kích lập trường chính trị của ông này, cũng trên TGNN, số 189, tháng 5-8, 2005, t.14-16, Nguyễn Văn Chức lại nhắc đến bài “L’adieu”: “(…) Phạm Duy đã hiểu sai thơ Apollinaire. Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thơ Apollinaire.” Theo thiển ý, Phạm Duy, cũng như nhiều người, kể cả chính Nguyễn Văn Chức, có thể đã không nắm hết ý bài thơ -là chuyện thường thôi. Nhưng bảo rằng Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thì có lẽ là một nhận xét thiên lệch, quá đáng chăng?
(21) Trong bài “Gửi người dưới mộ”, trích theo Thơ tình chọn lọc, do Nguyễn Hoài Thương sưu tầm và tuyển chọn, Khai Trí, USA, 1993, t.135.
(22) Theo quyển Guillaume Apollinaire, xb bởi Bibliothèque historique de la Ville de Paris, 1991, do Michel Décaudin trình bày, và Yves Bonnefoy đề tựa, trong mục “Repères biographiques” t.23, thì những “hình bóng” đó là: Marie Dubois ở Stavelot (1899), Linda Molina de Silva, em một người bạn ở Paris (1900-1902), và Annie Playden, gặp tại Đức, nguồn cảm hứng vô tận cho Apollinaire (1901-1902). Còn Marie Laurencin, t.85, được dành cho ba bài: “Cors de chasse”, “Marie”, và “Le pont Mirabeau”.
Kim Thanh
ghi chú:
Bài này đã được đăng trên nguyệt san Khởi Hành, số tháng 1-2, 2006, của nhà văn Viên Linh, lúc nhạc sĩ Phạm Duy và nhà báo Nguyễn Văn Chức còn sống.
Gửi lại, thứ tư 18/9/2019, để tưởng nhớ Ariane, một bạn học cũ tại Đại Học Grenoble, đang an giấc ngàn thu trong nghĩa trang Winterthur (Suisse).

Bình luận
-
Ẩn hoặc báo cáo bình luận này
- Trả lời
-
hôm nay mưa nhẹ như mưa thu, thật buồn, mời các bạn đọc một bài viết rất đáng đọc và nghe ca khúc Mùa Thu Chết của nhạc sĩ Phạm Duy, có liên quan đến bài viết này (KT có nhận định trực tiếp, tùy nghi quí bạn suy ngẫm nhận định về những nhận định – người hát ca sĩ Lệ Thu).
+
KIM THANH
Apollinaire: chờ nhau qua cõi chết
@1. Apollinaire (1880-1918) không phải là thi sĩ quen thuộc đối với độc giả Việt Nam, và cả người Pháp trung bình, so với Lamartine hay Victor Hugo, chẳng hạn. Người ta biết ông nhiều qua bài “Le pont Mirabeau” phổ quát, dễ hiểu, loại trữ tình, bi ca (élégie), mà học sinh trung học nào cũng phải thuộc. Tuy nhiên, một bài thơ khác của ông cũng hay không kém, hoặc hơn, nhưng ít ai nhắc đến, trừ trong sách nghiên cứu -nhất là ở Việt Nam, mặc dù đã được một ông nhạc sĩ lấy dịch làm thành ca khúc.
Đó là bài “L’adieu.” Sự vĩnh biệt, bởi mạo từ (article) l’. Chứ không phải vĩnh biệt, “Adieu” -¬thán từ (interjection) chia ly, như tựa đề một bài thơ văn xuôi của Rimbaud1 . Đầu đề “L’adieu”, tự nó, báo trước sẽ kể một chuyện tình buồn, chia lìa lứa đôi. Bài thơ rất ngắn, như sau:
1. J’ai cueilli ce brin de bruyère
2. L’automne est morte souviens-t’en
3. Nous ne nous verrons plus sur terre
4. Odeur du temps brin de bruyère
5. Et souviens-toi que je t’attends (tôi đánh số và in đậm)đã được hiểu, và dịch, từ trước đến nay bởi đa số độc giả như lời độc thoại của một nhân vật duy nhất:
1. Anh đã hái cọng thạch thảo này
2. Mùa thu đã chết em hãy nhớ
3. Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
4. Mùi thời gian cọng thạch thảo
5. Và em hãy nhớ rằng anh chờ em2Bài thơ được trích từ Alcools (Tửu thi, 1913), thi tập đầu tiên xuất bản của Apollinaire, gồm những bài đã đăng rải rác trên các báo từ 1898 đến 19123. Ông sống cùng thời với các họa sĩ lập thể và được xem như người tiên phong của Phong trào Siêu thực (Mouvement Surréaliste), hô hào giải phóng thi ca, đi tìm “cái chưa biết” (l’inconnu), “ngôn ngữ mới” (nouveau langage) bằng những sáng tạo độc đáo, gây ngạc nhiên với hình ảnh táo bạo, nếu không muốn nói lập dị, và lời thơ giàu nhạc điệu4. Tuy vậy, ông không được André Breton, thủ lãnh phong trào, và văn học sử công nhận là một thi sĩ siêu thực chính hiệu, vì thơ ông tổng hợp nhiều thể điệu và thể loại khác nhau, kể cả tượng trưng (cf. Signe, Cors de chasse). Như bài “L’adieu” trên, bên ngoài có vẻ “tự do” bởi xóa bỏ các dấu chấm câu (phát minh đầu tiên trong thi ca Pháp), thực ra chỉ là một trong những bài “ngũ cú bát ngôn” (quintil d’octosyllabes) với qui luật nhất định và cách hiệp vận bắt buộc ABAAB, mà độc giả từng gặp ở Baudelaire5.
“L’adieu” được đăng lần đầu trong báo “Le Festin d’Ésope”, số 2, tháng 12, 1903, cách đây (2006) đúng 103 năm. Khởi thủy được viết dưới dạng đối thoại giữa hai người, với ngoặc kép, dấu chấm câu, một khoảng trống sau câu 3, và nội dung câu 2, 4 khác với bản hiện tại. Câu 1-3 dành cho người sống nói (chàng, anh?), và 4-5 là của người chết hoặc sắp chết (nàng, em?):
“Anh đã hái cọng thạch thảo này.
Em hãy đặt nó trên tim em lâu hơn
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời”.“Em đã đặt hoa thạch thảo trên tim em,
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh”.Hai câu 2, 4 trên, thi sĩ thấy tầm thường, nên đã thay bằng “Mùa thu đã chết em hãy nhớ” và “Mùi thời gian cọng thạch thảo” khi đăng lại trong “Vers et Prose”, bộ XXXI, tháng 10-11, 1912, và nhờ vậy bài thơ bỗng biến hình, trở nên diễm tuyệt. Dấu ngoặc kép và chấm, phết bị bỏ, nhưng vẫn còn khoảng trống sau câu 3 để giữ lại thể đối thoại6. Bản in trong Alcools -cũng là bản chính thức, vĩnh viễn- nhập chung lời hai người, như ta thấy, để độc giả muốn hiểu, hoặc tưởng tượng, sao cũng được. Và chính cái mơ hồ, mông lung đó tạo cho bài thơ nét đẹp cô đọng tuyệt vời và điệu buồn man mác, ngất ngây. Vấn đề của độc giả Việt Nam là cần biết lai lịch và hiểu rõ nội dung bài thơ mới dịch đúng hai đại danh từ (pronom) je và tu: anh trở thành em, và ngược lại.
Đối thoại hay độc thoại không là thắc mắc đối với dân Tây: họ hiểu một cách tự nhiên, qua mạch thơ, rằng “L’adieu” kể về hai người phải xa cách nhau trên cõi đời này bởi cái chết, hơn là do mối tình tan vỡ: chàng vào nghĩa trang thăm nàng, cả hai tâm sự (dĩ nhiên chỉ trong trí tưởng của chàng, như những lời độc thoại không dứt), giữa cảnh thu tàn, đìu hiu và hoang vắng với những cành hoa thạch thảo mọc quanh mộ nàng.
Và ta thử dịch lại, với khoảng trống tưởng tượng sau câu 3 -đã có trước kia- như lời đối thoại giữa hai người:Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anhỞ tiếng Việt, khác với tiếng Pháp, câu cuối thay đổi cách xưng hô đột ngột như vậy làm độc giả thấy bỡ ngỡ. Nhưng thay đổi rất hợp lý. Vì đó là ý của thi sĩ, ít ra từ lúc đầu, như ta biết. Và vì nếu chính chàng nói je t’attends (anh chờ em) sau khi bảo nous ne nous verrons plus sur terre (chúng ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời) thì hóa ra tự mâu thuẫn, ngoại trừ chờ em ở một nơi nào bên kia thế giới. Mà dù bên kia thế giới, chàng cũng không thể nói câu đó được. Phải là nàng. Em chờ anh, để tái hợp dưới chốn tuyền đài. Chỉ người chết mới chờ người sống. Ngược lại, sẽ là chuyện liêu trai.
Có thể, đơn giản hơn, em chờ anh đến thăm em, tại nghĩa trang này, như Victor Hugo, trong bài “Demain, dès l’aube…”, buổi sáng khi sắp đi viếng mộ con gái, Léopoldine, cũng nói biết cô đang chờ ông7: “Demain, dès l’aube, à l’heure où blanchit la campagne / Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends (…)” (Ngày mai, từ rạng đông, vào giờ cánh đồng phủ trắng / Cha sẽ ra đi. Con thấy không, cha biết con đang chờ cha)…Về “L’adieu”, vài nhà bình luận nêu giả thuyết rằng hai tình nhân chia tay vì đã hết yêu nhau. Nhưng nghĩ cho cùng thấy không ổn. Vì vĩnh biệt là ra đi, một khởi hành mới, nhưng ra đi đâu phải lúc nào cũng có nghĩa là tình đã mất -điều lại càng không xảy ra ở bài thơ này8. Mà giả sử tình đã hết và bắt buộc xa nhau trọn đời (sur terre) thật rồi thì còn tiếc nuối gì để phải thốt lên anh chờ em một cách kỳ quặc, nếu không nói lẩm cẩm như vậy? Rồi ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời: không trên đời này, thì còn ở đâu khác, ngoài cõi âm?
Một chi tiết cần nhắc tới -một lỗi văn phạm “quả tang”, rành rành- trong câu
2: L’automne est morte… Trong thế kỷ XVII, ta biết, automne có hai giống (genres), vừa masculin (đực) vừa féminin (cái). Từ sau đó, theo tự điển, luật văn phạm hiện hành, và dựa trên nguyên chữ Latin, autumnus, m, chữ automne bắt buộc chỉ được dùng ở giống đực. Học sinh nào viết sai giống, là bị trừ điểm. Nhưng ở đây động từ est morte lại được Apollinaire chia ở giống cái. Vô lẽ ông không biết? Hay ông cố tình phạm lỗi -dễ dàng được “tha” vì là một nhà thơ? Phải chăng thi sĩ muốn nhân cách hóa, và đồng hóa, mùa thu với người yêu, và như vậy, trong bài thơ, mùa thu đã chết (tức người yêu đã chết) mới có giá trị đặc biệt đến nỗi phải nhớ đến cùng với cọng thạch thảo? Tại sao không, vì trong một bài khác, “Signe”, ông cũng đặt Automne (A hoa) ở giống cái cùng với tĩnh từ éternelle, để dùng -chỉ hai lần trong suốt tập Alcools- như ẩn dụ cho nàng: Mon Automne éternelle ô ma saison mentale (Mùa Thu vĩnh cửu của tôi ôi mùa trí tưởng của tôi)? Tương tự Gérard de Nerval, trước ông, trong bài “El Desdichado” (Kẻ bất hạnh) tuyệt hay, cũng đã gọi người tình khuất xa là étoile (vì sao): Ma seule étoile est morte, -et mon luth constellé / Porte le soleil noir de la Mélancolie (Vì sao duy nhất của tôi đã chết, và cây đàn tỳ bà lấp lánh của tôi / Mang mặt trời đen của nỗi Muộn Phiền)9.2. Bài “L’adieu” đầy thơ đầy mộng, ít phổ thông này của Apollinaire đã được nhà soạn ca khúc tài danh Phạm Duy dịch ra, từ lâu, thành “Mùa thu chết” rất quen thuộc trước đây, được nhiều người ưa chuộng. Như sau:
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi
Em nhớ cho, em nhớ cho
Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ… đợi em10Theo thiển ý, nhạc rên siết, nghe thảm não. Nội dung nghèo nàn, thành ra tầm thường. Lời ca xúc động thái quá, hóa nên giả tạo (văn chương gọi là pathos), so với nỗi đau nghẹn ngào, chơi vơi mộng ảo, làm tan nát cõi lòng, từ mỗi câu, mỗi chữ của “L’adieu”. Nhưng rõ ràng Phạm Duy đã dịch từ bài thơ, dù đôi chỗ ông phóng bút “quá tay”, thêm thắt hoặc bỏ đi vài chữ -mà có lẽ ông không thấy tầm quan trọng- cho hợp với dòng nhạc và nhận thức riêng. Ông không phóng tác, lấy ý, hoặc gợi hứng theo, như nhiều người vẫn nghĩ, và chính ông tự thổ lộ11. Vì rằng, nếu không biết bài thơ, và nếu không bị đánh lừa, quyến rũ bởi giai điệu, người ta không chắc đã hiểu bài ca muốn nói gì với cụm thạch thảo, với mùa thu đã chết rồi, với hương thời gian, từ đâu, tự nhiên gom lại đứng chung với nhau một cách vô cớ (gratuit) như thế. Quả thực, nội dung “Mùa thu chết” không có gì khác với “L’adieu”. Cũng bấy nhiêu ý tình, bấy nhiêu từ ngữ, bấy nhiêu hình ảnh, bấy nhiêu sầu biệt ly. Ngoại trừ bài thơ ngắn, bề ngoài tưởng dễ này đã chưa được hiểu đúng mức, hoặc chuyển ngữ một cách cẩn trọng. Ngoại trừ, trong bài ca, chữ ta, đối với em, trịch thượng, theo truyền thống “nam phiệt” (macho) của các thi nhạc sĩ Việt Nam -truyền thống cần xét lại dưới ánh sáng phân tâm học12.
Không ai đòi hỏi một nhạc sĩ, bị gò bó bởi cung bậc, phải dịch đúng bản chính. Càng không bắt phải hiểu một bài thơ như người khác, hoặc chính mình, hiểu (miễn sao có lập luận vững chắc), vì nếu ai cũng bình giảng một kiểu, thì còn gì độc đáo, hấp dẫn? Nhất là trong thơ của Apollinaire -khác với, chẳng hạn, của Victor Hugo, “chân phương” hơn- người ta không thấy đâu biên giới giữa thực và hư, sống và chết, lý trí và con tim; tất cả xóa nhòa theo cảm xúc của thi nhân và của riêng từng người đọc, như ở bài “L’adieu” này13. Tuy nhiên, đã gọi là dịch, dù ít dù nhiều, dù thoáng dù sát, thì tối thiểu những nét căn bản của nguyên văn phải được tôn trọng, nếu không, bài thơ sẽ biến dạng, giảm giá trị. Ví dụ hai câu đầu trong “Mùa thu chết”:Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa thu đã chết rồi!tuy được dịch -không phỏng theo, xin nhắc lại- từ:
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
(Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ)vẫn có những điểm dị biệt quan trọng: thì quá khứ (passé composé) của động từ ai cueilli (đã hái), và chỉ thị tĩnh từ (adjectif démonstratif) ce (có thể là này, this, hoặc đó, that, hoặc cả hai, tùy theo cách diễn giải) biến mất trong Phạm Duy, để được thay bằng ta ngắt đi khơi khơi, không chỉ rõ thời gian, và thay ce bằng bất định quán từ (article indéfini) một cụm (một cụm khác với cọng này lắm chứ!)
Bài thơ mở ra trên một kỷ niệm -điều, rất tiếc, không thấy có trong lời ca. Thử dựng nên một phân cảnh (scénario): thi sĩ nói chuyện với người khuất mặt, chỉ cho nàng cọng thạch thảo này (hiện tại) chàng mới hái cầm trong tay -như cọng thạch thảo đó (quá khứ) mà trước kia chàng đã hái, một lần nào, với nàng trong ngày cuối thu- để nhắc nhở nàng cả hai sự việc cùng được hàm chứa trong đại danh từ en
điều đó): hái cọng thạch thảo và mùa thu đã chết đều thuộc về quá khứ và liên quan mật thiết với nhau (j’ai cueilli ce brin de bruyère đi liền với l’automne est morte, và souviens-t’en đứng sau cùng để muốn nàng nhớ cả hai việc, trong khi Phạm Duy, vì không thấy sự liên quan ấy, lại cho em nhớ cho chen vào giữa, ngăn đôi hai vế cụm thạch thảo và mùa thu đã chết rồi). Như vậy, brin de bruyère -cọng thạch thảo, có vai trò thiết yếu trong bài thơ- làm sống dậy cả một dĩ vãng, như chiếc bánh “madeleine” chấm vào tách trà tỏa thơm đã khởi động trí nhớ của Marcel Proust trong hành trình đi tìm thời gian đã mất14. Thiết yếu đến nỗi, ở câu 4, brin de bruyère được lặp lại bởi nàng, lần này với odeur du temps cùng tượng trưng cho kỷ niệm như l’automne est morte ở câu 2, và đã hiện diện, ta biết, ngay trong các bản in đầu tiên.
Tách rời hai sự việc trên, như nhạc sĩ đã làm, người ta không thể hiểu tại sao khi ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo thì em nhớ cho mùa thu đã chết rồi. Dường như Phạm Duy chỉ chú trọng đến l’automne est morte, mà quên ce brin de bruyère, nên đã dành trọn ba câu ca tiếp cho mùa thu đã chết rồi (ba lần) và van nài (ca sĩ hát nấc lên thảm thiết đoạn này) em nhớ cho (ba lần). Chữ cho bày tỏ sự thiết tha năn nỉ (tại sao phải năn nỉ đến thế nhỉ?), trong khi souviens-t’en có cùng “rime masculine”15 với t’attends, ở câu 5, đọc nghe vang vọng lời yêu thương ray rứt hay tiếng thổn thức gợi sầu miên man. Mà mùa thu đã chết rồi (tức đông sang, theo diễn nghĩa khách quan), nếu bị tách khỏi mạch thơ thì có gì để phải nhớ đến một cách cường điệu, lộ liễu như vậy? Hay Phạm Duy cũng muốn, như Apollinaire, xem trong mùa thu đã chết hình ảnh của một người tình đã mất, nhưng bỗng nhiên hóa nên thảm sầu hơn (và, bởi vậy, nghe kỳ quặc hơn chăng)?
Thêm nữa, về từ vựng (vocabulaire), cũng không đúng lắm. Cueilli có nghĩa ngắt hoặc hái. Nhưng ngắt không thể dùng cho cụm. Rồi tại sao ngắt đi? Chữ đi ở đây mang nghĩa xấu (péjoratif), tiêu cực: ngắt để vứt đi cho rồi, biểu lộ sự bực dọc, khó chịu, miễn cưỡng16. Rồi làm sao brin lại biến thành cụm (cọng hay cụm đều hợp với nốt nhạc kia mà)? Rồi ngắt cả một cụm để làm chi? Hình thù hoa thạch thảo đâu cho phép dùng cụm, mà chỉ cành hoặc cọng thôi17. Trong câu thơ, không phải ngẫu nhiên mà brin, tức cọng (như brin d’herbe, brin de paille, cọng cỏ, cọng rơm), được dùng: cọng ở đây là ẩn dụ cho sự đơn lẻ, như hoàn cảnh của thi sĩ và người xa cách, mong manh như kỷ niệm và cuộc tình giữa hai người ngay từ trong quá khứ (ai cueilli). Lại nữa, theo phép điệp vận (allitération), trong brin de bruyère, nối kết hai phụ âm (consonnes) [b] (môi, labiale) + [R] (lưỡi, linguale), được lặp lại hai lần, gợi nên lời buồn vời vợi, thì thầm, như tiếng lá hoa xào xạc, thích hợp với không khí nghĩa trang và nỗi lòng thi sĩ. Đó chưa kể âm mũi (nasale) -in trong brin, cũng như -iens và -en trong souviens-t’en của câu kế, nghe đượm nước mắt18. Làm sao chuyển được các âm sắc ấy, hoặc tương tự, vào bài hát Việt mới là tài, thay vì bắt ca đi ca lại những câu rỗng ý, vô vị theo đòi hỏi của âm giai. Người ta tin Phạm Duy dư khả năng làm việc đó -điều mà ông chứng tỏ qua những ca khúc khác, bài “Nếu một mai em sẽ qua đời”, chẳng hạn, cũng phổ thơ và cùng nội dung chia ly- nếu ông chịu khó nghiên cứu bài thơ kỹ hơn, dù để dịch, “mượn”, hoặc chỉ phóng tác, lấy hứng.
Ta hãy nghe tiếp bài hát:Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhauBốn câu ca dài, thừa thãi, để chỉ dịch quanh một câu thơ nhẹ nhàng, súc tích:
Nous ne nous verrons plus sur terre (Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời).
Chỉ một câu thơ cũng đủ làm vỡ nát trái tim rồi, cần gì phải hát vòng vo? (Nous) verrons là thì tương lai (temps futur) của se voir, và se voir không có nghĩa nhìn nhau (phải là “se regarder”), mà thấy nhau. Ngay trong Việt ngữ, nhìn cũng đã khác lắm với thấy. Phạm Duy, dĩ nhiên, không thể nào không biết điều sơ đẳng ấy. Chẳng qua, tôi đoán, ông phân vân không biết nên hiểu câu thơ và ý của thi sĩ -mặc dù đã quá rõ với nous ne nous verrons plus- theo hướng nào trước sur terre là nhóm chữ mà ông nghĩ có thể áp dụng cho cả hai trường hợp: vĩnh biệt nhau trên cõi đời này vì bỏ nhau (sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa), hay cách ngăn bởi cái chết (mãi mãi không thấy nhau). Cho nên ông dịch se voir ra hai động từ (nhìn nhau và thấy nhau) cho “chắc ăn” chăng? Có thể lắm! Nhưng đã chẳng còn nhìn nhau nữa thì kết quả hiển nhiên là mãi mãi không thấy nhau, có gì lạ mà phải nói ra đến hai lần? Rồi tại sao đặt thêm cái mốc từ nay cho thời gian vĩnh biệt mà Apollinaire cố tình bỏ lửng, lãng đãng khói sương?Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ emđể dịch, gần nguyên văn:
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
(Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh)Hai câu đáp của nàng, trong Apollinaire, dĩ nhiên do chàng tưởng tượng, được nối kết bởi chữ et (và). Odeur nghĩa là mùi. Nếu là hương, thì đã có chữ “parfum”. Hương thời gian, như ta biết, chỉ là sáo ngữ trong thi ca Việt Nam -bắt buộc thời gian luôn luôn phải thơm, không hiểu tại sao và để làm gì19. Trong câu thơ, odeur du temps (mùi thời gian) có một ý nghĩa đặc biệt: thời gian của Apollinaire bao trùm quá khứ -nhất là quá khứ- tức kỷ niệm (với hai động từ ai cueilli và est morte ở “passé composé”), tương lai (verrons, “futur”), và hiện tại (attends, “présent”). Một đời, như trong Marcel Proust. Hay một cuộc tình, ở đây. Nghĩa là (quá) dài lâu. Mùi, vì vậy, trung tính, khách quan, thơm hay không là do cảm nhận của người trong cuộc. Mùi thời gian trong bài thơ, đó là sự cô đơn, cách xa, buồn đau, là kỷ niệm hiện về cùng với cọng thạch thảo và mùa thu chết trong nghĩa trang vắng lạnh, là lãng quên và chờ đợi mỏi mòn. Mùi thời gian, như vậy, không cay đắng, hư mốc thì thôi, làm sao mà ngát hương cho được? Cho nên, khi nhắc đến mùi thời gian và cọng thạch thảo, nàng phải bảo chàng rằng em đang chờ anh đây. Chờ anh đến thăm em tại nghĩa trang này, hay về cùng em nơi chín suối.
Một điểm cần nói thêm. Cũng như trường hợp động từ se voir, Phạm Duy muốn được “an toàn” với chữ odeur vì có lẽ, một lần nữa, không rõ dụng ý của thi sĩ, nhưng vẫn muốn trung thành với nội dung bài thơ: ông dịch odeur ra thành hai chữ, hương cho thời gian, nhưng mùi cho thạch thảo, thế nào cũng trúng một (giá ông đổi lại: mùi cho thời gian, hương cho thạch thảo, sẽ hay và đúng biết mấy!) Quả vậy, về mặt cấu trúc và văn phạm, trong câu thơ “suôn đuột”, thiếu chấm, phết trên, chữ odeur có thể (có thể thôi) hợp với cả temps lẫn brin de bruyère (thử viết đầy đủ: odeur du temps et du brin de bruyère). Nhưng dựa trên mạch thơ, người ta lại nghĩ khác: cọng thạch thảo được nhắc, lần này cùng với thời gian, như một kỷ niệm, một ám ảnh, tự nó đã là yếu tố quan trọng, độc lập, không cần hương hay mùi kèm theo. Cho nên odeur có lẽ chỉ thuộc về temps mà thôi.
Về câu ca chót. Chữ vẫn (trong ta vẫn chờ em) dư, được nhạc sĩ chế ra, và bắt ca đi ca lại; vì vậy làm hỏng ý thơ và rắc rối thêm nội dung bài hát vốn đã khó hiểu rồi. Nàng nói je t’attends, em chờ anh (muốn dùng “vẫn” thì có “encore” hay “toujours”) mà không nhốt sự chờ đợi vào khung thời gian nhỏ hẹp nào. Je t’attends của Apollinaire là câu nói cho một hiện tại vĩnh cửu, rộng đầy, luôn luôn mới, vượt trên quá khứ, vị lai. Một thiên thu. Mênh mông như niềm đau và nỗi mong chờ.3. Trên tạp chí “Thế Giới Ngày Nay” (TGNN) năm 2003, nhà báo nổi tiếng Nguyễn Văn Chức có viết một bài về cả “L’adieu” và “Mùa thu chết”20. Tuy chỉ bình luận qua, nhân về một đề tài khác, ông cũng nêu hai “cái sai” vừa nhỏ vừa lớn của Phạm Duy. Nhỏ, câu 1 của “L’adieu”: Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo. Nguyễn Văn Chức phân tích, rất chính xác, động từ ngắt đi và danh từ cụm -mà ông nói nhạc sĩ đã dịch sai. Nhưng chính ông lại không đúng khi thay chữ cụm bằng chữ nhánh. Vì, hiển nhiên, nhánh (hay cành) phải là “branche”, không thể brin, trong bài thơ này và ở mọi trường hợp.
Và đây là “cái sai lớn của Phạm Duy”, câu 3, về động từ se voir, được ông nhạc sĩ dịch ra nhìn nhau và thấy nhau -mà cả hai, theo Nguyễn Văn Chức, đều không đúng. Ông Chức viết: “Tiếng Pháp ‘se voir’ không có nghĩa là nhìn thấy nhau hoặc trông thấy nhau, mà có nghĩa là ‘se rencontrer’ (gặp nhau), hoặc ‘se fréquenter’ (lui tới nhau, đi lại với nhau). Gặp nhau, lui tới nhau, trong bài L’Adieu [sic] còn có nghĩa là âu yếm nhau, ái ân với nhau”, t.43. Thật vậy sao? Động từ se voir “không có nghĩa là trông thấy nhau” ư? Dĩ nhiên, se voir có thể hiểu là “se rencontrer”, hoặc “se fréquenter”, như ông nói, nhưng còn tùy theo câu văn, mạch thơ, trạng huống. Trong trường hợp “L’adieu”, ông đã đi quá xa, quá trớn, hơn cả Phạm Duy. Vì rằng, nếu giữa khung cảnh biệt ly não nùng hay trong nghĩa trang lạnh lẽo câu thơ nous ne nous verrons plus sur terre còn có nghĩa “chúng ta sẽ không còn âu yếm nhau, ái ân với nhau”, như ông Chức viết, thì chàng -nhân vật của bài thơ- quả có bệnh, hoặc bị ám ảnh bởi Mê Hồn Ca của Đinh Hùng:Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?21Điều này cho thấy Nguyễn Văn Chức hiểu bài thơ theo hướng khác, nghĩa là một trong những cuộc chia tay rất bình thường, và tầm thường, của những người chán nhau, không như Phạm Duy, dầu sao, còn ngập ngừng trước sur terre, như vừa phân tích, với kiểu dịch “nước đôi” ở trên.
Quả vậy, ta hãy nghe ông nhà báo giới thiệu “L’adieu”: “Theo sách vở và truyền tụng, Apollinaire viết bài thơ nói trên để vĩnh biệt người yêu (nàng Marie Laurencin), kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” (cf. TGNN, t.43). Đúng là nàng Marie Laurencin bị oan Thị Kính! Vì theo tiểu sử (chứ không phải “truyền tụng”) rải rác tên những người Apollinaire đã yêu, thường là đơn phương, và “sách vở” của những nhà nghiên cứu, thi sĩ chỉ gặp Marie Laurencin, qua trung gian của danh họa Picasso, bạn chung, vào năm 1907, và bị nàng bỏ rơi năm năm sau (và dĩ nhiên làm gì có chuyện vĩnh biệt “kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” -nghe có vẻ cải lương), mà bài thơ “L’adieu” thì, như ta biết, đã được đăng năm 1903, bốn năm trước, thời gian ông si mê, theo đuổi các bóng hình khác, đầu tiên là Marie Dubois ở Stavelot (Bỉ)21.Nhưng thiết nghĩ cũng không cần nêu tên tuổi nàng nào. Quả vậy, “L’adieu” bây giờ không thuộc riêng ai nữa, đã vượt không gian và thời gian để trở thành muôn thuở, dành cho những đôi lứa “bên trời lận đận” còn mãi mãi yêu nhau. Và đang chờ nhau qua cõi chết.
CHÚ THÍCH
(1) Trong “Une saison en enfer” (Một mùa dưới địa ngục), 1873. Bài thơ của Rimbaud, gồm những ý nghĩ rời về cuộc đời, quan niệm thi ca…, mở đầu bằng câu: “L’automne déjà!” (Mùa thu rồi đấy!). Trong bài “Zone” của Apollinaire, người ta còn đọc: Adieu Adieu / Soleil cou coupé. Bài “L’adieu” trích ra từ tập Alcools, Gallimard, 1944, với tựa đề được viết chính xác như thế, không phải “l’Adieu” hoặc “L’Adieu” theo một số người (có nhà báo Nguyễn Văn Chức).
(2) Sinh viên Mỹ các lớp Văn chương Pháp và đa số độc giả Việt Nam, kể cả nhạc sĩ Phạm Duy của “Mùa thu chết” và nhà báo Nguyễn Văn Chức của bài viết “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo…” (trong “Thế Giới Ngày Nay”, số 178, tháng 3- 4, 2003), đều cho hai câu 4-5 là do nam nhân vật nói và dịch theo ý hướng đó. Ví dụ, Nguyễn Văn Chức đã dịch câu cuối: Và em hãy nhớ anh đang chờ em. Ngoài ra, trong “Cỏ Thơm” (Tam cá nguyệt san Văn học Nghệ thuật Biên khảo, chủ nhiệm: Lưu Nguyễn Đạt, Fairfax, VA, số 6, 1997, t. 162) dịch giả Hồng Bào đã “chuyển ngữ” bài thơ của Apollinaire như sau: Anh vừa hái nhánh hoa sim / Mùa thu đã chết im lìm từ lâu / Ta không còn được thấy nhau / Sống chung trên cõi địa cầu ấm êm / Thời gian còn ngát hoa sim / Biết chăng anh vẫn chờ em mỏi mòn.
(3) Trong Alcools, thấy xuất hiện tất cả các chủ đề của thế giới thơ Apollinaire: hình ảnh sống động của cuộc đời được chụp hoặc gợi nhớ bằng kỷ niệm, trạng thái tâm hồn, bốn mùa, đàn bà, tình yêu-độc tố, tiên nữ và ngư nhân, ám ảnh bởi thời gian như nước trôi qua cầu, v.v… Có tám bài về sông Rhin, Đức (cf. Rhénanes), rất đặc sắc: Le mai le joli mai en barque sur le Rhin (Mai) (Tháng năm tháng năm xinh đẹp đi thuyền trên sông Rhin). Thi tập Alcools lấy nguồn cảm hứng và kết thành từ mối tình tuyệt vọng, dai dẳng, đau khổ thi sĩ dành cho Annie Playden, cô giáo người Anh: Et ma vie pour tes yeux lentement s’empoisonne (Les Colchiques) (Và cuộc đời tôi cho đôi mắt em từ từ bị tẩm độc).
(4) Sống vào thời kỳ tàn lụn của thi ca Tượng trưng, và trước phong trào Siêu thực đang mở ra, Apollinaire hiểu được giá trị của tiếng thơ vọng lên từ tiềm thức, thi điệu tự nhiên, lời thơ tự động (écriture automatique), những phối hợp tâm lý ngẫu hứng -tất cả làm nền cho thơ Siêu thực mà ông tích cực hỗ trợ. Tuy nhiên, so với các thi sĩ siêu thực chính hiệu, Apollinaire còn rất dễ hiểu, và những bài thơ hay nhất của ông, theo thiển ý, vẫn là những bài mang hơi hướng cổ điển, tượng trưng, kể cả trữ tình. “L’adieu” là một ví dụ, cùng với “Le pont Mirabeau” và nhiều bài khác. Còn Nguyễn Văn Chức, cũng trên bài báo đã dẫn, t.43, viết rằng Apollinaire đã “đưa nền thi ca Pháp từ trường phái biểu tượng (symbolisme) đến trường phái siêu thực (surréalisme)”. Sự thật, văn học sử và cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ (ông chết, lúc mới 38 tuổi, bởi dịch cúm Tây Ban Nha, năm 1918, đã giết hàng triệu người ở Âu châu) phủ nhận vai trò của ông trong việc dẫn dắt hai “trường phái” (école? chữ này, trong sách Pháp, chưa thấy dùng cho Siêu thực và Tượng trưng, chỉ có mouvement, phong trào). Về công lao của ông, như Nguyễn Văn Chức hàm ý, nếu có đối với phong trào Siêu thực mới phôi thai, cũng như của Rimbaud hay Nerval trước ông, không quan trọng như vậy, so với thủ lãnh Breton. Quả thế, Apollinaire, Rimbaud, hay Nerval, ít nhiều chỉ là những người tiên phong (cf. Jeanine Moulin, trong Guillaume Apollinaire, Droz, 1952).
(5) A: bruyère B: souviens-t’en A: terre
A: bruyère B: t’attends
Một số thi sĩ trước Apollinaire, hoặc đồng thời, đã làm lối thơ này, ví dụ Baudelaire, Verlaine, Laforgue, v.v… Trích một bài của Baudelaire:
Que m’importe que tu sois sage? A
Sois belle! et sois triste! Les pleurs B
Ajoutent un charme au visage A
Comme le fleuve au paysage; A
L’orage rajeunit les fleurs. B
(Madrigal triste)
Do đó Breton, trong “Manifeste” (Tuyên ngôn) về phong trào Siêu thực, trách cứ Apollinaire đã không dám “hy sinh những phương tiện văn chương tầm thường” (“…sacrifié de médiocres moyens littéraires”), ám chỉ các loại thơ có qui luật, và [Apollinaire] “chỉ được có mỗi cái chữ, đã vậy vẫn không hoàn hảo, của siêu thực” (“…possédé… que la lettre, encore imparfaite, du surréalisme”) (cf. Roger Lefèvre, Alcools, nxb Larousse, 1965, t.21).
(6) Nguyên văn bài “L’adieu” đăng trong “Le Festin d’Ésope”:
“J’ai cueilli ce brin de bruyère.
Mets-le sur ton coeur plus longtemps
Nous ne nous verrons plus sur terre”.“J’ai mis sur mon coeur la bruyère
Et souviens-toi que je t’attends”.
(trích lại từ Œeuvres poétiques d’Apollinaire, La Pléiade, t.1054.)
Về lai lịch bài thơ, có rất nhiều tài liệu. Bài viết này dựa trên các sách tiêu biểu như:
– Œuvres poétiques d’Apollinaire do André Billy viết tựa, Marcel Adéma và Michel Décaudin tuyển chọn, ghi chú, La Pléiade, Editions Gallimard, 1965, Notes, t.1054.
– Le dossier d’Alcools của Michel Décaudin, Librairie Minard, Paris, 1965, t.139.
– La poésie partout của Anna Boschetti, Collection Liber, Seuil, 2001, t.63.
– Guillaume Apollinaire – Alcools của Marie-Jeanne Durry, 3 quyển, SEDES, Paris, 1964, t. 119, 154, 172-174 (q.2), 70-71, 74 (q. 3).
– Alcools, dịch bởi Anne Hyde Greet, U. of California Press, Berkeley and Los Angeles, 1965, Notes, t.88-89.
(7) Trong Les Contemplations (1856). Hai câu cuối của bài thơ như sau:
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
(Và khi đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ con
Một bó ô-rô xanh và thạch thảo nở hoa)
Vì sự hiện diện của bruyère và khung cảnh nghĩa trang trong cả hai bài thơ, người ta thắc mắc không biết thi sĩ của chúng ta có chịu ảnh hưởng của Victor Hugo trong bài “Demain, dès l’aube…” cảm động này không. Hoặc chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên. Bruyère (“heath”, hay “heather” trong tiếng Anh) là một loại cây có hoa tím hoặc hồng, thơm, thích sống ở đất “siliceux” (đá cứng, bởi vậy mới gọi
bruyère / heather / thạch thảothạch thảo?) tạo nên vùng “lande” (Thanh Nghị dịch là “truông”) hoang dại, rất đặc biệt ở Pháp. Trong thơ Pháp, đến bây giờ, ngoài “L’adieu”, người ta chỉ gặp chữ bruyère hai lần nữa với bài trên của Hugo, và một bài khác không quan trọng của Apollinaire. Tại Việt Nam, Phạm Duy có lẽ là người đầu tiên nói đến thạch thảo. Trong “Văn Nghệ Tiền Phong”, số 410, 16-28/2/1993, t.62-66, có một truyện ngắn của Thảo Như -mà nội dung, tôi đoán, phóng tác theo ngoại quốc hoặc lấy hứng từ “Mùa thu chết”, có tựa là “Chùm hoa thạch thảo”, với bối cảnh Alaska, trong đó thạch thảo được tác giả xem như một loài hoa mọc trên núi, “dù cành khô cứng mà hoa vẫn tươi” (?)
(8) Xem bài “Les variations de personne dans Alcools” của Brian Gill trong Études autour d’Alcools, xb bởi Anne de Fabry và Marie-France Hilga, Summa Publi-cations, INC, Birmingham, Alabama, 1985, t.55-56. Theo tiểu sử, không có nhân tình nào của thi sĩ chết sớm, chỉ chê hoặc bỏ ông thôi. Cho nên, ở đây, không thể kết hợp đời thực vào với thơ.
(9) Ngoài hai trường hợp trên, trong Apollinaire, automne đều là “masculin”. Ngoài trừ trong thơ văn, luật mẹo (về ngữ vựng, văn phạm v.v…) rất khắt khe đối với học sinh và sinh viên các trường Pháp. Đàng khác, không chỉ mùa thu chết, mà mùa đông cũng chết nữa. Ví dụ trong bài “La chanson du mal-aimé”: L’hiver est mort tout enneigé… (Mùa đông đã chết phủ đầy tuyết…). Bài thơ của Nerval trích từ tập Les Chimères (Ảo vọng), 1853.
(10) Trích theo tài liệu của Phạm Duy trên internet, t. 155-156, và Ngàn Lời Ca, PDC xb, Quận Cam, 1987, t.199. Ông ghi: “Mùa thu chết, theo thơ Guillaume Apollinaire, Saigon, 1970”, và giải thích: “Tôi mượn bài thơ tình đầy chết chóc của thi sĩ Pháp Guillaume Apollinaire để soạn ca khúc…”, và: “Bài thơ này đã từng ám ảnh tôi từ hồi thập niên 50 khi tôi còn là sinh viên học nhạc tại Pháp. Được phổ nhạc thành một ca khúc Việt Nam, mang ngữ thuật nhạc trẻ, vào năm 1970 này, bài khúc Mùa Thu Chết nối lại truyền thống soạn nhạc mùa Thu của các nhạc sĩ lãng mạn trước đây, lần này thì ở một xúc cảm cao độ nhất. Vì nó khóc một cuộc tình có thật.” Có bốn điều cần đặt ra: -(a) Phạm Duy không lần nào nêu tên bài thơ, dù bị “ám ảnh” bởi nó; tại sao? -(b) Ông gọi bài thơ của Apollinaire là “bài thơ tình đầy chết chóc”: đầy chết chóc là một hàm súc (connotation) tổng quát, thực tế xấu xí, và là cụm từ thiếu trang trọng, không xứng với bài thơ hoặc bài hát; điều này chứng tỏ ông không thấy hết vẻ đẹp lãng mạn tiềm ẩn, nỗi đau câm nín chất chứa trong bài thơ. -(c) Ông nói bài thơ đã “ám ảnh” ông từ lâu; vậy mà ông vẫn không biết lai lịch của nó (để đến nỗi hiểu sai), nhất là khi còn ở Pháp, có nhiều sách vở, tài liệu, cơ hội. -(d) Ông không bao giờ nhận dịch bài thơ, mà chỉ nói mượn, theo, phổ nhạc… Nhưng theo Viên Linh, trước 1975, có một bản dịch bài thơ “L’adieu” do Bùi Giáng, và câu: Mùa thu đã chết, em nhớ cho “là của Bùi Giáng” (cf. Khởi Hành, số 111-112, tháng 1-2, 2006, t.22), đã bị Phạm Duy “mượn” nhưng không nêu tên dịch giả Bùi Giáng.
(11) Phạm Duy đặt lời Việt, hoặc phóng tác, cho nhiều bài ca ngoại quốc hay bản nhạc cổ điển. Riêng lời bài “Mùa thu chết”, tôi vẫn tin chắc là đã được ông, hoặc một người nào khác (ví dụ, Bùi Giáng) dịch từ “L’adieu”, trái với ý kiến của đa số, trong số có Nguyễn Văn Chức, trên bài báo đã dẫn, không xác quyết là dịch hay phỏng theo ý: “Lời ca, Phạm Duy lấy từ L’Adieu [sic] của Apollinaire.” (bđd t.43).
(12) Truyền thống “macho” này có thể là một đề tài hấp dẫn cho phân tâm học. Một số các thi nhạc sĩ Việt Nam cũ, mới, không hiểu tại sao, trong sáng tác, cứ xưng ta và gọi em với các người đẹp. Mặc cảm tự tôn, hay một lối “trả thù” vô thức? Hay chữ ta dùng để vô ngã hóa “cái tôi đáng ghét”?
(13) Thơ của Victor Hugo nói riêng, và các thi sĩ lãng mạn Pháp, và Baudelaire dễ hiểu, một phần vì sử dụng “alexandrin” là câu thơ dài 12 âm, có thể diễn đạt trọn vẹn ý tình, trong khi câu thơ “octosyllabe”, 8 âm, của Apollinaire lại ngắn, tỉnh lược (elliptique), súc tích, bắt độc giả phải vận dụng trí óc, suy luận, cảm xúc bén nhạy mới hiểu hết ý. Giống như, bên ta, thơ lục bát so với thơ Đường luật. Bài thơ “Demain, dès l’aube…” là một bằng chứng: tình cảm bộc lộ rõ ràng, lời thơ giản dị, hình ảnh đơn sơ.
(14) Marcel Proust, “Du côté de chez Swann”, thiên đầu của tuyệt phẩm A la recherche du temps perdu (1913-1927).
(15) Thi pháp Pháp, từ thế kỷ XVII, bắt “rime féminine” (vần cái) và “rime masculine” xen kẽ nhau. “Rime féminine” là vần kết thúc bằng -e câm, bruyère và terre, còn “rime masculine” kết thúc bằng âm phải đọc ra, souviens-t’en và t’attends, đan vào nhau cốt tạo nên nhạc điệu cho câu thơ.
(16) Trong bài báo đã dẫn, Nguyễn Văn Chức cũng nêu cái sai ấy của Phạm Duy: “Ngắt đi, tức là hái rồi liệng đi, không giữ gìn quý trọng.”, bđd, t.43. (17) Cụm là một khối gồm những cây nhỏ cùng một gốc, chụm lại với nhau, chẳng hạn cụm hoa, cụm rau thơm. Thạch thảo, trái lại, có những cọng, nếu tỏa lớn ra, thành nhánh, cành. (18) Nhạc tính trong “L’adieu” được diễn giải, dĩ nhiên, theo tiêu chuẩn ngữ học Pháp, không thể áp dụng cho âm Việt. Ví dụ tỵ âm (nasale) Pháp -in, -en có thể được thay bằng -nh, -m, -ng trong Việt ngữ (nhớ nhung, mẹ, nghẹn ngào v.v…) Xuân Diệu có câu: Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người, nghe như có lệ đẫm. Trong Kiều, ta đọc: Tóc mây một món dao vàng chia đôi -câu thơ với âm m chỉ sự trìu mến, dịu dàng, mà Đoàn Phú Tứ lấy đem vào “Màu thời gian”.
(19) Cho đến bây giờ, chưa thấy bài thơ Việt Nam nào có mùi thời gian, mà chỉ hương thời gian, màu thời gian. Ví dụ tiêu biểu nhất là bài “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ (tựa đề làm nghĩ đến Couleur du temps, 1949, di cảo, vở kịch thơ ba hồi của Apollinaire) với câu: “Hương thời gian thanh thanh”. Theo nội dung bài thơ này, có phải tình yêu trái ngang, mà thủy chung, giữa quân vương và Tần phi đã làm cho thời gian đợi chờ trở nên thanh thanh, đẹp, thơm nồng chăng? Có thể lắm. Nhưng còn thời gian chiến chinh, chẳng hạn, thời gian góa bụa, tang tóc, v.v…, thời gian chia lìa, lãng quên như trong “L’adieu”, cũng ngát hương được sao? Thời gian của Proust, trái lại, không có mùi, không có hương, được biến hóa vào các địa danh và kỷ niệm, và đánh dấu bởi sự xung đột giữa vĩnh cửu và hạn hữu, giữa tình yêu tuyệt diệu và phản bội ê chề, giữa khung trời hoa bướm và thế giới già nua, cằn cỗi…
(20) Trên bài báo đã dẫn, Thế Giới Ngày Nay số 178, tháng 3-4, 2003, Nguyễn Văn Chức cho rằng Phạm Duy đã hiểu sai “L’adieu”. Về bài thơ “L’adieu” ông Chức cũng nói “thuộc nó đã gần nửa thế kỷ” (t.43), giống như Phạm Duy (“từ hồi thập niên 50”, xem chú thích 10). Trong một bài báo mới nhất về Phạm Duy, chủ yếu đả kích lập trường chính trị của ông này, cũng trên TGNN, số 189, tháng 5-8, 2005, t.14-16, Nguyễn Văn Chức lại nhắc đến bài “L’adieu”: “(…) Phạm Duy đã hiểu sai thơ Apollinaire. Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thơ Apollinaire.” Theo thiển ý, Phạm Duy, cũng như nhiều người, kể cả chính Nguyễn Văn Chức, có thể đã không nắm hết ý bài thơ -là chuyện thường thôi. Nhưng bảo rằng Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thì có lẽ là một nhận xét thiên lệch, quá đáng chăng?
(21) Trong bài “Gửi người dưới mộ”, trích theo Thơ tình chọn lọc, do Nguyễn Hoài Thương sưu tầm và tuyển chọn, Khai Trí, USA, 1993, t.135.
(22) Theo quyển Guillaume Apollinaire, xb bởi Bibliothèque historique de la Ville de Paris, 1991, do Michel Décaudin trình bày, và Yves Bonnefoy đề tựa, trong mục “Repères biographiques” t.23, thì những “hình bóng” đó là: Marie Dubois ở Stavelot (1899), Linda Molina de Silva, em một người bạn ở Paris (1900-1902), và Annie Playden, gặp tại Đức, nguồn cảm hứng vô tận cho Apollinaire (1901-1902). Còn Marie Laurencin, t.85, được dành cho ba bài: “Cors de chasse”, “Marie”, và “Le pont Mirabeau”.Kim Thanh
ghi chú:
Bài này đã được đăng trên nguyệt san Khởi Hành, số tháng 1-2, 2006, của nhà văn Viên Linh, lúc nhạc sĩ Phạm Duy và nhà báo Nguyễn Văn Chức còn sống.Gửi lại, thứ tư 18/9/2019, để tưởng nhớ Ariane, một bạn học cũ tại Đại Học Grenoble, đang an giấc ngàn thu trong nghĩa trang Winterthur (Suisse).
Giới thiệu về trang web nàyYOUTUBE.COMMùa Thu Chết – Lệ ThuBình luận
-
Ẩn hoặc báo cáo bình luận này
- Trả lời
-
hôm nay mưa nhẹ như mưa thu, thật buồn, mời các bạn đọc một bài viết rất đáng đọc và nghe ca khúc Mùa Thu Chết của nhạc sĩ Phạm Duy, có liên quan đến bài viết này (KT có nhận định trực tiếp, tùy nghi quí bạn suy ngẫm nhận định về những nhận định – người hát ca sĩ Lệ Thu).
+
KIM THANH
Apollinaire: chờ nhau qua cõi chết
@1. Apollinaire (1880-1918) không phải là thi sĩ quen thuộc đối với độc giả Việt Nam, và cả người Pháp trung bình, so với Lamartine hay Victor Hugo, chẳng hạn. Người ta biết ông nhiều qua bài “Le pont Mirabeau” phổ quát, dễ hiểu, loại trữ tình, bi ca (élégie), mà học sinh trung học nào cũng phải thuộc. Tuy nhiên, một bài thơ khác của ông cũng hay không kém, hoặc hơn, nhưng ít ai nhắc đến, trừ trong sách nghiên cứu -nhất là ở Việt Nam, mặc dù đã được một ông nhạc sĩ lấy dịch làm thành ca khúc.
Đó là bài “L’adieu.” Sự vĩnh biệt, bởi mạo từ (article) l’. Chứ không phải vĩnh biệt, “Adieu” -¬thán từ (interjection) chia ly, như tựa đề một bài thơ văn xuôi của Rimbaud1 . Đầu đề “L’adieu”, tự nó, báo trước sẽ kể một chuyện tình buồn, chia lìa lứa đôi. Bài thơ rất ngắn, như sau:
1. J’ai cueilli ce brin de bruyère
2. L’automne est morte souviens-t’en
3. Nous ne nous verrons plus sur terre
4. Odeur du temps brin de bruyère
5. Et souviens-toi que je t’attends (tôi đánh số và in đậm)đã được hiểu, và dịch, từ trước đến nay bởi đa số độc giả như lời độc thoại của một nhân vật duy nhất:
1. Anh đã hái cọng thạch thảo này
2. Mùa thu đã chết em hãy nhớ
3. Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
4. Mùi thời gian cọng thạch thảo
5. Và em hãy nhớ rằng anh chờ em2Bài thơ được trích từ Alcools (Tửu thi, 1913), thi tập đầu tiên xuất bản của Apollinaire, gồm những bài đã đăng rải rác trên các báo từ 1898 đến 19123. Ông sống cùng thời với các họa sĩ lập thể và được xem như người tiên phong của Phong trào Siêu thực (Mouvement Surréaliste), hô hào giải phóng thi ca, đi tìm “cái chưa biết” (l’inconnu), “ngôn ngữ mới” (nouveau langage) bằng những sáng tạo độc đáo, gây ngạc nhiên với hình ảnh táo bạo, nếu không muốn nói lập dị, và lời thơ giàu nhạc điệu4. Tuy vậy, ông không được André Breton, thủ lãnh phong trào, và văn học sử công nhận là một thi sĩ siêu thực chính hiệu, vì thơ ông tổng hợp nhiều thể điệu và thể loại khác nhau, kể cả tượng trưng (cf. Signe, Cors de chasse). Như bài “L’adieu” trên, bên ngoài có vẻ “tự do” bởi xóa bỏ các dấu chấm câu (phát minh đầu tiên trong thi ca Pháp), thực ra chỉ là một trong những bài “ngũ cú bát ngôn” (quintil d’octosyllabes) với qui luật nhất định và cách hiệp vận bắt buộc ABAAB, mà độc giả từng gặp ở Baudelaire5.
“L’adieu” được đăng lần đầu trong báo “Le Festin d’Ésope”, số 2, tháng 12, 1903, cách đây (2006) đúng 103 năm. Khởi thủy được viết dưới dạng đối thoại giữa hai người, với ngoặc kép, dấu chấm câu, một khoảng trống sau câu 3, và nội dung câu 2, 4 khác với bản hiện tại. Câu 1-3 dành cho người sống nói (chàng, anh?), và 4-5 là của người chết hoặc sắp chết (nàng, em?):
“Anh đã hái cọng thạch thảo này.
Em hãy đặt nó trên tim em lâu hơn
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời”.“Em đã đặt hoa thạch thảo trên tim em,
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh”.Hai câu 2, 4 trên, thi sĩ thấy tầm thường, nên đã thay bằng “Mùa thu đã chết em hãy nhớ” và “Mùi thời gian cọng thạch thảo” khi đăng lại trong “Vers et Prose”, bộ XXXI, tháng 10-11, 1912, và nhờ vậy bài thơ bỗng biến hình, trở nên diễm tuyệt. Dấu ngoặc kép và chấm, phết bị bỏ, nhưng vẫn còn khoảng trống sau câu 3 để giữ lại thể đối thoại6. Bản in trong Alcools -cũng là bản chính thức, vĩnh viễn- nhập chung lời hai người, như ta thấy, để độc giả muốn hiểu, hoặc tưởng tượng, sao cũng được. Và chính cái mơ hồ, mông lung đó tạo cho bài thơ nét đẹp cô đọng tuyệt vời và điệu buồn man mác, ngất ngây. Vấn đề của độc giả Việt Nam là cần biết lai lịch và hiểu rõ nội dung bài thơ mới dịch đúng hai đại danh từ (pronom) je và tu: anh trở thành em, và ngược lại.
Đối thoại hay độc thoại không là thắc mắc đối với dân Tây: họ hiểu một cách tự nhiên, qua mạch thơ, rằng “L’adieu” kể về hai người phải xa cách nhau trên cõi đời này bởi cái chết, hơn là do mối tình tan vỡ: chàng vào nghĩa trang thăm nàng, cả hai tâm sự (dĩ nhiên chỉ trong trí tưởng của chàng, như những lời độc thoại không dứt), giữa cảnh thu tàn, đìu hiu và hoang vắng với những cành hoa thạch thảo mọc quanh mộ nàng.
Và ta thử dịch lại, với khoảng trống tưởng tượng sau câu 3 -đã có trước kia- như lời đối thoại giữa hai người:Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anhỞ tiếng Việt, khác với tiếng Pháp, câu cuối thay đổi cách xưng hô đột ngột như vậy làm độc giả thấy bỡ ngỡ. Nhưng thay đổi rất hợp lý. Vì đó là ý của thi sĩ, ít ra từ lúc đầu, như ta biết. Và vì nếu chính chàng nói je t’attends (anh chờ em) sau khi bảo nous ne nous verrons plus sur terre (chúng ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời) thì hóa ra tự mâu thuẫn, ngoại trừ chờ em ở một nơi nào bên kia thế giới. Mà dù bên kia thế giới, chàng cũng không thể nói câu đó được. Phải là nàng. Em chờ anh, để tái hợp dưới chốn tuyền đài. Chỉ người chết mới chờ người sống. Ngược lại, sẽ là chuyện liêu trai.
Có thể, đơn giản hơn, em chờ anh đến thăm em, tại nghĩa trang này, như Victor Hugo, trong bài “Demain, dès l’aube…”, buổi sáng khi sắp đi viếng mộ con gái, Léopoldine, cũng nói biết cô đang chờ ông7: “Demain, dès l’aube, à l’heure où blanchit la campagne / Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends (…)” (Ngày mai, từ rạng đông, vào giờ cánh đồng phủ trắng / Cha sẽ ra đi. Con thấy không, cha biết con đang chờ cha)…Về “L’adieu”, vài nhà bình luận nêu giả thuyết rằng hai tình nhân chia tay vì đã hết yêu nhau. Nhưng nghĩ cho cùng thấy không ổn. Vì vĩnh biệt là ra đi, một khởi hành mới, nhưng ra đi đâu phải lúc nào cũng có nghĩa là tình đã mất -điều lại càng không xảy ra ở bài thơ này8. Mà giả sử tình đã hết và bắt buộc xa nhau trọn đời (sur terre) thật rồi thì còn tiếc nuối gì để phải thốt lên anh chờ em một cách kỳ quặc, nếu không nói lẩm cẩm như vậy? Rồi ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời: không trên đời này, thì còn ở đâu khác, ngoài cõi âm?
Một chi tiết cần nhắc tới -một lỗi văn phạm “quả tang”, rành rành- trong câu
2: L’automne est morte… Trong thế kỷ XVII, ta biết, automne có hai giống (genres), vừa masculin (đực) vừa féminin (cái). Từ sau đó, theo tự điển, luật văn phạm hiện hành, và dựa trên nguyên chữ Latin, autumnus, m, chữ automne bắt buộc chỉ được dùng ở giống đực. Học sinh nào viết sai giống, là bị trừ điểm. Nhưng ở đây động từ est morte lại được Apollinaire chia ở giống cái. Vô lẽ ông không biết? Hay ông cố tình phạm lỗi -dễ dàng được “tha” vì là một nhà thơ? Phải chăng thi sĩ muốn nhân cách hóa, và đồng hóa, mùa thu với người yêu, và như vậy, trong bài thơ, mùa thu đã chết (tức người yêu đã chết) mới có giá trị đặc biệt đến nỗi phải nhớ đến cùng với cọng thạch thảo? Tại sao không, vì trong một bài khác, “Signe”, ông cũng đặt Automne (A hoa) ở giống cái cùng với tĩnh từ éternelle, để dùng -chỉ hai lần trong suốt tập Alcools- như ẩn dụ cho nàng: Mon Automne éternelle ô ma saison mentale (Mùa Thu vĩnh cửu của tôi ôi mùa trí tưởng của tôi)? Tương tự Gérard de Nerval, trước ông, trong bài “El Desdichado” (Kẻ bất hạnh) tuyệt hay, cũng đã gọi người tình khuất xa là étoile (vì sao): Ma seule étoile est morte, -et mon luth constellé / Porte le soleil noir de la Mélancolie (Vì sao duy nhất của tôi đã chết, và cây đàn tỳ bà lấp lánh của tôi / Mang mặt trời đen của nỗi Muộn Phiền)9.2. Bài “L’adieu” đầy thơ đầy mộng, ít phổ thông này của Apollinaire đã được nhà soạn ca khúc tài danh Phạm Duy dịch ra, từ lâu, thành “Mùa thu chết” rất quen thuộc trước đây, được nhiều người ưa chuộng. Như sau:
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi
Em nhớ cho, em nhớ cho
Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ… đợi em10Theo thiển ý, nhạc rên siết, nghe thảm não. Nội dung nghèo nàn, thành ra tầm thường. Lời ca xúc động thái quá, hóa nên giả tạo (văn chương gọi là pathos), so với nỗi đau nghẹn ngào, chơi vơi mộng ảo, làm tan nát cõi lòng, từ mỗi câu, mỗi chữ của “L’adieu”. Nhưng rõ ràng Phạm Duy đã dịch từ bài thơ, dù đôi chỗ ông phóng bút “quá tay”, thêm thắt hoặc bỏ đi vài chữ -mà có lẽ ông không thấy tầm quan trọng- cho hợp với dòng nhạc và nhận thức riêng. Ông không phóng tác, lấy ý, hoặc gợi hứng theo, như nhiều người vẫn nghĩ, và chính ông tự thổ lộ11. Vì rằng, nếu không biết bài thơ, và nếu không bị đánh lừa, quyến rũ bởi giai điệu, người ta không chắc đã hiểu bài ca muốn nói gì với cụm thạch thảo, với mùa thu đã chết rồi, với hương thời gian, từ đâu, tự nhiên gom lại đứng chung với nhau một cách vô cớ (gratuit) như thế. Quả thực, nội dung “Mùa thu chết” không có gì khác với “L’adieu”. Cũng bấy nhiêu ý tình, bấy nhiêu từ ngữ, bấy nhiêu hình ảnh, bấy nhiêu sầu biệt ly. Ngoại trừ bài thơ ngắn, bề ngoài tưởng dễ này đã chưa được hiểu đúng mức, hoặc chuyển ngữ một cách cẩn trọng. Ngoại trừ, trong bài ca, chữ ta, đối với em, trịch thượng, theo truyền thống “nam phiệt” (macho) của các thi nhạc sĩ Việt Nam -truyền thống cần xét lại dưới ánh sáng phân tâm học12.
Không ai đòi hỏi một nhạc sĩ, bị gò bó bởi cung bậc, phải dịch đúng bản chính. Càng không bắt phải hiểu một bài thơ như người khác, hoặc chính mình, hiểu (miễn sao có lập luận vững chắc), vì nếu ai cũng bình giảng một kiểu, thì còn gì độc đáo, hấp dẫn? Nhất là trong thơ của Apollinaire -khác với, chẳng hạn, của Victor Hugo, “chân phương” hơn- người ta không thấy đâu biên giới giữa thực và hư, sống và chết, lý trí và con tim; tất cả xóa nhòa theo cảm xúc của thi nhân và của riêng từng người đọc, như ở bài “L’adieu” này13. Tuy nhiên, đã gọi là dịch, dù ít dù nhiều, dù thoáng dù sát, thì tối thiểu những nét căn bản của nguyên văn phải được tôn trọng, nếu không, bài thơ sẽ biến dạng, giảm giá trị. Ví dụ hai câu đầu trong “Mùa thu chết”:Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa thu đã chết rồi!tuy được dịch -không phỏng theo, xin nhắc lại- từ:
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
(Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ)vẫn có những điểm dị biệt quan trọng: thì quá khứ (passé composé) của động từ ai cueilli (đã hái), và chỉ thị tĩnh từ (adjectif démonstratif) ce (có thể là này, this, hoặc đó, that, hoặc cả hai, tùy theo cách diễn giải) biến mất trong Phạm Duy, để được thay bằng ta ngắt đi khơi khơi, không chỉ rõ thời gian, và thay ce bằng bất định quán từ (article indéfini) một cụm (một cụm khác với cọng này lắm chứ!)
Bài thơ mở ra trên một kỷ niệm -điều, rất tiếc, không thấy có trong lời ca. Thử dựng nên một phân cảnh (scénario): thi sĩ nói chuyện với người khuất mặt, chỉ cho nàng cọng thạch thảo này (hiện tại) chàng mới hái cầm trong tay -như cọng thạch thảo đó (quá khứ) mà trước kia chàng đã hái, một lần nào, với nàng trong ngày cuối thu- để nhắc nhở nàng cả hai sự việc cùng được hàm chứa trong đại danh từ en
điều đó): hái cọng thạch thảo và mùa thu đã chết đều thuộc về quá khứ và liên quan mật thiết với nhau (j’ai cueilli ce brin de bruyère đi liền với l’automne est morte, và souviens-t’en đứng sau cùng để muốn nàng nhớ cả hai việc, trong khi Phạm Duy, vì không thấy sự liên quan ấy, lại cho em nhớ cho chen vào giữa, ngăn đôi hai vế cụm thạch thảo và mùa thu đã chết rồi). Như vậy, brin de bruyère -cọng thạch thảo, có vai trò thiết yếu trong bài thơ- làm sống dậy cả một dĩ vãng, như chiếc bánh “madeleine” chấm vào tách trà tỏa thơm đã khởi động trí nhớ của Marcel Proust trong hành trình đi tìm thời gian đã mất14. Thiết yếu đến nỗi, ở câu 4, brin de bruyère được lặp lại bởi nàng, lần này với odeur du temps cùng tượng trưng cho kỷ niệm như l’automne est morte ở câu 2, và đã hiện diện, ta biết, ngay trong các bản in đầu tiên.
Tách rời hai sự việc trên, như nhạc sĩ đã làm, người ta không thể hiểu tại sao khi ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo thì em nhớ cho mùa thu đã chết rồi. Dường như Phạm Duy chỉ chú trọng đến l’automne est morte, mà quên ce brin de bruyère, nên đã dành trọn ba câu ca tiếp cho mùa thu đã chết rồi (ba lần) và van nài (ca sĩ hát nấc lên thảm thiết đoạn này) em nhớ cho (ba lần). Chữ cho bày tỏ sự thiết tha năn nỉ (tại sao phải năn nỉ đến thế nhỉ?), trong khi souviens-t’en có cùng “rime masculine”15 với t’attends, ở câu 5, đọc nghe vang vọng lời yêu thương ray rứt hay tiếng thổn thức gợi sầu miên man. Mà mùa thu đã chết rồi (tức đông sang, theo diễn nghĩa khách quan), nếu bị tách khỏi mạch thơ thì có gì để phải nhớ đến một cách cường điệu, lộ liễu như vậy? Hay Phạm Duy cũng muốn, như Apollinaire, xem trong mùa thu đã chết hình ảnh của một người tình đã mất, nhưng bỗng nhiên hóa nên thảm sầu hơn (và, bởi vậy, nghe kỳ quặc hơn chăng)?
Thêm nữa, về từ vựng (vocabulaire), cũng không đúng lắm. Cueilli có nghĩa ngắt hoặc hái. Nhưng ngắt không thể dùng cho cụm. Rồi tại sao ngắt đi? Chữ đi ở đây mang nghĩa xấu (péjoratif), tiêu cực: ngắt để vứt đi cho rồi, biểu lộ sự bực dọc, khó chịu, miễn cưỡng16. Rồi làm sao brin lại biến thành cụm (cọng hay cụm đều hợp với nốt nhạc kia mà)? Rồi ngắt cả một cụm để làm chi? Hình thù hoa thạch thảo đâu cho phép dùng cụm, mà chỉ cành hoặc cọng thôi17. Trong câu thơ, không phải ngẫu nhiên mà brin, tức cọng (như brin d’herbe, brin de paille, cọng cỏ, cọng rơm), được dùng: cọng ở đây là ẩn dụ cho sự đơn lẻ, như hoàn cảnh của thi sĩ và người xa cách, mong manh như kỷ niệm và cuộc tình giữa hai người ngay từ trong quá khứ (ai cueilli). Lại nữa, theo phép điệp vận (allitération), trong brin de bruyère, nối kết hai phụ âm (consonnes) [b] (môi, labiale) + [R] (lưỡi, linguale), được lặp lại hai lần, gợi nên lời buồn vời vợi, thì thầm, như tiếng lá hoa xào xạc, thích hợp với không khí nghĩa trang và nỗi lòng thi sĩ. Đó chưa kể âm mũi (nasale) -in trong brin, cũng như -iens và -en trong souviens-t’en của câu kế, nghe đượm nước mắt18. Làm sao chuyển được các âm sắc ấy, hoặc tương tự, vào bài hát Việt mới là tài, thay vì bắt ca đi ca lại những câu rỗng ý, vô vị theo đòi hỏi của âm giai. Người ta tin Phạm Duy dư khả năng làm việc đó -điều mà ông chứng tỏ qua những ca khúc khác, bài “Nếu một mai em sẽ qua đời”, chẳng hạn, cũng phổ thơ và cùng nội dung chia ly- nếu ông chịu khó nghiên cứu bài thơ kỹ hơn, dù để dịch, “mượn”, hoặc chỉ phóng tác, lấy hứng.
Ta hãy nghe tiếp bài hát:Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhauBốn câu ca dài, thừa thãi, để chỉ dịch quanh một câu thơ nhẹ nhàng, súc tích:
Nous ne nous verrons plus sur terre (Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời).
Chỉ một câu thơ cũng đủ làm vỡ nát trái tim rồi, cần gì phải hát vòng vo? (Nous) verrons là thì tương lai (temps futur) của se voir, và se voir không có nghĩa nhìn nhau (phải là “se regarder”), mà thấy nhau. Ngay trong Việt ngữ, nhìn cũng đã khác lắm với thấy. Phạm Duy, dĩ nhiên, không thể nào không biết điều sơ đẳng ấy. Chẳng qua, tôi đoán, ông phân vân không biết nên hiểu câu thơ và ý của thi sĩ -mặc dù đã quá rõ với nous ne nous verrons plus- theo hướng nào trước sur terre là nhóm chữ mà ông nghĩ có thể áp dụng cho cả hai trường hợp: vĩnh biệt nhau trên cõi đời này vì bỏ nhau (sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa), hay cách ngăn bởi cái chết (mãi mãi không thấy nhau). Cho nên ông dịch se voir ra hai động từ (nhìn nhau và thấy nhau) cho “chắc ăn” chăng? Có thể lắm! Nhưng đã chẳng còn nhìn nhau nữa thì kết quả hiển nhiên là mãi mãi không thấy nhau, có gì lạ mà phải nói ra đến hai lần? Rồi tại sao đặt thêm cái mốc từ nay cho thời gian vĩnh biệt mà Apollinaire cố tình bỏ lửng, lãng đãng khói sương?Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ emđể dịch, gần nguyên văn:
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
(Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh)Hai câu đáp của nàng, trong Apollinaire, dĩ nhiên do chàng tưởng tượng, được nối kết bởi chữ et (và). Odeur nghĩa là mùi. Nếu là hương, thì đã có chữ “parfum”. Hương thời gian, như ta biết, chỉ là sáo ngữ trong thi ca Việt Nam -bắt buộc thời gian luôn luôn phải thơm, không hiểu tại sao và để làm gì19. Trong câu thơ, odeur du temps (mùi thời gian) có một ý nghĩa đặc biệt: thời gian của Apollinaire bao trùm quá khứ -nhất là quá khứ- tức kỷ niệm (với hai động từ ai cueilli và est morte ở “passé composé”), tương lai (verrons, “futur”), và hiện tại (attends, “présent”). Một đời, như trong Marcel Proust. Hay một cuộc tình, ở đây. Nghĩa là (quá) dài lâu. Mùi, vì vậy, trung tính, khách quan, thơm hay không là do cảm nhận của người trong cuộc. Mùi thời gian trong bài thơ, đó là sự cô đơn, cách xa, buồn đau, là kỷ niệm hiện về cùng với cọng thạch thảo và mùa thu chết trong nghĩa trang vắng lạnh, là lãng quên và chờ đợi mỏi mòn. Mùi thời gian, như vậy, không cay đắng, hư mốc thì thôi, làm sao mà ngát hương cho được? Cho nên, khi nhắc đến mùi thời gian và cọng thạch thảo, nàng phải bảo chàng rằng em đang chờ anh đây. Chờ anh đến thăm em tại nghĩa trang này, hay về cùng em nơi chín suối.
Một điểm cần nói thêm. Cũng như trường hợp động từ se voir, Phạm Duy muốn được “an toàn” với chữ odeur vì có lẽ, một lần nữa, không rõ dụng ý của thi sĩ, nhưng vẫn muốn trung thành với nội dung bài thơ: ông dịch odeur ra thành hai chữ, hương cho thời gian, nhưng mùi cho thạch thảo, thế nào cũng trúng một (giá ông đổi lại: mùi cho thời gian, hương cho thạch thảo, sẽ hay và đúng biết mấy!) Quả vậy, về mặt cấu trúc và văn phạm, trong câu thơ “suôn đuột”, thiếu chấm, phết trên, chữ odeur có thể (có thể thôi) hợp với cả temps lẫn brin de bruyère (thử viết đầy đủ: odeur du temps et du brin de bruyère). Nhưng dựa trên mạch thơ, người ta lại nghĩ khác: cọng thạch thảo được nhắc, lần này cùng với thời gian, như một kỷ niệm, một ám ảnh, tự nó đã là yếu tố quan trọng, độc lập, không cần hương hay mùi kèm theo. Cho nên odeur có lẽ chỉ thuộc về temps mà thôi.
Về câu ca chót. Chữ vẫn (trong ta vẫn chờ em) dư, được nhạc sĩ chế ra, và bắt ca đi ca lại; vì vậy làm hỏng ý thơ và rắc rối thêm nội dung bài hát vốn đã khó hiểu rồi. Nàng nói je t’attends, em chờ anh (muốn dùng “vẫn” thì có “encore” hay “toujours”) mà không nhốt sự chờ đợi vào khung thời gian nhỏ hẹp nào. Je t’attends của Apollinaire là câu nói cho một hiện tại vĩnh cửu, rộng đầy, luôn luôn mới, vượt trên quá khứ, vị lai. Một thiên thu. Mênh mông như niềm đau và nỗi mong chờ.3. Trên tạp chí “Thế Giới Ngày Nay” (TGNN) năm 2003, nhà báo nổi tiếng Nguyễn Văn Chức có viết một bài về cả “L’adieu” và “Mùa thu chết”20. Tuy chỉ bình luận qua, nhân về một đề tài khác, ông cũng nêu hai “cái sai” vừa nhỏ vừa lớn của Phạm Duy. Nhỏ, câu 1 của “L’adieu”: Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo. Nguyễn Văn Chức phân tích, rất chính xác, động từ ngắt đi và danh từ cụm -mà ông nói nhạc sĩ đã dịch sai. Nhưng chính ông lại không đúng khi thay chữ cụm bằng chữ nhánh. Vì, hiển nhiên, nhánh (hay cành) phải là “branche”, không thể brin, trong bài thơ này và ở mọi trường hợp.
Và đây là “cái sai lớn của Phạm Duy”, câu 3, về động từ se voir, được ông nhạc sĩ dịch ra nhìn nhau và thấy nhau -mà cả hai, theo Nguyễn Văn Chức, đều không đúng. Ông Chức viết: “Tiếng Pháp ‘se voir’ không có nghĩa là nhìn thấy nhau hoặc trông thấy nhau, mà có nghĩa là ‘se rencontrer’ (gặp nhau), hoặc ‘se fréquenter’ (lui tới nhau, đi lại với nhau). Gặp nhau, lui tới nhau, trong bài L’Adieu [sic] còn có nghĩa là âu yếm nhau, ái ân với nhau”, t.43. Thật vậy sao? Động từ se voir “không có nghĩa là trông thấy nhau” ư? Dĩ nhiên, se voir có thể hiểu là “se rencontrer”, hoặc “se fréquenter”, như ông nói, nhưng còn tùy theo câu văn, mạch thơ, trạng huống. Trong trường hợp “L’adieu”, ông đã đi quá xa, quá trớn, hơn cả Phạm Duy. Vì rằng, nếu giữa khung cảnh biệt ly não nùng hay trong nghĩa trang lạnh lẽo câu thơ nous ne nous verrons plus sur terre còn có nghĩa “chúng ta sẽ không còn âu yếm nhau, ái ân với nhau”, như ông Chức viết, thì chàng -nhân vật của bài thơ- quả có bệnh, hoặc bị ám ảnh bởi Mê Hồn Ca của Đinh Hùng:Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?21Điều này cho thấy Nguyễn Văn Chức hiểu bài thơ theo hướng khác, nghĩa là một trong những cuộc chia tay rất bình thường, và tầm thường, của những người chán nhau, không như Phạm Duy, dầu sao, còn ngập ngừng trước sur terre, như vừa phân tích, với kiểu dịch “nước đôi” ở trên.
Quả vậy, ta hãy nghe ông nhà báo giới thiệu “L’adieu”: “Theo sách vở và truyền tụng, Apollinaire viết bài thơ nói trên để vĩnh biệt người yêu (nàng Marie Laurencin), kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” (cf. TGNN, t.43). Đúng là nàng Marie Laurencin bị oan Thị Kính! Vì theo tiểu sử (chứ không phải “truyền tụng”) rải rác tên những người Apollinaire đã yêu, thường là đơn phương, và “sách vở” của những nhà nghiên cứu, thi sĩ chỉ gặp Marie Laurencin, qua trung gian của danh họa Picasso, bạn chung, vào năm 1907, và bị nàng bỏ rơi năm năm sau (và dĩ nhiên làm gì có chuyện vĩnh biệt “kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” -nghe có vẻ cải lương), mà bài thơ “L’adieu” thì, như ta biết, đã được đăng năm 1903, bốn năm trước, thời gian ông si mê, theo đuổi các bóng hình khác, đầu tiên là Marie Dubois ở Stavelot (Bỉ)21.Nhưng thiết nghĩ cũng không cần nêu tên tuổi nàng nào. Quả vậy, “L’adieu” bây giờ không thuộc riêng ai nữa, đã vượt không gian và thời gian để trở thành muôn thuở, dành cho những đôi lứa “bên trời lận đận” còn mãi mãi yêu nhau. Và đang chờ nhau qua cõi chết.
CHÚ THÍCH
(1) Trong “Une saison en enfer” (Một mùa dưới địa ngục), 1873. Bài thơ của Rimbaud, gồm những ý nghĩ rời về cuộc đời, quan niệm thi ca…, mở đầu bằng câu: “L’automne déjà!” (Mùa thu rồi đấy!). Trong bài “Zone” của Apollinaire, người ta còn đọc: Adieu Adieu / Soleil cou coupé. Bài “L’adieu” trích ra từ tập Alcools, Gallimard, 1944, với tựa đề được viết chính xác như thế, không phải “l’Adieu” hoặc “L’Adieu” theo một số người (có nhà báo Nguyễn Văn Chức).
(2) Sinh viên Mỹ các lớp Văn chương Pháp và đa số độc giả Việt Nam, kể cả nhạc sĩ Phạm Duy của “Mùa thu chết” và nhà báo Nguyễn Văn Chức của bài viết “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo…” (trong “Thế Giới Ngày Nay”, số 178, tháng 3- 4, 2003), đều cho hai câu 4-5 là do nam nhân vật nói và dịch theo ý hướng đó. Ví dụ, Nguyễn Văn Chức đã dịch câu cuối: Và em hãy nhớ anh đang chờ em. Ngoài ra, trong “Cỏ Thơm” (Tam cá nguyệt san Văn học Nghệ thuật Biên khảo, chủ nhiệm: Lưu Nguyễn Đạt, Fairfax, VA, số 6, 1997, t. 162) dịch giả Hồng Bào đã “chuyển ngữ” bài thơ của Apollinaire như sau: Anh vừa hái nhánh hoa sim / Mùa thu đã chết im lìm từ lâu / Ta không còn được thấy nhau / Sống chung trên cõi địa cầu ấm êm / Thời gian còn ngát hoa sim / Biết chăng anh vẫn chờ em mỏi mòn.
(3) Trong Alcools, thấy xuất hiện tất cả các chủ đề của thế giới thơ Apollinaire: hình ảnh sống động của cuộc đời được chụp hoặc gợi nhớ bằng kỷ niệm, trạng thái tâm hồn, bốn mùa, đàn bà, tình yêu-độc tố, tiên nữ và ngư nhân, ám ảnh bởi thời gian như nước trôi qua cầu, v.v… Có tám bài về sông Rhin, Đức (cf. Rhénanes), rất đặc sắc: Le mai le joli mai en barque sur le Rhin (Mai) (Tháng năm tháng năm xinh đẹp đi thuyền trên sông Rhin). Thi tập Alcools lấy nguồn cảm hứng và kết thành từ mối tình tuyệt vọng, dai dẳng, đau khổ thi sĩ dành cho Annie Playden, cô giáo người Anh: Et ma vie pour tes yeux lentement s’empoisonne (Les Colchiques) (Và cuộc đời tôi cho đôi mắt em từ từ bị tẩm độc).
(4) Sống vào thời kỳ tàn lụn của thi ca Tượng trưng, và trước phong trào Siêu thực đang mở ra, Apollinaire hiểu được giá trị của tiếng thơ vọng lên từ tiềm thức, thi điệu tự nhiên, lời thơ tự động (écriture automatique), những phối hợp tâm lý ngẫu hứng -tất cả làm nền cho thơ Siêu thực mà ông tích cực hỗ trợ. Tuy nhiên, so với các thi sĩ siêu thực chính hiệu, Apollinaire còn rất dễ hiểu, và những bài thơ hay nhất của ông, theo thiển ý, vẫn là những bài mang hơi hướng cổ điển, tượng trưng, kể cả trữ tình. “L’adieu” là một ví dụ, cùng với “Le pont Mirabeau” và nhiều bài khác. Còn Nguyễn Văn Chức, cũng trên bài báo đã dẫn, t.43, viết rằng Apollinaire đã “đưa nền thi ca Pháp từ trường phái biểu tượng (symbolisme) đến trường phái siêu thực (surréalisme)”. Sự thật, văn học sử và cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ (ông chết, lúc mới 38 tuổi, bởi dịch cúm Tây Ban Nha, năm 1918, đã giết hàng triệu người ở Âu châu) phủ nhận vai trò của ông trong việc dẫn dắt hai “trường phái” (école? chữ này, trong sách Pháp, chưa thấy dùng cho Siêu thực và Tượng trưng, chỉ có mouvement, phong trào). Về công lao của ông, như Nguyễn Văn Chức hàm ý, nếu có đối với phong trào Siêu thực mới phôi thai, cũng như của Rimbaud hay Nerval trước ông, không quan trọng như vậy, so với thủ lãnh Breton. Quả thế, Apollinaire, Rimbaud, hay Nerval, ít nhiều chỉ là những người tiên phong (cf. Jeanine Moulin, trong Guillaume Apollinaire, Droz, 1952).
(5) A: bruyère B: souviens-t’en A: terre
A: bruyère B: t’attends
Một số thi sĩ trước Apollinaire, hoặc đồng thời, đã làm lối thơ này, ví dụ Baudelaire, Verlaine, Laforgue, v.v… Trích một bài của Baudelaire:
Que m’importe que tu sois sage? A
Sois belle! et sois triste! Les pleurs B
Ajoutent un charme au visage A
Comme le fleuve au paysage; A
L’orage rajeunit les fleurs. B
(Madrigal triste)
Do đó Breton, trong “Manifeste” (Tuyên ngôn) về phong trào Siêu thực, trách cứ Apollinaire đã không dám “hy sinh những phương tiện văn chương tầm thường” (“…sacrifié de médiocres moyens littéraires”), ám chỉ các loại thơ có qui luật, và [Apollinaire] “chỉ được có mỗi cái chữ, đã vậy vẫn không hoàn hảo, của siêu thực” (“…possédé… que la lettre, encore imparfaite, du surréalisme”) (cf. Roger Lefèvre, Alcools, nxb Larousse, 1965, t.21).
(6) Nguyên văn bài “L’adieu” đăng trong “Le Festin d’Ésope”:
“J’ai cueilli ce brin de bruyère.
Mets-le sur ton coeur plus longtemps
Nous ne nous verrons plus sur terre”.“J’ai mis sur mon coeur la bruyère
Et souviens-toi que je t’attends”.
(trích lại từ Œeuvres poétiques d’Apollinaire, La Pléiade, t.1054.)
Về lai lịch bài thơ, có rất nhiều tài liệu. Bài viết này dựa trên các sách tiêu biểu như:
– Œuvres poétiques d’Apollinaire do André Billy viết tựa, Marcel Adéma và Michel Décaudin tuyển chọn, ghi chú, La Pléiade, Editions Gallimard, 1965, Notes, t.1054.
– Le dossier d’Alcools của Michel Décaudin, Librairie Minard, Paris, 1965, t.139.
– La poésie partout của Anna Boschetti, Collection Liber, Seuil, 2001, t.63.
– Guillaume Apollinaire – Alcools của Marie-Jeanne Durry, 3 quyển, SEDES, Paris, 1964, t. 119, 154, 172-174 (q.2), 70-71, 74 (q. 3).
– Alcools, dịch bởi Anne Hyde Greet, U. of California Press, Berkeley and Los Angeles, 1965, Notes, t.88-89.
(7) Trong Les Contemplations (1856). Hai câu cuối của bài thơ như sau:
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
(Và khi đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ con
Một bó ô-rô xanh và thạch thảo nở hoa)
Vì sự hiện diện của bruyère và khung cảnh nghĩa trang trong cả hai bài thơ, người ta thắc mắc không biết thi sĩ của chúng ta có chịu ảnh hưởng của Victor Hugo trong bài “Demain, dès l’aube…” cảm động này không. Hoặc chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên. Bruyère (“heath”, hay “heather” trong tiếng Anh) là một loại cây có hoa tím hoặc hồng, thơm, thích sống ở đất “siliceux” (đá cứng, bởi vậy mới gọi
bruyère / heather / thạch thảothạch thảo?) tạo nên vùng “lande” (Thanh Nghị dịch là “truông”) hoang dại, rất đặc biệt ở Pháp. Trong thơ Pháp, đến bây giờ, ngoài “L’adieu”, người ta chỉ gặp chữ bruyère hai lần nữa với bài trên của Hugo, và một bài khác không quan trọng của Apollinaire. Tại Việt Nam, Phạm Duy có lẽ là người đầu tiên nói đến thạch thảo. Trong “Văn Nghệ Tiền Phong”, số 410, 16-28/2/1993, t.62-66, có một truyện ngắn của Thảo Như -mà nội dung, tôi đoán, phóng tác theo ngoại quốc hoặc lấy hứng từ “Mùa thu chết”, có tựa là “Chùm hoa thạch thảo”, với bối cảnh Alaska, trong đó thạch thảo được tác giả xem như một loài hoa mọc trên núi, “dù cành khô cứng mà hoa vẫn tươi” (?)
(8) Xem bài “Les variations de personne dans Alcools” của Brian Gill trong Études autour d’Alcools, xb bởi Anne de Fabry và Marie-France Hilga, Summa Publi-cations, INC, Birmingham, Alabama, 1985, t.55-56. Theo tiểu sử, không có nhân tình nào của thi sĩ chết sớm, chỉ chê hoặc bỏ ông thôi. Cho nên, ở đây, không thể kết hợp đời thực vào với thơ.
(9) Ngoài hai trường hợp trên, trong Apollinaire, automne đều là “masculin”. Ngoài trừ trong thơ văn, luật mẹo (về ngữ vựng, văn phạm v.v…) rất khắt khe đối với học sinh và sinh viên các trường Pháp. Đàng khác, không chỉ mùa thu chết, mà mùa đông cũng chết nữa. Ví dụ trong bài “La chanson du mal-aimé”: L’hiver est mort tout enneigé… (Mùa đông đã chết phủ đầy tuyết…). Bài thơ của Nerval trích từ tập Les Chimères (Ảo vọng), 1853.
(10) Trích theo tài liệu của Phạm Duy trên internet, t. 155-156, và Ngàn Lời Ca, PDC xb, Quận Cam, 1987, t.199. Ông ghi: “Mùa thu chết, theo thơ Guillaume Apollinaire, Saigon, 1970”, và giải thích: “Tôi mượn bài thơ tình đầy chết chóc của thi sĩ Pháp Guillaume Apollinaire để soạn ca khúc…”, và: “Bài thơ này đã từng ám ảnh tôi từ hồi thập niên 50 khi tôi còn là sinh viên học nhạc tại Pháp. Được phổ nhạc thành một ca khúc Việt Nam, mang ngữ thuật nhạc trẻ, vào năm 1970 này, bài khúc Mùa Thu Chết nối lại truyền thống soạn nhạc mùa Thu của các nhạc sĩ lãng mạn trước đây, lần này thì ở một xúc cảm cao độ nhất. Vì nó khóc một cuộc tình có thật.” Có bốn điều cần đặt ra: -(a) Phạm Duy không lần nào nêu tên bài thơ, dù bị “ám ảnh” bởi nó; tại sao? -(b) Ông gọi bài thơ của Apollinaire là “bài thơ tình đầy chết chóc”: đầy chết chóc là một hàm súc (connotation) tổng quát, thực tế xấu xí, và là cụm từ thiếu trang trọng, không xứng với bài thơ hoặc bài hát; điều này chứng tỏ ông không thấy hết vẻ đẹp lãng mạn tiềm ẩn, nỗi đau câm nín chất chứa trong bài thơ. -(c) Ông nói bài thơ đã “ám ảnh” ông từ lâu; vậy mà ông vẫn không biết lai lịch của nó (để đến nỗi hiểu sai), nhất là khi còn ở Pháp, có nhiều sách vở, tài liệu, cơ hội. -(d) Ông không bao giờ nhận dịch bài thơ, mà chỉ nói mượn, theo, phổ nhạc… Nhưng theo Viên Linh, trước 1975, có một bản dịch bài thơ “L’adieu” do Bùi Giáng, và câu: Mùa thu đã chết, em nhớ cho “là của Bùi Giáng” (cf. Khởi Hành, số 111-112, tháng 1-2, 2006, t.22), đã bị Phạm Duy “mượn” nhưng không nêu tên dịch giả Bùi Giáng.
(11) Phạm Duy đặt lời Việt, hoặc phóng tác, cho nhiều bài ca ngoại quốc hay bản nhạc cổ điển. Riêng lời bài “Mùa thu chết”, tôi vẫn tin chắc là đã được ông, hoặc một người nào khác (ví dụ, Bùi Giáng) dịch từ “L’adieu”, trái với ý kiến của đa số, trong số có Nguyễn Văn Chức, trên bài báo đã dẫn, không xác quyết là dịch hay phỏng theo ý: “Lời ca, Phạm Duy lấy từ L’Adieu [sic] của Apollinaire.” (bđd t.43).
(12) Truyền thống “macho” này có thể là một đề tài hấp dẫn cho phân tâm học. Một số các thi nhạc sĩ Việt Nam cũ, mới, không hiểu tại sao, trong sáng tác, cứ xưng ta và gọi em với các người đẹp. Mặc cảm tự tôn, hay một lối “trả thù” vô thức? Hay chữ ta dùng để vô ngã hóa “cái tôi đáng ghét”?
(13) Thơ của Victor Hugo nói riêng, và các thi sĩ lãng mạn Pháp, và Baudelaire dễ hiểu, một phần vì sử dụng “alexandrin” là câu thơ dài 12 âm, có thể diễn đạt trọn vẹn ý tình, trong khi câu thơ “octosyllabe”, 8 âm, của Apollinaire lại ngắn, tỉnh lược (elliptique), súc tích, bắt độc giả phải vận dụng trí óc, suy luận, cảm xúc bén nhạy mới hiểu hết ý. Giống như, bên ta, thơ lục bát so với thơ Đường luật. Bài thơ “Demain, dès l’aube…” là một bằng chứng: tình cảm bộc lộ rõ ràng, lời thơ giản dị, hình ảnh đơn sơ.
(14) Marcel Proust, “Du côté de chez Swann”, thiên đầu của tuyệt phẩm A la recherche du temps perdu (1913-1927).
(15) Thi pháp Pháp, từ thế kỷ XVII, bắt “rime féminine” (vần cái) và “rime masculine” xen kẽ nhau. “Rime féminine” là vần kết thúc bằng -e câm, bruyère và terre, còn “rime masculine” kết thúc bằng âm phải đọc ra, souviens-t’en và t’attends, đan vào nhau cốt tạo nên nhạc điệu cho câu thơ.
(16) Trong bài báo đã dẫn, Nguyễn Văn Chức cũng nêu cái sai ấy của Phạm Duy: “Ngắt đi, tức là hái rồi liệng đi, không giữ gìn quý trọng.”, bđd, t.43. (17) Cụm là một khối gồm những cây nhỏ cùng một gốc, chụm lại với nhau, chẳng hạn cụm hoa, cụm rau thơm. Thạch thảo, trái lại, có những cọng, nếu tỏa lớn ra, thành nhánh, cành. (18) Nhạc tính trong “L’adieu” được diễn giải, dĩ nhiên, theo tiêu chuẩn ngữ học Pháp, không thể áp dụng cho âm Việt. Ví dụ tỵ âm (nasale) Pháp -in, -en có thể được thay bằng -nh, -m, -ng trong Việt ngữ (nhớ nhung, mẹ, nghẹn ngào v.v…) Xuân Diệu có câu: Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người, nghe như có lệ đẫm. Trong Kiều, ta đọc: Tóc mây một món dao vàng chia đôi -câu thơ với âm m chỉ sự trìu mến, dịu dàng, mà Đoàn Phú Tứ lấy đem vào “Màu thời gian”.
(19) Cho đến bây giờ, chưa thấy bài thơ Việt Nam nào có mùi thời gian, mà chỉ hương thời gian, màu thời gian. Ví dụ tiêu biểu nhất là bài “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ (tựa đề làm nghĩ đến Couleur du temps, 1949, di cảo, vở kịch thơ ba hồi của Apollinaire) với câu: “Hương thời gian thanh thanh”. Theo nội dung bài thơ này, có phải tình yêu trái ngang, mà thủy chung, giữa quân vương và Tần phi đã làm cho thời gian đợi chờ trở nên thanh thanh, đẹp, thơm nồng chăng? Có thể lắm. Nhưng còn thời gian chiến chinh, chẳng hạn, thời gian góa bụa, tang tóc, v.v…, thời gian chia lìa, lãng quên như trong “L’adieu”, cũng ngát hương được sao? Thời gian của Proust, trái lại, không có mùi, không có hương, được biến hóa vào các địa danh và kỷ niệm, và đánh dấu bởi sự xung đột giữa vĩnh cửu và hạn hữu, giữa tình yêu tuyệt diệu và phản bội ê chề, giữa khung trời hoa bướm và thế giới già nua, cằn cỗi…
(20) Trên bài báo đã dẫn, Thế Giới Ngày Nay số 178, tháng 3-4, 2003, Nguyễn Văn Chức cho rằng Phạm Duy đã hiểu sai “L’adieu”. Về bài thơ “L’adieu” ông Chức cũng nói “thuộc nó đã gần nửa thế kỷ” (t.43), giống như Phạm Duy (“từ hồi thập niên 50”, xem chú thích 10). Trong một bài báo mới nhất về Phạm Duy, chủ yếu đả kích lập trường chính trị của ông này, cũng trên TGNN, số 189, tháng 5-8, 2005, t.14-16, Nguyễn Văn Chức lại nhắc đến bài “L’adieu”: “(…) Phạm Duy đã hiểu sai thơ Apollinaire. Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thơ Apollinaire.” Theo thiển ý, Phạm Duy, cũng như nhiều người, kể cả chính Nguyễn Văn Chức, có thể đã không nắm hết ý bài thơ -là chuyện thường thôi. Nhưng bảo rằng Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thì có lẽ là một nhận xét thiên lệch, quá đáng chăng?
(21) Trong bài “Gửi người dưới mộ”, trích theo Thơ tình chọn lọc, do Nguyễn Hoài Thương sưu tầm và tuyển chọn, Khai Trí, USA, 1993, t.135.
(22) Theo quyển Guillaume Apollinaire, xb bởi Bibliothèque historique de la Ville de Paris, 1991, do Michel Décaudin trình bày, và Yves Bonnefoy đề tựa, trong mục “Repères biographiques” t.23, thì những “hình bóng” đó là: Marie Dubois ở Stavelot (1899), Linda Molina de Silva, em một người bạn ở Paris (1900-1902), và Annie Playden, gặp tại Đức, nguồn cảm hứng vô tận cho Apollinaire (1901-1902). Còn Marie Laurencin, t.85, được dành cho ba bài: “Cors de chasse”, “Marie”, và “Le pont Mirabeau”.Kim Thanh
ghi chú:
Bài này đã được đăng trên nguyệt san Khởi Hành, số tháng 1-2, 2006, của nhà văn Viên Linh, lúc nhạc sĩ Phạm Duy và nhà báo Nguyễn Văn Chức còn sống.Gửi lại, thứ tư 18/9/2019, để tưởng nhớ Ariane, một bạn học cũ tại Đại Học Grenoble, đang an giấc ngàn thu trong nghĩa trang Winterthur (Suisse).
Giới thiệu về trang web nàyYOUTUBE.COMMùa Thu Chết – Lệ ThuBình luận
-
Ẩn hoặc báo cáo bình luận này
- Trả lời
-
hôm nay mưa nhẹ như mưa thu, thật buồn, mời các bạn đọc một bài viết rất đáng đọc và nghe ca khúc Mùa Thu Chết của nhạc sĩ Phạm Duy, có liên quan đến bài viết này (KT có nhận định trực tiếp, tùy nghi quí bạn suy ngẫm nhận định về những nhận định – người hát ca sĩ Lệ Thu).
+
KIM THANH
Apollinaire: chờ nhau qua cõi chết
@1. Apollinaire (1880-1918) không phải là thi sĩ quen thuộc đối với độc giả Việt Nam, và cả người Pháp trung bình, so với Lamartine hay Victor Hugo, chẳng hạn. Người ta biết ông nhiều qua bài “Le pont Mirabeau” phổ quát, dễ hiểu, loại trữ tình, bi ca (élégie), mà học sinh trung học nào cũng phải thuộc. Tuy nhiên, một bài thơ khác của ông cũng hay không kém, hoặc hơn, nhưng ít ai nhắc đến, trừ trong sách nghiên cứu -nhất là ở Việt Nam, mặc dù đã được một ông nhạc sĩ lấy dịch làm thành ca khúc.
Đó là bài “L’adieu.” Sự vĩnh biệt, bởi mạo từ (article) l’. Chứ không phải vĩnh biệt, “Adieu” -¬thán từ (interjection) chia ly, như tựa đề một bài thơ văn xuôi của Rimbaud1 . Đầu đề “L’adieu”, tự nó, báo trước sẽ kể một chuyện tình buồn, chia lìa lứa đôi. Bài thơ rất ngắn, như sau:
1. J’ai cueilli ce brin de bruyère
2. L’automne est morte souviens-t’en
3. Nous ne nous verrons plus sur terre
4. Odeur du temps brin de bruyère
5. Et souviens-toi que je t’attends (tôi đánh số và in đậm)đã được hiểu, và dịch, từ trước đến nay bởi đa số độc giả như lời độc thoại của một nhân vật duy nhất:
1. Anh đã hái cọng thạch thảo này
2. Mùa thu đã chết em hãy nhớ
3. Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
4. Mùi thời gian cọng thạch thảo
5. Và em hãy nhớ rằng anh chờ em2Bài thơ được trích từ Alcools (Tửu thi, 1913), thi tập đầu tiên xuất bản của Apollinaire, gồm những bài đã đăng rải rác trên các báo từ 1898 đến 19123. Ông sống cùng thời với các họa sĩ lập thể và được xem như người tiên phong của Phong trào Siêu thực (Mouvement Surréaliste), hô hào giải phóng thi ca, đi tìm “cái chưa biết” (l’inconnu), “ngôn ngữ mới” (nouveau langage) bằng những sáng tạo độc đáo, gây ngạc nhiên với hình ảnh táo bạo, nếu không muốn nói lập dị, và lời thơ giàu nhạc điệu4. Tuy vậy, ông không được André Breton, thủ lãnh phong trào, và văn học sử công nhận là một thi sĩ siêu thực chính hiệu, vì thơ ông tổng hợp nhiều thể điệu và thể loại khác nhau, kể cả tượng trưng (cf. Signe, Cors de chasse). Như bài “L’adieu” trên, bên ngoài có vẻ “tự do” bởi xóa bỏ các dấu chấm câu (phát minh đầu tiên trong thi ca Pháp), thực ra chỉ là một trong những bài “ngũ cú bát ngôn” (quintil d’octosyllabes) với qui luật nhất định và cách hiệp vận bắt buộc ABAAB, mà độc giả từng gặp ở Baudelaire5.
“L’adieu” được đăng lần đầu trong báo “Le Festin d’Ésope”, số 2, tháng 12, 1903, cách đây (2006) đúng 103 năm. Khởi thủy được viết dưới dạng đối thoại giữa hai người, với ngoặc kép, dấu chấm câu, một khoảng trống sau câu 3, và nội dung câu 2, 4 khác với bản hiện tại. Câu 1-3 dành cho người sống nói (chàng, anh?), và 4-5 là của người chết hoặc sắp chết (nàng, em?):
“Anh đã hái cọng thạch thảo này.
Em hãy đặt nó trên tim em lâu hơn
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời”.“Em đã đặt hoa thạch thảo trên tim em,
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh”.Hai câu 2, 4 trên, thi sĩ thấy tầm thường, nên đã thay bằng “Mùa thu đã chết em hãy nhớ” và “Mùi thời gian cọng thạch thảo” khi đăng lại trong “Vers et Prose”, bộ XXXI, tháng 10-11, 1912, và nhờ vậy bài thơ bỗng biến hình, trở nên diễm tuyệt. Dấu ngoặc kép và chấm, phết bị bỏ, nhưng vẫn còn khoảng trống sau câu 3 để giữ lại thể đối thoại6. Bản in trong Alcools -cũng là bản chính thức, vĩnh viễn- nhập chung lời hai người, như ta thấy, để độc giả muốn hiểu, hoặc tưởng tượng, sao cũng được. Và chính cái mơ hồ, mông lung đó tạo cho bài thơ nét đẹp cô đọng tuyệt vời và điệu buồn man mác, ngất ngây. Vấn đề của độc giả Việt Nam là cần biết lai lịch và hiểu rõ nội dung bài thơ mới dịch đúng hai đại danh từ (pronom) je và tu: anh trở thành em, và ngược lại.
Đối thoại hay độc thoại không là thắc mắc đối với dân Tây: họ hiểu một cách tự nhiên, qua mạch thơ, rằng “L’adieu” kể về hai người phải xa cách nhau trên cõi đời này bởi cái chết, hơn là do mối tình tan vỡ: chàng vào nghĩa trang thăm nàng, cả hai tâm sự (dĩ nhiên chỉ trong trí tưởng của chàng, như những lời độc thoại không dứt), giữa cảnh thu tàn, đìu hiu và hoang vắng với những cành hoa thạch thảo mọc quanh mộ nàng.
Và ta thử dịch lại, với khoảng trống tưởng tượng sau câu 3 -đã có trước kia- như lời đối thoại giữa hai người:Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ
Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời
Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anhỞ tiếng Việt, khác với tiếng Pháp, câu cuối thay đổi cách xưng hô đột ngột như vậy làm độc giả thấy bỡ ngỡ. Nhưng thay đổi rất hợp lý. Vì đó là ý của thi sĩ, ít ra từ lúc đầu, như ta biết. Và vì nếu chính chàng nói je t’attends (anh chờ em) sau khi bảo nous ne nous verrons plus sur terre (chúng ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời) thì hóa ra tự mâu thuẫn, ngoại trừ chờ em ở một nơi nào bên kia thế giới. Mà dù bên kia thế giới, chàng cũng không thể nói câu đó được. Phải là nàng. Em chờ anh, để tái hợp dưới chốn tuyền đài. Chỉ người chết mới chờ người sống. Ngược lại, sẽ là chuyện liêu trai.
Có thể, đơn giản hơn, em chờ anh đến thăm em, tại nghĩa trang này, như Victor Hugo, trong bài “Demain, dès l’aube…”, buổi sáng khi sắp đi viếng mộ con gái, Léopoldine, cũng nói biết cô đang chờ ông7: “Demain, dès l’aube, à l’heure où blanchit la campagne / Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends (…)” (Ngày mai, từ rạng đông, vào giờ cánh đồng phủ trắng / Cha sẽ ra đi. Con thấy không, cha biết con đang chờ cha)…Về “L’adieu”, vài nhà bình luận nêu giả thuyết rằng hai tình nhân chia tay vì đã hết yêu nhau. Nhưng nghĩ cho cùng thấy không ổn. Vì vĩnh biệt là ra đi, một khởi hành mới, nhưng ra đi đâu phải lúc nào cũng có nghĩa là tình đã mất -điều lại càng không xảy ra ở bài thơ này8. Mà giả sử tình đã hết và bắt buộc xa nhau trọn đời (sur terre) thật rồi thì còn tiếc nuối gì để phải thốt lên anh chờ em một cách kỳ quặc, nếu không nói lẩm cẩm như vậy? Rồi ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời: không trên đời này, thì còn ở đâu khác, ngoài cõi âm?
Một chi tiết cần nhắc tới -một lỗi văn phạm “quả tang”, rành rành- trong câu
2: L’automne est morte… Trong thế kỷ XVII, ta biết, automne có hai giống (genres), vừa masculin (đực) vừa féminin (cái). Từ sau đó, theo tự điển, luật văn phạm hiện hành, và dựa trên nguyên chữ Latin, autumnus, m, chữ automne bắt buộc chỉ được dùng ở giống đực. Học sinh nào viết sai giống, là bị trừ điểm. Nhưng ở đây động từ est morte lại được Apollinaire chia ở giống cái. Vô lẽ ông không biết? Hay ông cố tình phạm lỗi -dễ dàng được “tha” vì là một nhà thơ? Phải chăng thi sĩ muốn nhân cách hóa, và đồng hóa, mùa thu với người yêu, và như vậy, trong bài thơ, mùa thu đã chết (tức người yêu đã chết) mới có giá trị đặc biệt đến nỗi phải nhớ đến cùng với cọng thạch thảo? Tại sao không, vì trong một bài khác, “Signe”, ông cũng đặt Automne (A hoa) ở giống cái cùng với tĩnh từ éternelle, để dùng -chỉ hai lần trong suốt tập Alcools- như ẩn dụ cho nàng: Mon Automne éternelle ô ma saison mentale (Mùa Thu vĩnh cửu của tôi ôi mùa trí tưởng của tôi)? Tương tự Gérard de Nerval, trước ông, trong bài “El Desdichado” (Kẻ bất hạnh) tuyệt hay, cũng đã gọi người tình khuất xa là étoile (vì sao): Ma seule étoile est morte, -et mon luth constellé / Porte le soleil noir de la Mélancolie (Vì sao duy nhất của tôi đã chết, và cây đàn tỳ bà lấp lánh của tôi / Mang mặt trời đen của nỗi Muộn Phiền)9.2. Bài “L’adieu” đầy thơ đầy mộng, ít phổ thông này của Apollinaire đã được nhà soạn ca khúc tài danh Phạm Duy dịch ra, từ lâu, thành “Mùa thu chết” rất quen thuộc trước đây, được nhiều người ưa chuộng. Như sau:
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi
Em nhớ cho, em nhớ cho
Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ… đợi em10Theo thiển ý, nhạc rên siết, nghe thảm não. Nội dung nghèo nàn, thành ra tầm thường. Lời ca xúc động thái quá, hóa nên giả tạo (văn chương gọi là pathos), so với nỗi đau nghẹn ngào, chơi vơi mộng ảo, làm tan nát cõi lòng, từ mỗi câu, mỗi chữ của “L’adieu”. Nhưng rõ ràng Phạm Duy đã dịch từ bài thơ, dù đôi chỗ ông phóng bút “quá tay”, thêm thắt hoặc bỏ đi vài chữ -mà có lẽ ông không thấy tầm quan trọng- cho hợp với dòng nhạc và nhận thức riêng. Ông không phóng tác, lấy ý, hoặc gợi hứng theo, như nhiều người vẫn nghĩ, và chính ông tự thổ lộ11. Vì rằng, nếu không biết bài thơ, và nếu không bị đánh lừa, quyến rũ bởi giai điệu, người ta không chắc đã hiểu bài ca muốn nói gì với cụm thạch thảo, với mùa thu đã chết rồi, với hương thời gian, từ đâu, tự nhiên gom lại đứng chung với nhau một cách vô cớ (gratuit) như thế. Quả thực, nội dung “Mùa thu chết” không có gì khác với “L’adieu”. Cũng bấy nhiêu ý tình, bấy nhiêu từ ngữ, bấy nhiêu hình ảnh, bấy nhiêu sầu biệt ly. Ngoại trừ bài thơ ngắn, bề ngoài tưởng dễ này đã chưa được hiểu đúng mức, hoặc chuyển ngữ một cách cẩn trọng. Ngoại trừ, trong bài ca, chữ ta, đối với em, trịch thượng, theo truyền thống “nam phiệt” (macho) của các thi nhạc sĩ Việt Nam -truyền thống cần xét lại dưới ánh sáng phân tâm học12.
Không ai đòi hỏi một nhạc sĩ, bị gò bó bởi cung bậc, phải dịch đúng bản chính. Càng không bắt phải hiểu một bài thơ như người khác, hoặc chính mình, hiểu (miễn sao có lập luận vững chắc), vì nếu ai cũng bình giảng một kiểu, thì còn gì độc đáo, hấp dẫn? Nhất là trong thơ của Apollinaire -khác với, chẳng hạn, của Victor Hugo, “chân phương” hơn- người ta không thấy đâu biên giới giữa thực và hư, sống và chết, lý trí và con tim; tất cả xóa nhòa theo cảm xúc của thi nhân và của riêng từng người đọc, như ở bài “L’adieu” này13. Tuy nhiên, đã gọi là dịch, dù ít dù nhiều, dù thoáng dù sát, thì tối thiểu những nét căn bản của nguyên văn phải được tôn trọng, nếu không, bài thơ sẽ biến dạng, giảm giá trị. Ví dụ hai câu đầu trong “Mùa thu chết”:Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa thu đã chết rồi!tuy được dịch -không phỏng theo, xin nhắc lại- từ:
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
(Anh đã hái cọng thạch thảo này
Mùa thu đã chết em hãy nhớ)vẫn có những điểm dị biệt quan trọng: thì quá khứ (passé composé) của động từ ai cueilli (đã hái), và chỉ thị tĩnh từ (adjectif démonstratif) ce (có thể là này, this, hoặc đó, that, hoặc cả hai, tùy theo cách diễn giải) biến mất trong Phạm Duy, để được thay bằng ta ngắt đi khơi khơi, không chỉ rõ thời gian, và thay ce bằng bất định quán từ (article indéfini) một cụm (một cụm khác với cọng này lắm chứ!)
Bài thơ mở ra trên một kỷ niệm -điều, rất tiếc, không thấy có trong lời ca. Thử dựng nên một phân cảnh (scénario): thi sĩ nói chuyện với người khuất mặt, chỉ cho nàng cọng thạch thảo này (hiện tại) chàng mới hái cầm trong tay -như cọng thạch thảo đó (quá khứ) mà trước kia chàng đã hái, một lần nào, với nàng trong ngày cuối thu- để nhắc nhở nàng cả hai sự việc cùng được hàm chứa trong đại danh từ en
điều đó): hái cọng thạch thảo và mùa thu đã chết đều thuộc về quá khứ và liên quan mật thiết với nhau (j’ai cueilli ce brin de bruyère đi liền với l’automne est morte, và souviens-t’en đứng sau cùng để muốn nàng nhớ cả hai việc, trong khi Phạm Duy, vì không thấy sự liên quan ấy, lại cho em nhớ cho chen vào giữa, ngăn đôi hai vế cụm thạch thảo và mùa thu đã chết rồi). Như vậy, brin de bruyère -cọng thạch thảo, có vai trò thiết yếu trong bài thơ- làm sống dậy cả một dĩ vãng, như chiếc bánh “madeleine” chấm vào tách trà tỏa thơm đã khởi động trí nhớ của Marcel Proust trong hành trình đi tìm thời gian đã mất14. Thiết yếu đến nỗi, ở câu 4, brin de bruyère được lặp lại bởi nàng, lần này với odeur du temps cùng tượng trưng cho kỷ niệm như l’automne est morte ở câu 2, và đã hiện diện, ta biết, ngay trong các bản in đầu tiên.
Tách rời hai sự việc trên, như nhạc sĩ đã làm, người ta không thể hiểu tại sao khi ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo thì em nhớ cho mùa thu đã chết rồi. Dường như Phạm Duy chỉ chú trọng đến l’automne est morte, mà quên ce brin de bruyère, nên đã dành trọn ba câu ca tiếp cho mùa thu đã chết rồi (ba lần) và van nài (ca sĩ hát nấc lên thảm thiết đoạn này) em nhớ cho (ba lần). Chữ cho bày tỏ sự thiết tha năn nỉ (tại sao phải năn nỉ đến thế nhỉ?), trong khi souviens-t’en có cùng “rime masculine”15 với t’attends, ở câu 5, đọc nghe vang vọng lời yêu thương ray rứt hay tiếng thổn thức gợi sầu miên man. Mà mùa thu đã chết rồi (tức đông sang, theo diễn nghĩa khách quan), nếu bị tách khỏi mạch thơ thì có gì để phải nhớ đến một cách cường điệu, lộ liễu như vậy? Hay Phạm Duy cũng muốn, như Apollinaire, xem trong mùa thu đã chết hình ảnh của một người tình đã mất, nhưng bỗng nhiên hóa nên thảm sầu hơn (và, bởi vậy, nghe kỳ quặc hơn chăng)?
Thêm nữa, về từ vựng (vocabulaire), cũng không đúng lắm. Cueilli có nghĩa ngắt hoặc hái. Nhưng ngắt không thể dùng cho cụm. Rồi tại sao ngắt đi? Chữ đi ở đây mang nghĩa xấu (péjoratif), tiêu cực: ngắt để vứt đi cho rồi, biểu lộ sự bực dọc, khó chịu, miễn cưỡng16. Rồi làm sao brin lại biến thành cụm (cọng hay cụm đều hợp với nốt nhạc kia mà)? Rồi ngắt cả một cụm để làm chi? Hình thù hoa thạch thảo đâu cho phép dùng cụm, mà chỉ cành hoặc cọng thôi17. Trong câu thơ, không phải ngẫu nhiên mà brin, tức cọng (như brin d’herbe, brin de paille, cọng cỏ, cọng rơm), được dùng: cọng ở đây là ẩn dụ cho sự đơn lẻ, như hoàn cảnh của thi sĩ và người xa cách, mong manh như kỷ niệm và cuộc tình giữa hai người ngay từ trong quá khứ (ai cueilli). Lại nữa, theo phép điệp vận (allitération), trong brin de bruyère, nối kết hai phụ âm (consonnes) [b] (môi, labiale) + [R] (lưỡi, linguale), được lặp lại hai lần, gợi nên lời buồn vời vợi, thì thầm, như tiếng lá hoa xào xạc, thích hợp với không khí nghĩa trang và nỗi lòng thi sĩ. Đó chưa kể âm mũi (nasale) -in trong brin, cũng như -iens và -en trong souviens-t’en của câu kế, nghe đượm nước mắt18. Làm sao chuyển được các âm sắc ấy, hoặc tương tự, vào bài hát Việt mới là tài, thay vì bắt ca đi ca lại những câu rỗng ý, vô vị theo đòi hỏi của âm giai. Người ta tin Phạm Duy dư khả năng làm việc đó -điều mà ông chứng tỏ qua những ca khúc khác, bài “Nếu một mai em sẽ qua đời”, chẳng hạn, cũng phổ thơ và cùng nội dung chia ly- nếu ông chịu khó nghiên cứu bài thơ kỹ hơn, dù để dịch, “mượn”, hoặc chỉ phóng tác, lấy hứng.
Ta hãy nghe tiếp bài hát:Đôi chúng ta
Sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhauBốn câu ca dài, thừa thãi, để chỉ dịch quanh một câu thơ nhẹ nhàng, súc tích:
Nous ne nous verrons plus sur terre (Ta sẽ không thấy nhau nữa trên đời).
Chỉ một câu thơ cũng đủ làm vỡ nát trái tim rồi, cần gì phải hát vòng vo? (Nous) verrons là thì tương lai (temps futur) của se voir, và se voir không có nghĩa nhìn nhau (phải là “se regarder”), mà thấy nhau. Ngay trong Việt ngữ, nhìn cũng đã khác lắm với thấy. Phạm Duy, dĩ nhiên, không thể nào không biết điều sơ đẳng ấy. Chẳng qua, tôi đoán, ông phân vân không biết nên hiểu câu thơ và ý của thi sĩ -mặc dù đã quá rõ với nous ne nous verrons plus- theo hướng nào trước sur terre là nhóm chữ mà ông nghĩ có thể áp dụng cho cả hai trường hợp: vĩnh biệt nhau trên cõi đời này vì bỏ nhau (sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa), hay cách ngăn bởi cái chết (mãi mãi không thấy nhau). Cho nên ông dịch se voir ra hai động từ (nhìn nhau và thấy nhau) cho “chắc ăn” chăng? Có thể lắm! Nhưng đã chẳng còn nhìn nhau nữa thì kết quả hiển nhiên là mãi mãi không thấy nhau, có gì lạ mà phải nói ra đến hai lần? Rồi tại sao đặt thêm cái mốc từ nay cho thời gian vĩnh biệt mà Apollinaire cố tình bỏ lửng, lãng đãng khói sương?Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ emđể dịch, gần nguyên văn:
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
(Mùi thời gian cọng thạch thảo
Và anh hãy nhớ rằng em chờ anh)Hai câu đáp của nàng, trong Apollinaire, dĩ nhiên do chàng tưởng tượng, được nối kết bởi chữ et (và). Odeur nghĩa là mùi. Nếu là hương, thì đã có chữ “parfum”. Hương thời gian, như ta biết, chỉ là sáo ngữ trong thi ca Việt Nam -bắt buộc thời gian luôn luôn phải thơm, không hiểu tại sao và để làm gì19. Trong câu thơ, odeur du temps (mùi thời gian) có một ý nghĩa đặc biệt: thời gian của Apollinaire bao trùm quá khứ -nhất là quá khứ- tức kỷ niệm (với hai động từ ai cueilli và est morte ở “passé composé”), tương lai (verrons, “futur”), và hiện tại (attends, “présent”). Một đời, như trong Marcel Proust. Hay một cuộc tình, ở đây. Nghĩa là (quá) dài lâu. Mùi, vì vậy, trung tính, khách quan, thơm hay không là do cảm nhận của người trong cuộc. Mùi thời gian trong bài thơ, đó là sự cô đơn, cách xa, buồn đau, là kỷ niệm hiện về cùng với cọng thạch thảo và mùa thu chết trong nghĩa trang vắng lạnh, là lãng quên và chờ đợi mỏi mòn. Mùi thời gian, như vậy, không cay đắng, hư mốc thì thôi, làm sao mà ngát hương cho được? Cho nên, khi nhắc đến mùi thời gian và cọng thạch thảo, nàng phải bảo chàng rằng em đang chờ anh đây. Chờ anh đến thăm em tại nghĩa trang này, hay về cùng em nơi chín suối.
Một điểm cần nói thêm. Cũng như trường hợp động từ se voir, Phạm Duy muốn được “an toàn” với chữ odeur vì có lẽ, một lần nữa, không rõ dụng ý của thi sĩ, nhưng vẫn muốn trung thành với nội dung bài thơ: ông dịch odeur ra thành hai chữ, hương cho thời gian, nhưng mùi cho thạch thảo, thế nào cũng trúng một (giá ông đổi lại: mùi cho thời gian, hương cho thạch thảo, sẽ hay và đúng biết mấy!) Quả vậy, về mặt cấu trúc và văn phạm, trong câu thơ “suôn đuột”, thiếu chấm, phết trên, chữ odeur có thể (có thể thôi) hợp với cả temps lẫn brin de bruyère (thử viết đầy đủ: odeur du temps et du brin de bruyère). Nhưng dựa trên mạch thơ, người ta lại nghĩ khác: cọng thạch thảo được nhắc, lần này cùng với thời gian, như một kỷ niệm, một ám ảnh, tự nó đã là yếu tố quan trọng, độc lập, không cần hương hay mùi kèm theo. Cho nên odeur có lẽ chỉ thuộc về temps mà thôi.
Về câu ca chót. Chữ vẫn (trong ta vẫn chờ em) dư, được nhạc sĩ chế ra, và bắt ca đi ca lại; vì vậy làm hỏng ý thơ và rắc rối thêm nội dung bài hát vốn đã khó hiểu rồi. Nàng nói je t’attends, em chờ anh (muốn dùng “vẫn” thì có “encore” hay “toujours”) mà không nhốt sự chờ đợi vào khung thời gian nhỏ hẹp nào. Je t’attends của Apollinaire là câu nói cho một hiện tại vĩnh cửu, rộng đầy, luôn luôn mới, vượt trên quá khứ, vị lai. Một thiên thu. Mênh mông như niềm đau và nỗi mong chờ.3. Trên tạp chí “Thế Giới Ngày Nay” (TGNN) năm 2003, nhà báo nổi tiếng Nguyễn Văn Chức có viết một bài về cả “L’adieu” và “Mùa thu chết”20. Tuy chỉ bình luận qua, nhân về một đề tài khác, ông cũng nêu hai “cái sai” vừa nhỏ vừa lớn của Phạm Duy. Nhỏ, câu 1 của “L’adieu”: Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo. Nguyễn Văn Chức phân tích, rất chính xác, động từ ngắt đi và danh từ cụm -mà ông nói nhạc sĩ đã dịch sai. Nhưng chính ông lại không đúng khi thay chữ cụm bằng chữ nhánh. Vì, hiển nhiên, nhánh (hay cành) phải là “branche”, không thể brin, trong bài thơ này và ở mọi trường hợp.
Và đây là “cái sai lớn của Phạm Duy”, câu 3, về động từ se voir, được ông nhạc sĩ dịch ra nhìn nhau và thấy nhau -mà cả hai, theo Nguyễn Văn Chức, đều không đúng. Ông Chức viết: “Tiếng Pháp ‘se voir’ không có nghĩa là nhìn thấy nhau hoặc trông thấy nhau, mà có nghĩa là ‘se rencontrer’ (gặp nhau), hoặc ‘se fréquenter’ (lui tới nhau, đi lại với nhau). Gặp nhau, lui tới nhau, trong bài L’Adieu [sic] còn có nghĩa là âu yếm nhau, ái ân với nhau”, t.43. Thật vậy sao? Động từ se voir “không có nghĩa là trông thấy nhau” ư? Dĩ nhiên, se voir có thể hiểu là “se rencontrer”, hoặc “se fréquenter”, như ông nói, nhưng còn tùy theo câu văn, mạch thơ, trạng huống. Trong trường hợp “L’adieu”, ông đã đi quá xa, quá trớn, hơn cả Phạm Duy. Vì rằng, nếu giữa khung cảnh biệt ly não nùng hay trong nghĩa trang lạnh lẽo câu thơ nous ne nous verrons plus sur terre còn có nghĩa “chúng ta sẽ không còn âu yếm nhau, ái ân với nhau”, như ông Chức viết, thì chàng -nhân vật của bài thơ- quả có bệnh, hoặc bị ám ảnh bởi Mê Hồn Ca của Đinh Hùng:Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?21Điều này cho thấy Nguyễn Văn Chức hiểu bài thơ theo hướng khác, nghĩa là một trong những cuộc chia tay rất bình thường, và tầm thường, của những người chán nhau, không như Phạm Duy, dầu sao, còn ngập ngừng trước sur terre, như vừa phân tích, với kiểu dịch “nước đôi” ở trên.
Quả vậy, ta hãy nghe ông nhà báo giới thiệu “L’adieu”: “Theo sách vở và truyền tụng, Apollinaire viết bài thơ nói trên để vĩnh biệt người yêu (nàng Marie Laurencin), kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” (cf. TGNN, t.43). Đúng là nàng Marie Laurencin bị oan Thị Kính! Vì theo tiểu sử (chứ không phải “truyền tụng”) rải rác tên những người Apollinaire đã yêu, thường là đơn phương, và “sách vở” của những nhà nghiên cứu, thi sĩ chỉ gặp Marie Laurencin, qua trung gian của danh họa Picasso, bạn chung, vào năm 1907, và bị nàng bỏ rơi năm năm sau (và dĩ nhiên làm gì có chuyện vĩnh biệt “kèm theo nhánh thạch thảo như kỷ niệm ngàn đời” -nghe có vẻ cải lương), mà bài thơ “L’adieu” thì, như ta biết, đã được đăng năm 1903, bốn năm trước, thời gian ông si mê, theo đuổi các bóng hình khác, đầu tiên là Marie Dubois ở Stavelot (Bỉ)21.Nhưng thiết nghĩ cũng không cần nêu tên tuổi nàng nào. Quả vậy, “L’adieu” bây giờ không thuộc riêng ai nữa, đã vượt không gian và thời gian để trở thành muôn thuở, dành cho những đôi lứa “bên trời lận đận” còn mãi mãi yêu nhau. Và đang chờ nhau qua cõi chết.
CHÚ THÍCH
(1) Trong “Une saison en enfer” (Một mùa dưới địa ngục), 1873. Bài thơ của Rimbaud, gồm những ý nghĩ rời về cuộc đời, quan niệm thi ca…, mở đầu bằng câu: “L’automne déjà!” (Mùa thu rồi đấy!). Trong bài “Zone” của Apollinaire, người ta còn đọc: Adieu Adieu / Soleil cou coupé. Bài “L’adieu” trích ra từ tập Alcools, Gallimard, 1944, với tựa đề được viết chính xác như thế, không phải “l’Adieu” hoặc “L’Adieu” theo một số người (có nhà báo Nguyễn Văn Chức).
(2) Sinh viên Mỹ các lớp Văn chương Pháp và đa số độc giả Việt Nam, kể cả nhạc sĩ Phạm Duy của “Mùa thu chết” và nhà báo Nguyễn Văn Chức của bài viết “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo…” (trong “Thế Giới Ngày Nay”, số 178, tháng 3- 4, 2003), đều cho hai câu 4-5 là do nam nhân vật nói và dịch theo ý hướng đó. Ví dụ, Nguyễn Văn Chức đã dịch câu cuối: Và em hãy nhớ anh đang chờ em. Ngoài ra, trong “Cỏ Thơm” (Tam cá nguyệt san Văn học Nghệ thuật Biên khảo, chủ nhiệm: Lưu Nguyễn Đạt, Fairfax, VA, số 6, 1997, t. 162) dịch giả Hồng Bào đã “chuyển ngữ” bài thơ của Apollinaire như sau: Anh vừa hái nhánh hoa sim / Mùa thu đã chết im lìm từ lâu / Ta không còn được thấy nhau / Sống chung trên cõi địa cầu ấm êm / Thời gian còn ngát hoa sim / Biết chăng anh vẫn chờ em mỏi mòn.
(3) Trong Alcools, thấy xuất hiện tất cả các chủ đề của thế giới thơ Apollinaire: hình ảnh sống động của cuộc đời được chụp hoặc gợi nhớ bằng kỷ niệm, trạng thái tâm hồn, bốn mùa, đàn bà, tình yêu-độc tố, tiên nữ và ngư nhân, ám ảnh bởi thời gian như nước trôi qua cầu, v.v… Có tám bài về sông Rhin, Đức (cf. Rhénanes), rất đặc sắc: Le mai le joli mai en barque sur le Rhin (Mai) (Tháng năm tháng năm xinh đẹp đi thuyền trên sông Rhin). Thi tập Alcools lấy nguồn cảm hứng và kết thành từ mối tình tuyệt vọng, dai dẳng, đau khổ thi sĩ dành cho Annie Playden, cô giáo người Anh: Et ma vie pour tes yeux lentement s’empoisonne (Les Colchiques) (Và cuộc đời tôi cho đôi mắt em từ từ bị tẩm độc).
(4) Sống vào thời kỳ tàn lụn của thi ca Tượng trưng, và trước phong trào Siêu thực đang mở ra, Apollinaire hiểu được giá trị của tiếng thơ vọng lên từ tiềm thức, thi điệu tự nhiên, lời thơ tự động (écriture automatique), những phối hợp tâm lý ngẫu hứng -tất cả làm nền cho thơ Siêu thực mà ông tích cực hỗ trợ. Tuy nhiên, so với các thi sĩ siêu thực chính hiệu, Apollinaire còn rất dễ hiểu, và những bài thơ hay nhất của ông, theo thiển ý, vẫn là những bài mang hơi hướng cổ điển, tượng trưng, kể cả trữ tình. “L’adieu” là một ví dụ, cùng với “Le pont Mirabeau” và nhiều bài khác. Còn Nguyễn Văn Chức, cũng trên bài báo đã dẫn, t.43, viết rằng Apollinaire đã “đưa nền thi ca Pháp từ trường phái biểu tượng (symbolisme) đến trường phái siêu thực (surréalisme)”. Sự thật, văn học sử và cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ (ông chết, lúc mới 38 tuổi, bởi dịch cúm Tây Ban Nha, năm 1918, đã giết hàng triệu người ở Âu châu) phủ nhận vai trò của ông trong việc dẫn dắt hai “trường phái” (école? chữ này, trong sách Pháp, chưa thấy dùng cho Siêu thực và Tượng trưng, chỉ có mouvement, phong trào). Về công lao của ông, như Nguyễn Văn Chức hàm ý, nếu có đối với phong trào Siêu thực mới phôi thai, cũng như của Rimbaud hay Nerval trước ông, không quan trọng như vậy, so với thủ lãnh Breton. Quả thế, Apollinaire, Rimbaud, hay Nerval, ít nhiều chỉ là những người tiên phong (cf. Jeanine Moulin, trong Guillaume Apollinaire, Droz, 1952).
(5) A: bruyère B: souviens-t’en A: terre
A: bruyère B: t’attends
Một số thi sĩ trước Apollinaire, hoặc đồng thời, đã làm lối thơ này, ví dụ Baudelaire, Verlaine, Laforgue, v.v… Trích một bài của Baudelaire:
Que m’importe que tu sois sage? A
Sois belle! et sois triste! Les pleurs B
Ajoutent un charme au visage A
Comme le fleuve au paysage; A
L’orage rajeunit les fleurs. B
(Madrigal triste)
Do đó Breton, trong “Manifeste” (Tuyên ngôn) về phong trào Siêu thực, trách cứ Apollinaire đã không dám “hy sinh những phương tiện văn chương tầm thường” (“…sacrifié de médiocres moyens littéraires”), ám chỉ các loại thơ có qui luật, và [Apollinaire] “chỉ được có mỗi cái chữ, đã vậy vẫn không hoàn hảo, của siêu thực” (“…possédé… que la lettre, encore imparfaite, du surréalisme”) (cf. Roger Lefèvre, Alcools, nxb Larousse, 1965, t.21).
(6) Nguyên văn bài “L’adieu” đăng trong “Le Festin d’Ésope”:
“J’ai cueilli ce brin de bruyère.
Mets-le sur ton coeur plus longtemps
Nous ne nous verrons plus sur terre”.“J’ai mis sur mon coeur la bruyère
Et souviens-toi que je t’attends”.
(trích lại từ Œeuvres poétiques d’Apollinaire, La Pléiade, t.1054.)
Về lai lịch bài thơ, có rất nhiều tài liệu. Bài viết này dựa trên các sách tiêu biểu như:
– Œuvres poétiques d’Apollinaire do André Billy viết tựa, Marcel Adéma và Michel Décaudin tuyển chọn, ghi chú, La Pléiade, Editions Gallimard, 1965, Notes, t.1054.
– Le dossier d’Alcools của Michel Décaudin, Librairie Minard, Paris, 1965, t.139.
– La poésie partout của Anna Boschetti, Collection Liber, Seuil, 2001, t.63.
– Guillaume Apollinaire – Alcools của Marie-Jeanne Durry, 3 quyển, SEDES, Paris, 1964, t. 119, 154, 172-174 (q.2), 70-71, 74 (q. 3).
– Alcools, dịch bởi Anne Hyde Greet, U. of California Press, Berkeley and Los Angeles, 1965, Notes, t.88-89.
(7) Trong Les Contemplations (1856). Hai câu cuối của bài thơ như sau:
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
(Và khi đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ con
Một bó ô-rô xanh và thạch thảo nở hoa)
Vì sự hiện diện của bruyère và khung cảnh nghĩa trang trong cả hai bài thơ, người ta thắc mắc không biết thi sĩ của chúng ta có chịu ảnh hưởng của Victor Hugo trong bài “Demain, dès l’aube…” cảm động này không. Hoặc chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên. Bruyère (“heath”, hay “heather” trong tiếng Anh) là một loại cây có hoa tím hoặc hồng, thơm, thích sống ở đất “siliceux” (đá cứng, bởi vậy mới gọi
bruyère / heather / thạch thảothạch thảo?) tạo nên vùng “lande” (Thanh Nghị dịch là “truông”) hoang dại, rất đặc biệt ở Pháp. Trong thơ Pháp, đến bây giờ, ngoài “L’adieu”, người ta chỉ gặp chữ bruyère hai lần nữa với bài trên của Hugo, và một bài khác không quan trọng của Apollinaire. Tại Việt Nam, Phạm Duy có lẽ là người đầu tiên nói đến thạch thảo. Trong “Văn Nghệ Tiền Phong”, số 410, 16-28/2/1993, t.62-66, có một truyện ngắn của Thảo Như -mà nội dung, tôi đoán, phóng tác theo ngoại quốc hoặc lấy hứng từ “Mùa thu chết”, có tựa là “Chùm hoa thạch thảo”, với bối cảnh Alaska, trong đó thạch thảo được tác giả xem như một loài hoa mọc trên núi, “dù cành khô cứng mà hoa vẫn tươi” (?)
(8) Xem bài “Les variations de personne dans Alcools” của Brian Gill trong Études autour d’Alcools, xb bởi Anne de Fabry và Marie-France Hilga, Summa Publi-cations, INC, Birmingham, Alabama, 1985, t.55-56. Theo tiểu sử, không có nhân tình nào của thi sĩ chết sớm, chỉ chê hoặc bỏ ông thôi. Cho nên, ở đây, không thể kết hợp đời thực vào với thơ.
(9) Ngoài hai trường hợp trên, trong Apollinaire, automne đều là “masculin”. Ngoài trừ trong thơ văn, luật mẹo (về ngữ vựng, văn phạm v.v…) rất khắt khe đối với học sinh và sinh viên các trường Pháp. Đàng khác, không chỉ mùa thu chết, mà mùa đông cũng chết nữa. Ví dụ trong bài “La chanson du mal-aimé”: L’hiver est mort tout enneigé… (Mùa đông đã chết phủ đầy tuyết…). Bài thơ của Nerval trích từ tập Les Chimères (Ảo vọng), 1853.
(10) Trích theo tài liệu của Phạm Duy trên internet, t. 155-156, và Ngàn Lời Ca, PDC xb, Quận Cam, 1987, t.199. Ông ghi: “Mùa thu chết, theo thơ Guillaume Apollinaire, Saigon, 1970”, và giải thích: “Tôi mượn bài thơ tình đầy chết chóc của thi sĩ Pháp Guillaume Apollinaire để soạn ca khúc…”, và: “Bài thơ này đã từng ám ảnh tôi từ hồi thập niên 50 khi tôi còn là sinh viên học nhạc tại Pháp. Được phổ nhạc thành một ca khúc Việt Nam, mang ngữ thuật nhạc trẻ, vào năm 1970 này, bài khúc Mùa Thu Chết nối lại truyền thống soạn nhạc mùa Thu của các nhạc sĩ lãng mạn trước đây, lần này thì ở một xúc cảm cao độ nhất. Vì nó khóc một cuộc tình có thật.” Có bốn điều cần đặt ra: -(a) Phạm Duy không lần nào nêu tên bài thơ, dù bị “ám ảnh” bởi nó; tại sao? -(b) Ông gọi bài thơ của Apollinaire là “bài thơ tình đầy chết chóc”: đầy chết chóc là một hàm súc (connotation) tổng quát, thực tế xấu xí, và là cụm từ thiếu trang trọng, không xứng với bài thơ hoặc bài hát; điều này chứng tỏ ông không thấy hết vẻ đẹp lãng mạn tiềm ẩn, nỗi đau câm nín chất chứa trong bài thơ. -(c) Ông nói bài thơ đã “ám ảnh” ông từ lâu; vậy mà ông vẫn không biết lai lịch của nó (để đến nỗi hiểu sai), nhất là khi còn ở Pháp, có nhiều sách vở, tài liệu, cơ hội. -(d) Ông không bao giờ nhận dịch bài thơ, mà chỉ nói mượn, theo, phổ nhạc… Nhưng theo Viên Linh, trước 1975, có một bản dịch bài thơ “L’adieu” do Bùi Giáng, và câu: Mùa thu đã chết, em nhớ cho “là của Bùi Giáng” (cf. Khởi Hành, số 111-112, tháng 1-2, 2006, t.22), đã bị Phạm Duy “mượn” nhưng không nêu tên dịch giả Bùi Giáng.
(11) Phạm Duy đặt lời Việt, hoặc phóng tác, cho nhiều bài ca ngoại quốc hay bản nhạc cổ điển. Riêng lời bài “Mùa thu chết”, tôi vẫn tin chắc là đã được ông, hoặc một người nào khác (ví dụ, Bùi Giáng) dịch từ “L’adieu”, trái với ý kiến của đa số, trong số có Nguyễn Văn Chức, trên bài báo đã dẫn, không xác quyết là dịch hay phỏng theo ý: “Lời ca, Phạm Duy lấy từ L’Adieu [sic] của Apollinaire.” (bđd t.43).
(12) Truyền thống “macho” này có thể là một đề tài hấp dẫn cho phân tâm học. Một số các thi nhạc sĩ Việt Nam cũ, mới, không hiểu tại sao, trong sáng tác, cứ xưng ta và gọi em với các người đẹp. Mặc cảm tự tôn, hay một lối “trả thù” vô thức? Hay chữ ta dùng để vô ngã hóa “cái tôi đáng ghét”?
(13) Thơ của Victor Hugo nói riêng, và các thi sĩ lãng mạn Pháp, và Baudelaire dễ hiểu, một phần vì sử dụng “alexandrin” là câu thơ dài 12 âm, có thể diễn đạt trọn vẹn ý tình, trong khi câu thơ “octosyllabe”, 8 âm, của Apollinaire lại ngắn, tỉnh lược (elliptique), súc tích, bắt độc giả phải vận dụng trí óc, suy luận, cảm xúc bén nhạy mới hiểu hết ý. Giống như, bên ta, thơ lục bát so với thơ Đường luật. Bài thơ “Demain, dès l’aube…” là một bằng chứng: tình cảm bộc lộ rõ ràng, lời thơ giản dị, hình ảnh đơn sơ.
(14) Marcel Proust, “Du côté de chez Swann”, thiên đầu của tuyệt phẩm A la recherche du temps perdu (1913-1927).
(15) Thi pháp Pháp, từ thế kỷ XVII, bắt “rime féminine” (vần cái) và “rime masculine” xen kẽ nhau. “Rime féminine” là vần kết thúc bằng -e câm, bruyère và terre, còn “rime masculine” kết thúc bằng âm phải đọc ra, souviens-t’en và t’attends, đan vào nhau cốt tạo nên nhạc điệu cho câu thơ.
(16) Trong bài báo đã dẫn, Nguyễn Văn Chức cũng nêu cái sai ấy của Phạm Duy: “Ngắt đi, tức là hái rồi liệng đi, không giữ gìn quý trọng.”, bđd, t.43. (17) Cụm là một khối gồm những cây nhỏ cùng một gốc, chụm lại với nhau, chẳng hạn cụm hoa, cụm rau thơm. Thạch thảo, trái lại, có những cọng, nếu tỏa lớn ra, thành nhánh, cành. (18) Nhạc tính trong “L’adieu” được diễn giải, dĩ nhiên, theo tiêu chuẩn ngữ học Pháp, không thể áp dụng cho âm Việt. Ví dụ tỵ âm (nasale) Pháp -in, -en có thể được thay bằng -nh, -m, -ng trong Việt ngữ (nhớ nhung, mẹ, nghẹn ngào v.v…) Xuân Diệu có câu: Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người, nghe như có lệ đẫm. Trong Kiều, ta đọc: Tóc mây một món dao vàng chia đôi -câu thơ với âm m chỉ sự trìu mến, dịu dàng, mà Đoàn Phú Tứ lấy đem vào “Màu thời gian”.
(19) Cho đến bây giờ, chưa thấy bài thơ Việt Nam nào có mùi thời gian, mà chỉ hương thời gian, màu thời gian. Ví dụ tiêu biểu nhất là bài “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ (tựa đề làm nghĩ đến Couleur du temps, 1949, di cảo, vở kịch thơ ba hồi của Apollinaire) với câu: “Hương thời gian thanh thanh”. Theo nội dung bài thơ này, có phải tình yêu trái ngang, mà thủy chung, giữa quân vương và Tần phi đã làm cho thời gian đợi chờ trở nên thanh thanh, đẹp, thơm nồng chăng? Có thể lắm. Nhưng còn thời gian chiến chinh, chẳng hạn, thời gian góa bụa, tang tóc, v.v…, thời gian chia lìa, lãng quên như trong “L’adieu”, cũng ngát hương được sao? Thời gian của Proust, trái lại, không có mùi, không có hương, được biến hóa vào các địa danh và kỷ niệm, và đánh dấu bởi sự xung đột giữa vĩnh cửu và hạn hữu, giữa tình yêu tuyệt diệu và phản bội ê chề, giữa khung trời hoa bướm và thế giới già nua, cằn cỗi…
(20) Trên bài báo đã dẫn, Thế Giới Ngày Nay số 178, tháng 3-4, 2003, Nguyễn Văn Chức cho rằng Phạm Duy đã hiểu sai “L’adieu”. Về bài thơ “L’adieu” ông Chức cũng nói “thuộc nó đã gần nửa thế kỷ” (t.43), giống như Phạm Duy (“từ hồi thập niên 50”, xem chú thích 10). Trong một bài báo mới nhất về Phạm Duy, chủ yếu đả kích lập trường chính trị của ông này, cũng trên TGNN, số 189, tháng 5-8, 2005, t.14-16, Nguyễn Văn Chức lại nhắc đến bài “L’adieu”: “(…) Phạm Duy đã hiểu sai thơ Apollinaire. Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thơ Apollinaire.” Theo thiển ý, Phạm Duy, cũng như nhiều người, kể cả chính Nguyễn Văn Chức, có thể đã không nắm hết ý bài thơ -là chuyện thường thôi. Nhưng bảo rằng Phạm Duy không đủ trình độ để hiểu thì có lẽ là một nhận xét thiên lệch, quá đáng chăng?
(21) Trong bài “Gửi người dưới mộ”, trích theo Thơ tình chọn lọc, do Nguyễn Hoài Thương sưu tầm và tuyển chọn, Khai Trí, USA, 1993, t.135.
(22) Theo quyển Guillaume Apollinaire, xb bởi Bibliothèque historique de la Ville de Paris, 1991, do Michel Décaudin trình bày, và Yves Bonnefoy đề tựa, trong mục “Repères biographiques” t.23, thì những “hình bóng” đó là: Marie Dubois ở Stavelot (1899), Linda Molina de Silva, em một người bạn ở Paris (1900-1902), và Annie Playden, gặp tại Đức, nguồn cảm hứng vô tận cho Apollinaire (1901-1902). Còn Marie Laurencin, t.85, được dành cho ba bài: “Cors de chasse”, “Marie”, và “Le pont Mirabeau”.Kim Thanh
ghi chú:
Bài này đã được đăng trên nguyệt san Khởi Hành, số tháng 1-2, 2006, của nhà văn Viên Linh, lúc nhạc sĩ Phạm Duy và nhà báo Nguyễn Văn Chức còn sống.Gửi lại, thứ tư 18/9/2019, để tưởng nhớ Ariane, một bạn học cũ tại Đại Học Grenoble, đang an giấc ngàn thu trong nghĩa trang Winterthur (Suisse).
Giới thiệu về trang web nàyYOUTUBE.COMMùa Thu Chết – Lệ Thu
