GIỌNG HÒ CÂU HÁT QUÊ XƯA – Đào Đức Nhuận

GIỌNG  HÒ CÂU HÁT QUÊ XƯA

 

 

Ngày nay chúng ta đã có thể được đọc hàng chục tuyển tập ca dao với hàng chục ngàn câu ca dao chan chứa tình người – hoặc chân chất mộc mạc, hoặc óng ả mượt mà – chứa đựng hầu như toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Đây là một kho tàng tài liệu vô cùng quý giá  cho các nhà sử học, các nhà xã hội học, các nhà Việt học . . . muốn nghiên cứu về nếp sống xã hội và đời sống tâm tư tình cảm của con người  Việt Nam.

 

Trước khi được sưu tập và in thành sách,  ca dao của ta đã được quảng đại quần chúng trên mọi miền  đất nước sáng tác, sử dụng và bảo lưu từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng những tiếng ru êm đềm của bà ru cháu, mẹ ru con, chị ru em, hoặc bằng những điệu hò, giọng hát bổng trầm lan rộng trên khắp các cánh đồng, trong các thôn làng sau những lũy tre xanh hay âm vang trên mọi nẻo sông rạch, biển khơi . . .

 

Trước khi nền tân nhạc ảnh hưởng Tây phương thịnh hành, hầu như mỗi người phụ nữ Việt Nam đều thuộc dăm bảy bài ca dao để hát ru con, ru cháu ; mỗi nghệ sĩ dân gian tham gia vào các cuộc hò đối đáp, các đám hát giao duyên thường thuộc nằm lòng nhiều câu ca dao tục ngữ để làm “vốn liếng” trước khi có thể sáng tác kịp thời những câu đối đáp với đối phương :

 

Chợ nào chợ chẳng bán quà

Người nào chẳng thuộc một và bốn câu

Chợ nào chợ chẳng bán cau

Người nào chẳng thuộc vài câu huê tình

 

Như ta đã biết, ca dao của ta  đã được ca lên theo giọng của mỗi địa phương, mỗi miền theo nhịp điệu  bổng trầm, rồi thì, tùy theo công dụng (trong lao động, trong giải trí, trong hội hè), tùy theo cách thức trình diễn hay tùy theo địa phương mà được gọi bằng nhiều tên khác nhau, hoặc gọi là HÁT (hát ru, hát quan họ, hát sắc bùa, hát huê tình . . .) hoặc gọi là HÒ (hò chèo đò, hò cấy lúa, hò giã gạo . . .) hoặc gọi là LÝ (lý tương tư, lý con sáo, lý giao duyên . . .)

 

Vào thuở xa xưa, ông bà ta không phân biệt ca dao và tục ngữ mà họ gọi chung là “câu ví”. Theo một số nhà nghiên cứu về tục ngữ ca dao, có lẽ vì tục ngữ ca dao hay dùng hình thức ví von so sánh nên người xưa mới gọi ca dao tục ngữ là “câu ví”:

 

Kẻ xưa câu ví còn rằng :

Mẹ sàm, con ghẻ mà tâng con mình

(Thiên Nam Ngữ Lục, câu 3117-3118)

 

Phương ngôn, câu ví để đời:

“Nhường cơm, nhường áo, dễ ai nhường chồng”

(ca dao)

 

Qua nhớ lại lời xưa

Họ khéo lừa câu ví :

“Hễ chồng sang thì vợ quí

Nụ bí khó sánh với nụ bầu”

Xét vậy mà anh luống đeo sầu

Thương tình bạn cũ dãi dầu nắng mưa

(ca dao)

 

Có trăng nên nỗi phụ đèn

Chẳng ngon thể sốt, thì liền bén hơi (?)

Cười ra nước mắt hổ ngươi

Khen ai khéo đặt nên lời ví xưa :

“Còn duyên kẻ đón, người đưa

Hết duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh”

(ca dao)

 

Những bài ca dao ngắn độ vài bốn câu đôi khi còn được gọi là câu ví vặt  :

 

Bực mình mà chẳng nói ra,

Những câu ví vặt chất ba gian đình!

 

Trong các thể loại hát hò, người ta còn có thể đặt cho một tên gọi khác :

 

Bao giờ cho đến tháng Hai

Con gái làm cỏ, con trai be bờ.

Gái thì kể phú, ngâm thơ

Trai thì be bờ kể chuyện bài bây.

 

Kể phú ở đây không phải là đọc bài phú theo giọng bình văn của các nhà Nho xưa và  ngâm thơ ở đây cũng không phải là cách ngâm thơ như của chúng ta ngày nay mà kể phú ngâm thơ ở đây chính là hát theo các thể điệu dân ca vậy.

 

Trong đề mục “Phân loại ca dao” của Thanh Lãng trong Văn Chương Bình DânNguyễn Trúc Phượng trong Văn Học Bình Dân, hay đề mục “Thể ca” trong Ca Dao Giảng Luận của Thuần Phong Ngô Văn Phát, các tác giả đã phân loại như  sau :

THANH LÃNG         THUẦN PHONG                   NGUYỄN TRÚC PHƯỢNG

Hát Xẩm                                                                     Hát Xẩm

Tự tình

Hát Keo                                                                      Hát Keo

Hát trống quân                        Trống quân                              Hát Trống quân

Hát Giã gạo                                                                 Hát Giã gạo

Hát Đò đưa                 Đò đưa                                                Hát Đò đưa

Hát Bỏ bộ                   Hát Cử bộ, Bỏ bộ

Hát Gõ

Hát Giao duyên          Hát Giao duyên                      Hát Giao duyên

Hát Quan họ               Quan Họ                                 Hát Quan Họ

Hát Ru em                   Ru con hay Ru em (Bắc)         Hát Ru Em

Hát Đưa em (Nam)

Sa mạc                         Sa mạc

Bồng Mạc                   Bồng Mạc

Hát Đúm                     Hát Đúm

Hát Vãn                      Hát vãn

Hát Cách                     Hát Cách

Dịp Bảy                       Hát Nhịp Bảy

Hò mái đẩy                  Hò Mái đẩy

Hát Huê tinh

Hò (thông dụng ở trong Nam)

Hò lờ                           Hò lờ

Lý Con sáo

Lý Ngựa ô                   Lý Ngựa Ô

Lý Chim chuyền         Lý Chim chuyền

Lý Ru Con                  Lý Ru Con

Hò Công cấy

Hò Nhi đồng

 

Theo Nguyễn Kiến Thiết trong bài “Những nét đặc thù về thể văn và thể ca trong Cao Dao Miền Nam” rút ra từ phần đầu trong tiểu luận cao học về Văn Chương Việt Nam của ông đăng trong tạp chí Nghiên Cứu Văn Học (Sài Gòn, trước năm 1975) thì “những thể ca của ca dao miền Nam gồm những loại khá đặc thù như sau:

 

1. Sấm vãn

2. Hát đưa em

3. Hát huê tình có :

– Hát đối đáp

– Hát đố

– Hát chữ

– Hát tích

– Hát chèo ghe

– Hát xay lúa

– Hát giọng nhà thương

– Hát bắt vần

4. Hò gồm có

– Hò địa phương (hò Tân An, hò Vĩnh Long, hò Cần Thơ, hò Bến Tre, hò Ngã Bảy v.v…)

– Hò đối đáp (hò văn, hò truyện, hò môi hò mép …)

– Hò cấy lúa

– Hò chèo ghe

– Hò xay lúa

– Hò đưa linh

– Hò đám cưới v.v…

5. Hò lờ

6. Lý con sáo

7. Lý ngựa ô

8. Lý chim chuyền

9. Lý chim quyên

10. Vè

11. Nói thơ . . .”

 

Xét theo bảng so sánh nêu trên, ta thấy Giáo sư Thanh Lãng đã gộp chung mọi hình thức dân ca vào một từ “HÁT”, trong lúc đó các ông Thuần Phong, Nguyễn Trúc Phượng và Nguyễn Kiến Thiết có sự phân chia rõ rệt và gần thực tế hơn, tức là có loại gọi là HÁT, nhưng cũng có loại gọi là HÒ và có loại gọi là LÝ.

 

Tuy nhiên, trong thực tế, các làn điệu dân ca của ta không phải chỉ có bấy nhiêu tên gọi như 4 tác giả kể tên ở trên đã liệt kê, mà thực sự các làn điệu dân ca của ta thật phong phú mà hầu như chưa có sách báo nào liệt kê cho thật đầy đủ. Vả lại, hầu như chưa có một sự phân biệt thật chính xác giữa hát và hò ; vả lại, cũng tùy theo cách gọi của mỗi địa phương, chẳng hạn có nơi gọi là hò chèo đò, có nơi gọi là hát chèo đò, và đôi khi ngay trong một địa phương cũng có cách gọi không phân biệt như thế.

Hát Ru là một thể loại ca hát dân gian được phổ biến khắp 3 miền Bắc Trung Nam. Hát ru tuy phổ biến trong cả nước, nhưng tùy theo giọng phát âm của từng địa phương mà giọng hát ru có khác nhau, và nó cũng còn tùy thuộc theo những tiếng hát đệm mà cách hát cũng khác nhau.

 

Tuy gọi chung là hát ru, nhưng có nơi gọi là hát ru con, có nơi gọi là hát ru em, hát đưa em ; ở vùng Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa gọi là hát khúc, vài nơi trong Nam gọi là hát ầu ơ.

 

Trước tiên, hát ru là một nhu cầu cần thiết để đưa đứa bé vào giấc ngủ :

 

Con đói mẹ cho bú

Con buồn ngủ mẹ ru hời

 

Anh về chẻ nứa đan sàng

Chẻ tre đan võng cho nàng ru con

 

Và đã gọi là ru con thì không phải chỉ ôm con nằm võng kẽo kẹt lại qua hay đặt trẻ vào nôi rồi cầm lấy tao nôi mà lắc mà đẩy mà chủ yếu là “hát ru” bằng giọng ru êm đềm, ngọt ngào đưa trẻ dần vào giấc ngủ:

 

Đố ai nằm võng không đưa

Ru em không hát ầu ơ đôi lời ?

 

Đố ai nằm võng không đưa

Ru con không hát, anh chừa nguyệt hoa !

 

Ta hãy nghe Bà ru cháu :

 

Cái ngủ mày ngủ cho lâu

Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về

Bắt được con trắm, con trê

Cầm cổ lôi về cho cái ngủ ăn !

 

Đây là vài lời ca của Mẹ ru con :

 

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ,

Năm canh dài thức đủ năm  canh

 

Ru con con ngủ cho rồi,

Mẹ ra chỗ vắng mẹ ngồi mẹ than . . .

 

Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi . . .

 

Và đây là lời ru của Chị ru em:

 

Ru em em hãy nín đi

Kẻo mà mẹ đánh em thì em đau

Em đau chị cũng buồn rầu

Bé mồm, bé miệng kêu đâu bây giờ!

 

Lời ru của mẹ đôi khi còn là những ước vọng của mẹ đối với tương lai của con, do đó lời ru của mẹ là những bài học mà mẹ muốn cho con của mẹ phải uống từng chữ, nuốt từng lời như con đã uống dòng sữa của mẹ:

 

Giấc hòe, giấc quế êm êm

Chữ trung, chữ hiếu mẹ tìm mẹ ru

Ru con ước những khang cù

Ru con tạc tỉnh hữu chu đạo thường

Ru con bất khải bất môn

Ru con ứng chiếu cầu hiền quốc gia

Ru con đoan chính thái hòa

Ru con ngũ phúc tam đa tứ thời

Ru con con đã ngủ rồi

Mẹ ru con ngủ mẹ thời mới yên

Ru rồi, rồi mẹ lại khuyên

Lục thao tam lược chẳng quên đâu là !

 

Không phải chỉ có bà ru cháu, mẹ ru con hay chị ru em, mà đôi khi vắng đàn bà trong nhà, người cha cũng phải làm công việc ru con. Và dân ta đã biết lấy cái việc “cha ru con” để khuyên người đàn ông nên nghĩ đến bổn phận làm cha của mình mà đừng tơ tưởng đến một người đàn bà nào khác :

 

Anh về mắc võng ru con

Đừng nên tơ tưởng trái chanh non trái mùa!

 

Anh về mắc võng ru con

Ai lên xe xuống ngựa, ai đẹp giòn mặc ai!

 

Anh về mắc võng ru con

Tán tiêu, mài nghệ, anh còn đi đâu?

 

Điệu hát ru thường êm ái và buồn, dễ đưa trẻ vào giấc ngủ, và người xưa đã có một nhận xét tâm lý thật tuyệt diệu về giọng hát ru của những nàng thiếu phụ :

 

Bướm vàng đậu đọt mù u

Lấy chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn !

 

Ngoài hát ru,  ta còn có những điệu hát hoặc được sử dụng ở nhiều địa phương, hoặc chỉ được sử dụng ở một địa phương mà thôi.

 

Ở đất Bắc xưa gồm từ đèo Ngang trở ra có hát ví, hát đúm, hát ghẹo, hát lượn, hát trống quân. Ngoài ra, ở Phú Thọ có hát xoan, ở Hà Nam có hát dậm, Bắc Ninh rất nổi tiếng về hát quan họ,  ở Sơn Tây có hát hội Rô, ở Nghệ Tĩnh  có hát giặm . . .

 

Ở nhiều địa phương  miền Trung có hát sắc bùa ; rồi thì hát hố ở Quảng Ngãi, hát ống ở Bình Định, Phú Yên . . .

 

Ở miền Nam có hát huê tình, hát đò đưa . . .

 

Dưới đây, người viết xin giới thiệu một số câu ca dao có nhắc đến tên một số làn điệu dân ca của ta ngày xưa.(Thực ra không phải toàn bộ các thể loại dân ca đều được ca dao nhắc đến.)

 

Ở đất Bắc, từ Hà Tĩnh trở ra, hát ví là loại hát dân gian rất phổ biến và đã xuất hiện rất sớm trong sinh hoạt lao động và sinh hoạt lễ hội của người Việt :

 

Đưa lên ta ví cho đồng

Rồi ra ai vợ, ai chồng mặc ai !

 

Vui Xuân ta ví dăm ba

Tiếng gần náo nức, tiếng xa bàn hoàn

Vui Xuân ta ví cho cân

Trong nhà là ngãi, ngoài sân là tình

Đưa lên ta ví cho tình

Cho duyên đằm thắm, cho mình say sưa

 

Ở Nghệ Tĩnh , các người cùng chung một nghề thường tạo thành phường và có làn điệu hát ví riêng như ví phường vải, ví phường nón, ví phường cấy . . .

 

Ở nhà con cậu, cháu quan

Đi ra phường vải hát đàn nghe chung

 

Ngoài hát ví, ở đất Bắc còn có hát trống quân , hát ghẹo, hát lượn, hát xẩm cũng rất phổ biến.

 

Hát trống quân :

 

Trống quân trống quít trống còi

Ta chẳng lấy nó, nó đòi lấy ta

Trống quân anh đánh nhịp ba

Lúc vào nhịp bảy, lúc ra nhịp mười

 

Hát xẩm xoan :

 

Thôi đừng lấy chú biện tuần

Tuy rằng bóng bẩy, nợ nần chan chan

Thà rằng lấy chú xẩm xoan

Công nợ chẳng có, hát tràn cung mây

 

Hát quan họ thật nổi tiếng ở Bắc Ninh :

 

Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người

Nhớ nơi Quan họ, nhớ lời ca hay

 

Hát ghẹo ở Nghệ Tĩnh :

 

Ai về xóm Mí mà coi

Bắc niêu lên bếp, xách oi ra đồng

Đất nghèo chạy bữa ăn đong

Mà câu hát ghẹo thì không mô bằng !

 

Hát chèo đò ở Thừa Thiên :

 

Tiếng hát ngư ông giữa sông Bành Lệ

Tiếng kêu đàn nhạn trên áng Hoành Dương

Một mình em ngồi giữa sông Hương

Tiếng ca du nữ đoạn trường ai nghe !

 

Hát hố ở Quảng Ngãi :

 

Em đang so đũa dọn cơm

Tai nghe hát hố đầu hôm trên này

Ra đi cha đánh, mẹ rầy,

Không đi bạn ở trên này bạn trông.

Ra đi lội suối, băng sông

Tới đây mến bạn lòng không muốn về!

 

Hát ống ở Bình Định, Phú Yên :

 

Hỡi cô hát ống tối qua,

Hôm nay hát nữa cho ta hát cùng !

 

Hát đò đưa, hát huê tình ở đồng bằng sông Cửu Long :

 

Sông bao nhiêu nước cũng vừa

Đôi ta giọng hát đò đưa khác gì !

 

Hai đứa mình ngồi xuống một ghe

Khoan khoan chèo chậm để nghe huê tình.

 

Ở đây đất đỏ như nâu

Sao đó không hát vài câu huê tình ?

Hỏi cô cô cứ làm thinh

Để ta hát mãi một mình sao đang !

 

Thực ra phần lớn các  điệu hát phổ thông ở đất Bắc có tính cách hát đám, hát hội, chẳng hạn hát quan họ Bắc Ninh là một hình thức dân ca khá phổ biến vào các dịp lễ hội mùa Xuân. Hát đúm, hát xoan cũng là những hình thức dân ca phần lớn được trình diễn vào mùa Xuân. Trong lúc đó hát trống quân lại được xem là loại dân ca thịnh hành vào các dịp lễ hội mùa Thu như vào khoảng thời gian Rằm tháng Bảy gọi là Tết Trung Nguyên, hoặc khoảng thời gian Rằm tháng Tám gọi là Tết Trung Thu.

 

Hát đúm ở Thủy Nguyên thuộc Hải Phòng :

 

Thầy mẹ tôi ép

Lấy chồng trong làng

Tôi chỉ nói ngang

Chồng con chi vội

Để tôi đi hội

Hát đúm chơi bời . . .

 

Hát xoan:

 

Hoa Cầu gặp hội hát xoan,

Em ở một làng, anh ở một nơi.

Bây giờ mới gặp nhau đây,

Ước làm phu phụ  trọn đời nên chăng ?

 

Hát trống quân :

 

Tháng Tám anh đi chơi xuân

Đến đây gặp hội trống quân anh vào . . .

 

Mỗi thể điệu dân ca lại có điệu hát, lối hát khác nhau, chẳng hạn như hát trống quân thì có lối hát vận, hát đố, hát họa :

 

Trống quân hát vận mình ơi

Sao mình chẳng vận cho tôi vận cùng

Hát vận như vợ với chồng

Hỏi nàng có vận được không hỡi nàng ?

 

Rồi lại còn lối hát trống quân nghi lễ được tổ chức vào các ngày hội làng tại đình làng :

 

Trống quân anh lập đầu đình 

Có nam, có nữ, có mình, có ta . . .

 

Những hội hát, đám hát như thế đôi khi được che rạp, nhưng lắm lúc người ta chỉ tổ chức ở bãi đất trống để cho nhiều người cùng đến thưởng thức, đôi khi còn được tổ chức ở trên đồi như hát quan họ được tổ chức trên đồi Lim ở Bắc Ninh, và vì vậy những bạn hát đã trao nhau lời tự tình :

 

Nắng đâu nắng mãi thế nầy

Nắng suốt cả ngày chẳng thấy bóng râm

Hỡi người thục nữ tri âm

Có muốn đứng hát thì cầm lấy ô !

 

Ngoài những điệu hát mang tính chất hội hè trữ tình, còn có một số thể điệu hát dân ca mang tính chất tín ngưỡng như hát chầu văn hay hát hầu văn ở các đền miếu,  hát sắc bùa là thể hát chúc phúc vào dịp đầu năm, hát đưa linh, còn gọi là hò đưa linh được hát vào các dịp đưa đám tang, hát Hội Rô . . .

 

Hát sắc bùa :

 

Sắc bùa là sắc bùa ôi

Trông mau tới Tết ăn xôi, ăn chè.

Sắc bùa là sắc bùa hòe,

Trông mau tới Tết ăn chè, ăn xôi !

 

Hát Hội Rô :

 

Đây là Liệp Hạ đón đám khách Xuân

Bạn vàng tôi vào hát thờ thần

Để cho vui vẻ

Già thì sức khỏe

Trẻ thì bình yên

Ở giữa án tiền

Kính thờ Thượng Đẳng . . .

 

Như ở trên ta đã thấy, các thể điệu hát trong dân ca phần lớn được dùng trong các lễ hội thì các thể điệu của hò trong dân ca lại được dùng trong các công việc lao động. Gần như toàn bộ các điệu hò được đặt tên dựa theo  công việc lao động mà nó phụ họa. Chẳng hạn hò chèo đò, hò giã gạo, hò cấy lúa . . . Ngay trong hò chèo đò, các điệu hò cũng được đặt tên riêng cho mỗi động tác hoặc chậm, hoặc nhanh tùy theo khúc sông như hò Sông Mã ở Thanh Hóa gồm có hò rời bến, hò đò xuôi, hò đò ngược, hò mắc cạn hò cập bến  . . .

 

Phần lớn các điệu hò là để phụ lực trong khi lao động, nên trong khi hò ta thấy sau câu hò chính của người hò cái, các tay hò con sẽ phụ họa bằng những tiếng như: dô ta, hò khoan, hố khoan, là hố là khoan, là hụ là khoan, rố khuẩy hò khoan . . . tùy theo từng điệu hò của mỗi địa phương.

 

Điệu hò thường ăn nhịp với các động tác lao động và nó sẽ giúp cho người tham gia lao động cảm thấy khỏe khoắn hơn với những điệu hò trợ lực như vậy:

 

Yêu em anh phải xuống đò

Vượt ghềnh, qua thác “khoan hò” lại vui!

 

Thế nhưng, lắm khi hát hò cũng lại là dip để cho một cá nhân nói lên niềm tâm sự hoặc buồn, hoặc vui, hoặc giải tỏa  cái tâm trạng buồn bã,  u uất:

 

Đêm tàn, canh lụn, dầu hao

Xúc tình cất tiếng hò rao đỡ buồn !

 

Căn cứ vào công dụng của hò, ta có thể chia ra : hò làm việc, hò nghỉ ngơi, hò đối đáp . . .

 

Căn cứ theo tính chất và không gian lao động, ta có thể chia làm 2 loại : hò trên cạn và hò trên sông nước.

 

Hò trên cạn : hò đẩy xe, hò giã vôi, hò dứt chỉ . . . ở miền Bắc ; hò giã gạo, hò xay lúa, hò đi cấy, hò hụi hay hò nện, rồi hò nhơn nghĩa (Quảng Bình), hò ba lý (Quảng Nam), hò đạp mía (Quảng Ngãi), hò mài dừa (Bình Định), hò giã đậu (Phú Yên) . . . ở miền Trung ; hò cấy, hò xay lúa, hò đám cưới . . . ở miền Nam.

 

Chúng ta có thể nghe đâu đó trên những cánh đồng Việt Nam vào những ngày mùa cấy hay mùa gặt những giọng hò lanh lảnh âm vang ngay từ sáng mờ sương cho đến khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống bao trùm cảnh vật :

 

Tay ôm bó mạ xuống đồng,

Miệng hò, tay cấy mà lòng nhớ ai.

 

Rồi những giọng hò êm đềm lại âm vang đâu đó bên trong những lũy tre làng, dưới những hàng cau cao vút hoặc thấp thoáng ánh trăng hay leo lét ngọn đèn dầu mù u hay ngọn đèn dầu dừa, dầu chai với tiếng những nhịp chày như tạo nhịp cho những điệu hò, khúc hát ân tình:

 

Đến đây chẳng lẽ ngồi không,

Nhờ chàng giã gạo cho đông tiếng hò.

 

Thiếu tay nên phải cầm chày,

Hò lên ba tiếng dở hay đừng cười !

 

Hò trên sông nước: ở miền Bắc có hò rố khoan rố khuẩy, hò bắt cái hò khoan, hò kéo gỗ. . . Ở miền Trung có hò làn ai, hò đò xuôi, hò đò ngược, hò mái xấp, hò mái nhì, hò mái ba, hò mái đẩy, hò mái nhặt, hò mái duỗi, hò cập bến, hò đua thuyền, hò giựt chì, hò lả . . . Ở miền Nam có hò chèo ghe Châu Đốc, hò khoan Mỹ Tho, hò mái trường, hò mái đoản . . .

 

Trên đây là một số giọng hò chính thường được kể tên, ngoài ra mỗi địa phương lại có một số điệu hò mang tính đặc thù của địa phương mình, như tỉnh Thừa Thiên còn có một số điệu hò sau đây: hò bài chòi, hò bài thai, hò bài tiệm, hò cá sông Hương, hò đẩy nôốc, hò đập bắp, hò đố (còn gọi là hò thử tài) hò đức ông Cảnh Dương (tục thờ cá voi) hò kéo thác, hò khâu giai (tát nước gàu giai), hò khâu sòng (tát nước gàu sòng), hò phàm, hò đâm vôi, hò thả thơ . . . (theo Bùi Minh Đức trong Tự Điển Tiếng Huế)

 

Hò kéo gỗ ở miền Bắc :

 

Cùng nhau kéo gỗ, dô ta !

Kéo từ sườn núi kéo ra cánh đồng

Đóng bè thả xuống dòng sông

Thuận buồm xuôi gió, bềnh bồng trôi đi

Hai bên cây cỏ xanh rì

Mải vui cảnh mới nghĩ gì đường xa !

 

Tiếng hò sông Mã :

 

Trông lên phố chợ cao cao

Miệng khoan, tay lái bắt vào cho mau

 

Ta chèo cất mái hò khoan

Thuyền rồng Chúa ngự khoan khoan mái chèo

 

Tiếng hò trên sông Hương :

 

Hò lên hai mái song song

Phải cam cam ngọt, phải bòng bòng chua!

 

Đò chèo sông Hương tiếng hò văng vẳng

Dương trồng núi Ngự gió thoảng vo vo

Anh nghe ai ngăn chợ, đón đò

Bỏ mấy lời nguyện ước hẹn hò trước sau                  

 

Đò từ Đông Ba đò qua Đập Đá,

Đò về Vĩ Dạ, thẳng Ngã ba Sình.

Lờ đờ bóng ngả, trăng chênh

Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non.

 

Tiếng hò trên sông nước miền Nam :

 

Nước Ngã Ba chảy ra Giồng Dứa

Nghe giọng em hò anh ứa giọt châu !

 

Ai qua Sa Đéc, Lấp Vò

Nhớ kinh Vĩnh Thạnh, giọng hò Tân Dương !

 

Tiếng hò trên biển Đông :

 

Cơm chiên ăn với cá ve

Anh về nốc biển mà nghe câu hò.

 

Ra đi sóng biển mịt mù

Trời cho lưới nặng dô hò kéo lên

 

Ngoài HÁT và HÒ, dân ca của ta còn có điệu LÝ. Nếu HÒ thường tùy theo động tác lao động mà gọi tên như hò chèo đò, hò giã gạo, hò cấy lúa v.v… thì các điệu LÝ lại tùy theo nội dung câu ca dao hay lấy những tiếng đầu của câu ca dao mà đặt tên như: “Một thương tóc bỏ đuôi gà, hai thương ăn noi mặn mà có duyên . . .” gọi là lý Mười Thương, hay “Ai đem con sáo sang sông …” gọi là lý Con sáo . . .

 

Lý mấy câu kẻo sầu trong dạ,

Như ta với mình trước lạ, sau quen

 

Con cua nó ở trong hang

Nó nghe giọng lý kềnh càng bò ra !

 

Nếu hát và hò có một nhạc điệu tương đối tự do để người hát hay hò có thể sáng tác câu mới một cách dễ dàng thì nhạc điệu của Lý tương đối ổn định và hoàn chỉnh, do đó các nhạc sĩ tân nhạc đã có thể ghi âm những bài lý bằng ký âm pháp Tây phương như các bài Lý con sáo, lý ngựa ô, lý chim quyên . . .

 

Người ta đã có thể khám phá ra hàng bảy, tám chục bài Lý của dân chúng miền đồng bằng sông Cửu Long từ những bài lý nói về nhân vật như lý Chú Chệt, lý Ông Hương, lý Nàng Dâu . . . những bài lý nói về động vật như lý Ngựa Ô, lý Con Sáo, lý Con Cúm Núm . . . , những bài lý nói về cây quả như lý Cây i, lý Trái Mướp, lý Cây Bưởi . . . , những bài lý về đồ vật như lý Chiếu Bông, Lý Bánh Ít, lý Cái Phảng . . . đến những bài lý nói về sự việc như lý Ăn Giỗ, lý Xay Lúa, lý Chẻ Tre . . .

 

Có thể nói phần lớn nội dung của các đám hát, đám hò  là những khúc hát trữ tình và chính vì thế  mà khi ca dao được sưu tập qua trí nhớ của các nghệ sĩ dân gian  thì cũng là ca dao trữ tình, chẳng thế mà ngay tên gọi chúng ta cũng đã có thể thấy ngay  được tính chất trữ tình đó: hát huê tình, hát giao duyên :

 

Gặp lúc trăng thanh gió mát,

Thú nào vui bằng thú hát huê tình ?

 

Lời hát hay, lời hát trữ tình  vẫn chưa đủ sức quyến rũ  mà còn phải có giọng hát hay, giọng hò đa tình  mới thực sự quyến rũ lòng người :

 

Sông sâu sóng bủa láng cò

Thương anh vì bởi giọng hò có duyên !

 

Thế nên cô gái Bắc Ninh đã hát :

 

Còn trời, còn nước, còn non,

Còn câu Quan họ em còn say sưa.

 

Những câu hát, điệu hò trữ tình đó không những quyến rũ lớp thanh niên nam nữ dám từ chối đời sống hôn nhân để được thỏa tình tham dự vào các hội hát hò :

 

Thầy mẹ tôi ép

Lấy chồng trong làng

Tôi chỉ nói ngang

Chồng con chi vội

Để tôi đi hội

Hát đúm chơi bời . . .

 

mà nó còn quyến rũ  lớp người dù đã có gia đình nhưng vẫn còn thấy lòng mình rạo rực mỗi khi nghe đâu đó vọng lên những làn điệu dân ca quen thuộc:

 

Tai nghe tiếng hố vọng đồng

Ai có con cũng bỏ, ai có chồng cũng vong

 

Trống quân em lập lên đây

Áo trải làm chiếu, khăn quây làm mùng

Đùa vui dưới ánh trăng trong

Có con cũng hát, có chồng cũng chơi

Con thì em mướn vú nuôi

Chồng thì em để hát chơi xóm nhà !

 

Mỗi địa phương thường có một làn điệu dân ca riêng biệt, thế nên,  dù cuộc sống có đưa đẩy con người đến bất cứ chân trời, góc bể nào họ cũng vẫn luôn luôn nhớ về giọng hò, điệu hát quê hương :

 

Đi mô cũng nhớ về quê

Nhớ câu hát ghẹo nốc kề một bên!

 

Lời hát hay đã quyến rũ lòng người, nhưng cũng còn một nguyên tố nữa cũng quyến rũ lòng người không kém, đó là giọng hát, có thể là giọng hát của người bạn tình  mà mình yêu, mình thương :

 

Ở xa nghe tiếng anh hò,

Cách sông cũng lội, cách đò cũng qua.

 

Đứng bên ni sông cách ba tay sáo

Nghe giọng em hò vắt áo ra đi !

 

Em đang giã gạo giong đèn

Nghe tiếng anh hát như kèn thau ba.

Vội vàng em bốc gạo ra,

Đi ra than thở giao hòa cùng anh.

 

Mà cũng có thể là giọng hát của người bạn tâm giao mà mình quý, mình mến :

 

Ở xa tôi nghe tiếng bạn hò

Cách sông tôi cũng lội, cách đò tôi cũng sang

Tới đây tôi chào hết bạn vàng

Chào người thục nữ, chào nàng thuyền quyên

Người nào thiệt vợ Vân Tiên

Hát lên cho tôi biết, tôi chào liền vài câu !

 

Tiếng hát như có một ma lực ghê gớm :

 

Hát một câu thấu tới trong buồng

Kêu anh thức dậy đẩy xuồng bơi theo

 

Cái ma lực của điệu hò, giọng hát có sức cuốn hút cả những người mà sức khỏe không được bình thường, dù biết mình đang ốm ………………………….

 

Bữa nay giọng tắt, tiếng khan

Trong mình mỏi mệt choang vang cả đầu

Tai anh nghe chị em hò hát đã lâu

Giật mình trở dậy bối đầu, bịt khăn

Bước ra ba bước than rằng :

Biết nơi đâu xứng nợ, biết nơi nào bằng kết đôi !

 

Cái giọng hát rù quến đó, cái lời hát ân tình mặn nồng đó đã át cả trận đòn của cha, lời la rầy của mẹ, để người con gái phải vượt suối, băng sông để tìm đến giao hòa lời hát với người yêu :

 

Đêm nằm đắp chiếu bịt bùng

Tai nghe tiếng hát dậy vùng ra đi

Con rồng nằm bãi cát bày vi

Vì chưng thương bạn nên ra đi làm vầy

Ra đi cha đánh, mẹ ngầy

Không đi bạn ở ngoài nầy bạn trông !

 

Mẹ cha khuyên nhủ sớm trưa

Nhưng em vẫn hát đò đưa cùng chàng

 

Có những chàng nho sinh, dù đang “dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa” cũng lặn lội tìm đến những hội hát giao duyên, hát đối đáp để thỏa mãn cái sở thích mê ca mê hát mà  đồng thời cũng là để  thử lại cái sở học của mình :

 

Đồn đây có gái hát tài

Để tôi đối địch một vài trống canh.

Dầu thua, dầu được cũng đành,

Bõ công đèn sách học hành bấy lâu !

 

Vậy là họ hẹn gặp nhau ở các đám hát quan họ, hát đúm, hát xoan . . . trong các lễ hội mùa Xuân, trong các đám hát trống quân vào dịp lễ hội mùa Thu. Họ hẹn gặp nhau trong những đám hát ngày mùa: những đám cấy lúa, gặt lúa . . . vào những buổi sáng nắng hanh vàng, vào những buổi chiều có gió mát hiu hiu ; những đám tát nước đêm hè, hay xay lúa giã gạo vào những đêm trăng . . . Họ có thể là những người đã từng quen biết nhau mà cũng có thể là chưa có lần gặp mặt, nhưng nào có sá gì:

 

Lý mấy câu kẻo sầu trong dạ,

Như ta với mình trước lạ, sau quen !

 

Ngoài những đám hát qui tụ trai làng, gái làng:

 

Gặp nhau một chút nên duyên,

Xin mời bên đó cất lên tiếng hò

 

Khăn vuông bốn chéo cột chùm,

Miệng mời người nghĩa hò giùm ít câu!

 

Các hội hát còn đón nhận cả khách mười phương bất cứ nơi nào đến tham gia vào hội hát để tạo nên một không khí vừa hào hứng vừa hấp dẫn:

 

Tôi người lữ thứ tha hương

Muốn gầy nhân ngãi rủ nàng hò chơi !

 

Tôi là người dạo cảnh lê viên,

Tới đây gặp gái thuyền quyên rủ hò !

 

Vả lại, đã không đến đám hò, đám hát thì thôi, mà đã đến là phải tham gia vào hội hát kẻo không lại bị chúng bạn chê bai:

 

Tới đây chẳng hát thì hò

Có phải như cò ngóng cổ mà nghe

            Hay :

Đã đi đến chốn thì chơi

Đã đi đến chốn tiếc lời làm chi

Nhất niên nhất lệ một kỳ

Trống quân tháng tám kể gì hơn thua

 

Thật là chân chất, không chút khách sáo. Giọng hát câu hò như luân lưu trong huyết quản, gặp đám hát là hát, gặp đám hò, đám lý là hò, là lý hết sức tự nhiên:

 

Đến đây rượu thịt, bánh bò,

Ai ca ca với, ai hò hò chơi.

 

Và như vậy là họ bước vào cuộc chơi, một cuộc chơi có đối có đáp, một cuộc chơi gồm có  2 phe:

 

Một đàn cò trắng bay tung

Bên nam, bên nữ ta cùng hát lên

Hát lên một tiếng linh đình

Cho loan sánh phượng, cho mình sánh ta.

 

Có thể khi bắt đầu vào cuộc hát họ có những lời mời mọc thật tình tứ:

 

Nghe chàng là khách tài hoa

Mời chàng đối đáp một và trống canh

Có lá mà lại có cành

Có em mà lại có mình mới vui.

 

Vào những ngày hội mùa nhân dịp mùa Xuân hay mùa Thu, các làng thường tổ chức các cuộc thi hát đối đáp nam nữ có phần thưởng. Nhiều nơi trên đất Bắc, ngoài tục lệ múa lân, múa rồng, rước lồng đèn cá chép vào dịp Trung Thu, các làng còn thường tổ chức thi hát Trống quân.

 

Đây là câu ca dao xuất hiện ở đất Bắc :

 

Tháng Tám anh đi chơi xuân

Đến đây có hội trống quân anh vào . . .

 

Và đây là một câu ca dao xuất hiện ở Tân An trong Nam :

 

Bảng treo ở chợ Cai Tài

Bên văn, bên võ có tài hát thi.

 

Lại có câu :

 

Gió đưa mười tám lá xoài

Bên văn, bên võ có tài hát thi

 

Họ có thể bước vào cuộc thi với những lời mời mọc chân thành mà tha thiết, coi nhẹ việc hơn thua:

 

Ra đây mà hát mấy câu

Được thua, thua được cho nhau bằng lòng!

 

Nhất niên nhất lệ một kỳ

Trống quân tháng Tám kể gì hơn thua

 

Thế nhưng cũng có khi, có những chàng trai vốn nóng tính nhưng cũng tỏ một thái độ chân thành mà bộc trực:

 

Đôi bên hàng xứ giãn ra

Để tối đối địch với ba cô nầy

Được thì ăn đĩa trầu đầy

Thua thì cởi áo trao tay ra về

 

Để tham dự vào các hội hát thi như thế, các nghệ sĩ dân gian thường phải khổ công tập luyện giọng hát :

 

Làm trai giọng hát cho nền

Để đi dự giải tháng Giêng mới hào !

 

Và dĩ nhiên họ phải học thuộc lòng một số câu ca dao làm nền để kịp thời ứng phó trong mỗi cuộc thi:

 

Trống quân anh tập đã lâu

Tốn cơm, tốn áo, tốn trầu mẹ cha

Trống quân anh tập tháng ba

Mồ hôi cái chảy đổ ra khăn đào !

 

Có khi phần thưởng chỉ là một cơi trầu mang đầy tình nghĩa:

 

Hát lên ta nhởi ta chơi

Nào ai hát được, thưởng cơi trầu đầy !

 

Đôi khi không cần phải tham dự vào các cuộc thi như thế, các nghệ sĩ dân gian cũng được quần chúng thưởng ngoạn tán thưởng bằng những lời khen “để đời”, và đó mới là phần thưởng thực sự có giá trị:

 

Tiếng đồn con Bảy đưa đò

Lên doi, xuống vịnh giọng hò con Bảy lanh!

 

Xét về mặt nhân sự tham gia hay trình diễn, người ta có thể chia dân ca ra làm mấy loại sau đây:

– Hát hay hò cá nhân: như hát ru hoặc một vài thể loại hát hay hò chèo đò . . .

Một đêm trăng nào đó bạn đang thả bộ ngang qua cầu Tràng Tiền, bỗng đâu đó từ dưới sông vẳng lên giọng hò thê thiết như ai oán:

 

Đò chèo sông Hương tiếng hò văng vẳng

Dương trồng núi Ngư gió thoảng vo vo

Anh nghe ai ngăn chợ, đón đò

Bỏ mấy lời nguyện ước hẹn hò trước sau!

 

Không phải chỉ là tiếng hò trên những con đò dọc hay những chuyến đò ngang mà con là tiếng hò của những khách thương hồ trên dòng sông vắng:

 

Đêm khuya nghe tiếng ai hò

Tưởng thuyền Lã vọng, hóa ra đò bán than!

 

– Hát hay hò tập thể: chỉ có một nhóm gồm một người hò cái hay hát cái và một nhóm người phụ họa như hò kéo gỗ, hò giựt chì, hát hố . . .

 

– Hát hay hò đối đáp: chia làm 2 phe, thường là phe nam và phe nữ, mỗi phe cũng có một người hát cái (hay hò cái) và một nhóm hát con (hay hò con), nhưng đôi khi cũng chỉ có 2 người (một nam và một nữ) mà thôi.

 

Bạn đang đi trên đường cái quan, bỗng nghe những tiếng cười đùa của đám con gái đang cấy lúa rồi một giọng thanh tao lanh lảnh cất lên để ghẹo đám con trai đang làm cỏ lúa ở đám ruộng khuất đâu đó :

 

Ở đây thấp ruộng cao bờ

Bên ấy có hát nghe nhờ vài câu!

 

Bỗng bạn lại nghe một giọng nam ở đâu đó ngân lên chẳng kém phần háo hức, nghịch ngợm :

 

Vẳng nghe tiếng hát đâu xa

Rằng trẻ hay già mà tiếng cũng xinh?

 

Hay một giọng nam đa tình vẳng lên từ thửa ruộng đằng xa:

 

Vẳng nghe tiếng hát đâu đây

Để ta đáp chiếc thuyền mây đi tìm!

 

Như ta đã biết, nội dung của các câu hát, câu hò cũng chính là nội dung của ca dao, dù rằng không phải tất cả các bài ca dao đều có thể được sử dụng trong toàn bộ các làn điệu ca hát dân gian.

 

Dù là hát trống quân hay hát quan họ, dù là hát ví hay hát hố, dù là hò chèo đò hay hò giã gạo . . . thì phần lớn nội dung  của các đám hát, đám hò vẫn là hát hò giao duyên, trao đổi tình cảm giữa con người với con người: tình yêu thương đối với cha mẹ, anh em, với bà con xóm giềng ; nhưng nhiều hơn ca vẫn là những câu hát, câu hò về tình nghĩa vợ chồng, và đặc biệt hơn cả vẫn là những lời trao tình yêu nồng thắm giữa những cặp tai gái đồng quê:

 

Bấy lâu vắng tiếng khát khao

Bây giờ gặp mặt hát trao lời vàng

Heo may lúa tốt đồng làng

Nhân duyên là chuyện của nàng với anh

Có lòng têm miếng trầu xanh

Chờ chi hương bưởi, hương chanh đầu mùa

Chờ chi cơn nắng, cơn mưa

Năng đi năng lại chẳng thưa câu chào!

 

Trong khoảng thời gian người Pháp xâm lăng Việt Nam, nhất là sau khi người Pháp bức bách các vị vua của ta một cách quá quắt, tinh thần yêu nước của dân ta lên cao, thì trong những câu hát câu hò  đã thấy xuất hiện nhiều bài mang nặng tình tự quê hương dân tộc :

 

Gái trai cất giọng đêm hè

Tình ta trăng gió nghiêng về nước non

Sông sâu nước chảy đá mòn

Lòng ta sau trước sắt son không rời

 

Trước bến Văn Lâu

Chiều chiều trước bến Văn Lâu

Ai ngồi ai câu

Ai sầu ai thảm

Ai thương ai cảm

Ai nhớ ai trông

Thuyền ai thấp thoáng trên sông

Đưa câu mài đẩy chạnh lòng nước non!

 

Ngoài những câu hát, câu hò trữ tình, người bình dân Việt Nam còn dùng những câu hát câu hò làm  phương tiện để chuyển tải các bài học giáo dục về luân thường đạo lý của dân tộc:

 

Người xưa để lại câu hát ví

Dâu giỏi do các mẹ bảo ban

Rể khôn do công ơn bố dạy

 

Con cò lấp ló bụi tre

Sao cò lại muốn lăm le vợ người?

Vào đây nghe hát đôi lời

Để cho cò hiểu sự đời ở ăn

Sự đời cò lấy làm răn

Để cho cò khỏi băn khoăn sự đời!

 

Trong cuộc hát hò, họ có thể hát lên những câu trao đổi tình cảm, họ có thể hát lên những câu đối đáp thử tài. Ta thấy hầu như trong phần lớn các cuộc hát hò đối đáp từ hát xoan, hát quan họ, hát trống quân, hát ghẹo, hát đúm Thủy Nguyên, hát ví Nghệ Tĩnh đến các điệu hát, điệu hò ở miền Trung và miền Nam đều có những câu hát đố hay hát đối để thử tài đối phương và cũng chính từ những câu hát đố hay hát đối nầy mà các cuộc thi tài hò hát hay xảy ra tình trạng căng thẳng.

 

Một cô bên gái đưa ra câu đố :

 

Nghe tin anh hay hát hay hò,

Đố anh đếm được cổ con có mấy lông?

 

Một anh bên trai đáp ngay :

 

Em về đếm cát duới sông

Anh đây sẽ đếm được lông cổ cò!

 

Bên trai thách thức:

 

Ba đồng một quả hồng dài

Cô kia có tài thì cất tiếng lên

 

Bên gái đốp chát ngay :

 

Ba đồng một quả hồng ngâm

Bên ấy không hát thì câm mất mồm!

 

Trong lúc đối đáp, một bên suy nghĩ hơi chậm chưa kịp trả lời, đã bị bên kia cà khịa ngay:

 

Ba đồng một mớ rau ngò

Báu gì câu hát bạn mò không ra!

 

Đang khi cuộc rượu say nồng

Đàn kia đang gảy sao chùng mất giây?

Hết điệu thì em cho vay

Can gì phải nghĩ nửa ngày, anh ơi!

 

Họ nói “đàn kia đang gảy” là nói bóng nói gió chứ thực ra là họ muốn nói đến hát đến hò đấy!

 

Bị bên nam tấn công tới tấp, các cô làm bộ kênh kiệu:

 

Có hát thì hát cho bổng, cho cao

Cho gió lọt vào cho chúng em nghe

Chúng em ngồi võng ngọn tre

Gió đưa cút kít chẳng nghe thấy gì!

 

Bị bên nữ tấn công bằng những lời lẽ ỡm ờ, bên nam hát chọc tức ngay:

 

Tiếng đồn em bậu hò lanh

Ngày nay mới biết mặt xanh như chàm!

 

Cô kia mà hát ghẹo ai

Cái mồm méo xệch như quai chèo đò

Lại đây anh nắn lại cho

Ngày mai chèo đò ăn bát cơm thiu!

 

Nếu lại bị các cô chẳng chịu buông tha, các chàng ra cái điều hăm dọa:

 

Cô kia mà hát đa đoan

Anh cầm con dao lá trúc anh rạch  gan cô mày!

Ruột non anh quấn lên cây

Ruột già anh vấn làm dây kéo thuyền!

 

Thông thường, mỗi hội hát hò đều có quy luật riêng của nó, tuy nhiên, có lắm khi, quy luật tạm thời lại được đặt ra ngay trong lúc vào cuộc đối đáp, còn được chấp thuận hay không lại do bên đối phương. Chẳng hạn, có người chỉ muốn kết bạn với người lạ để thử tài cao thấp:

 

Áo đen tra nút cũng đen

Tôi hò với người lạ chớ người quen không hò!

 

Hoặc giả, có người sợ không khí buổi hát mất vui vì lấn cấn những chuyện gia đình chồng con, có người vào cuộc hát đã đưa ra điều kiện:

 

Tháng Tám anh đi chơi xuân

Đến đây có hội trống quân anh vào

Trước khi hát anh có lời giao:

Không chồng thời vào, có chồng thời ra

Có chồng thì tránh cho xa

Không chồng thì sẽ lân la tới gần

 

Như ở trên chúng ta đã thấy, có nhiều hội hát hò dẫn đến chỗ gay cấn, đôi khi tạo nên không khí bất hòa chỉ vì một bên đưa ra những câu hỏi hóc búa mà phía bên kia không thể nào trả lời được. Hơn nữa, thường mỗi bạn hát lại có một người đứng ngoài mớm câu và chính người mớm câu đôi khi tạo cho không khí cuộc hát không được suôn sẻ, vì vậy, có người, trước khi vào cuộc hát đã nêu lên điều kiện:

 

Đã hát thì cấm hát chua

Cấm đố, cấm họa được thua mới tài

Cấm từ truyện Nhị Độ Mai

Huê tình kiếm lấy, cấm ai xui mình

Hát thì hát rặt huê tình

Có hát chỉ hát một mình với ta!

 

Họ đòi hỏi đối phương chọn lựa những câu hò câu hát cho thật hiền lành :

 

Thiên cao đằng đẵng

Nguyệt chiếu phi hằng

Một ngày gặp mặt cũng bằng ba thu

Trên xuân thu, dưới cũng xuân thu

Có hò thì lựa câu nhu bớ mình! . . .

 

Có  thể nói dân tộc Việt Nam là một dân tộc mê thơ và mê hát. Cái tính mê thơ và mê hát đó đã bắt nguồn từ ngay trong tính chất giàu nhạc điệu của ngôn ngữ Việt Nam. Thêm vào đó, ngay từ thuở mới chào đời, đứa trẻ Việt đã hấp thụ ngay nguồn thơ và nguồn nhạc từ trong lời ru của mẹ ru con, bà ru cháu, chị ru em. Bởi vì ca dao tục ngữ chính là thi ca bình dân vậy. Tính chất mê thơ và mê hát đó đã sản sinh ra không biết bao nhiêu điệu hát, điệu hò, điệu lý . . . ngân vang trong những cánh đồng quê hương bát ngát:

 

Nhờ trời mưa thuận, gió hòa

Lúa vàng đầy ruộng, lời ca vang đồng

 

du dương trên những con sông quê hương tình tứ:

 

Đêm khuya nghe tiếng ai hò

Tưởng thuyền Lã Vọng, hóa ra đò bán than!

 

và ngân vang ngay cả trên mặt biển đông vào nhữn g ngày trời êm bể lặng đám dân chài rủ nhau ra khơi cất tiếng hò khoan để quên đi những phút giây mệt nhọc :

 

Ghe bầu dọn dẹp kéo neo

Mấy chú bạn chèo bắt cái “hò khoan”

 

Thế nên, trong các đám hát, họăc là hát hội như trong các hội hát quan họ, hội hát trông quân . . . đến các đám hát trong lao động như các đám hát ví ở Nghệ Tĩnh, các đám hát cấy, các đám hát giã gạo . . .  khắp trên các cánh đồng bao la của nước Việt, các nghệ sĩ dân gian của ta đã đem hết tâm hồn của mình phả vào tiếng hát lời ca tạo nên bao nhiêu say mê cho đám bình dân thưởng ngoạn:

 

Hỡi người đầu đội nón mê

Mà sao tiếng hát làm tê tái lòng

Hỡi người mặc áo nâu sồng

Sao lời hát ngọt như dòng sông sâu

Câu vui chen với câu sầu

Khi sa nước mắt, khi đầu non cao

Dai dẳng khúc ruột làm sao

Mới nghe mà đã xôn xao lòng người !

 

Họ muốn tiếng hát của họ tỏa rộng, lan xa ra khắp mọi miền có thể làm lay động cả một khoảng không gian đầy ắp những giọng hò, điệu hát của họ:

 

Hát cho lở đất long trời

Cho đời biết mặt, cho người biết tên

Hát từ chợ Phủ hát lên

Hát suốt tỉnh Bắc, qua miền tỉnh Đông

Hát sao cho cạn dòng sông

Cho non phải lở, cho lòng phải xiêu!

 

Họ muốn tiếng hát đầy ắp tình yêu của họ chẳng những làm lay động lòng người, làm say mê lòng người mà còn lay động cả đến muông thú xung quanh:

 

Hát cho chó cắn, bò lồng

Hát cho con gái bỏ chồng mà theo !

Hát cho chó cắn, bò kêu

Hát cho ông lão trong lều bò ra !

 

Cất lên một tiếng linh đình

Cho loan nhớ phượng, cho mình nhớ ta.

Cất lên một tiếng la đà

Cho chim nhớ tổ, cho gà nhớ con.

 

Thế nên hễ cứ nghe ở đâu có người nổi tiếng về hát hò là người ta lại thi nhau tìm đến để tạo nên một không khí sôi  động về giọng hò câu hát quê hương :

 

Đồn đây có gái tốt tươi

Ví hay tăm tiếng đến tai anh rày

Anh nói cho cô mình hay

Cô mình hay ví anh ra tay ví cùng

Ví cho con gái bỏ chồng

Con trai bỏ vợ, mẹ dòng bỏ con

Ví cho nát đám cỏ non

Điếu kia long nỏ kêu tròn như vo

Ví cho nước Hán sang Hồ

Nước Tần sang Sở, nước Ngô sang Lào

Ví cho sóng nổi ba đào

Một trăm cuộn chỉ lọt vào trôn kim!

 

Hát cho sấm động mưa sa

Hát cho gương vỡ làm ba lại liền.

 

Hát cho bể lọt vào ao

Một trăm trái núi lọt vào trôn kim

Hát cho bong bóng thì chìm

Đá xanh thì nổi, gỗ lim lập lờ.

 

Họ say mê hát hò đến quên cả thời gian , như thách đố cả mọi nguy hiểm đối với bản thân :

 

Mải mê hò, mê hát

Chiều về nhà phụ mẫu đánh thịt nát, xương tan

Đau bao nhiêu tôi cũng chịu, bấm gan chờ chàng!

 

Hát đàn cho rạng đông ra

Mai về quan bỏ nhà pha cũng đành!

 

Nói thế chứ có quan nào nỡ bắt tội những nhà nghệ sĩ dân gian say mê giọng hò câu hát của dân tộc!

 

Hò hát có thể là phương tiện để trai chưa vợ, gái chưa chồng tìm hiểu nhau, trao tình cho nhau và có thể tiến đến hôn nhân:

 

Hò chơi cho trọn buổi chiều

Keo sơn quấn chặt, sợi chỉ điều xe săn

 

Tới đây cối gạo đã đầy

Trước thì giã gạo, sau gầy lương duyên.

 

Trong những cuộc hát đối đáp, những buổi hát giao duyên như thế, những người trong cuộc hát thực khó lòng mà bỏ ra về khi buổi hát chưa tàn cuộc. Buổi hát chỉ thực sự tàn cuộc khi đã có những lời hò hẹn ân tình:

 

Ra về răng đứt mà về

Câu ca bỏ giở, lời thề chưa trao!

 

Vả lại, khi đã gặp người tri kỷ thì dù trời đã về khuya họ cũng cố nài ở lại để nối thêm cuộc hát :

 

Canh hãy còn khuya

Đường về thăm thẳm

Đôi ta xứng lắm

Như kép với đào

Hát chơi giải muộn lẽ nào làm ngơ!

 

Dù đã khuya họ cũng còn mời mọc nhau thay điệu hát để tiếp tục cuộc chơi vì họ biết rằng sức hát, sức hò của họ vẫn còn dồi dào lắm :

 

Bây giờ sang trống canh ba

Mình ơi trở giọng cho ta trở làn

Giọng mình mình để lá lan

Giọng ta ta để năm gian nhà đầy!

 

Thế nhưng, dù mê hò mê hát tới đâu đi nữa thì những nhà nghệ sĩ dân gian của chúng ta cũng không thể nào quên được cuộc sống thực tế vẫn đang chờ trước mặt, và vì thế, dù biết chia ly là “đau thương” thì họ cũng phải gạt nước mắt mà chia tay để lo cho công việc ngày mai :

 

Đêm lụn canh tàn

Giã chàng ở lại

Ra về hoằn hoại

Luống những đau thương

Chào nhau cách mặt đôi đường

Dứt câu hò hát, lo lường bán buôn!

 

Như ta đã thấy đó, bắt cặp để hát, trong lúc hò hát, họ vẫn muốn nói “Đôi ta xứng lắm, như kép với đào”, họ xưng hô với nhau nghe thân mật lắm như đôi bạn tình đã từng keo sơn gắn bó : “Mình – Ta” (Giọng mình, giọng ta).

 

Đành rằng, trong những cuộc hát đối đáp, hát giao duyên như thế quả là những dịp thật tốt cho những đôi trai gái yêu nhau có dịp tỏ tình một cách công khai mà không hề bị miệng đời chê trách.

 

Thế nên đã có nhiều chàng trai chưa vợ (và dĩ nhiên cả những cô gái chưa chồng) thường tìm đến các đám hát giao duyên để trao đổi tình cảm, để tìm ý trung nhân:

 

Trống quân có đĩa thịt bò

Những anh không vợ đi mò cả đêm

Trống quân có đĩa thịt chim

Những anh không vợ cả đêm đi mò

Hay :

Một đàn cò trắng kia ơi

Có nghe ta hát những lời nầy không?

Hát cho đẹp cốm tươi hồng

Hát câu nên vợ, nên chồng cò ơi!

 

Có nhiều cô gái tin vào những lời trao tình đường mật trong các cuộc hát và ngỡ rằng mình đã gặp được người trong mộng, nhưng nàng đâu có ngờ những lời chàng hát chỉ là những lời “giả sử” và khi cô gái thực lòng hỏi chàng thì chàng lại tìm cách “đánh trống lảng”:

 

Biết nhau ba bốn năm nay

Câu nào anh hát cũng ngọt ngay như đường

Hát thì nhớ nhớ, thương thương

Khi đến gặng hỏi lại thường lảng ra

Biết người sao chẳng biết ta

Nói năng lấp lửng như là gió giăng!

 

Thế nhưng cũng có lắm khi  xưng hô “anh anh – em em”, “mình mình – ta ta”, “chàng chàng – thiếp thiếp” chỉ là một cách “sắm vai” cho cuộc hát, cuộc hò được quyến rũ mà thôi. Thế nên, trong nhiều cuộc hát, hoặc là ngay từ lúc khởi đầu, hoặc trong lúc kết thúc cuộc hát, người ta luôn luôn đưa ra những câu hát dè chừng nhằm “thanh minh” cho những lời lẽ của mình trong cuộc hát:

 

Hò chơi bên gái,  bên trai

Xin cùng cô bác đừng ai nghi ngờ

 

Xin rằng cô bác đừng ngờ

Dăm câu hát góp cùng hò làm vui !

 

Như ta cũng đã biết, tham gia vào những buổi ca hát dân gian như vậy không chỉ gồm toàn những trai chưa vợ, gái chưa chồng, mà còn có cả những người đã có chồng có vợ, con cái đùm đề! Họ là những nghệ sĩ dân gian không chuyên nghiệp, rất say mê tiếng hò, giọng hát ngay từ thuở còn thanh tân. Có thể họ đã gặp người phối ngẫu trong những cuộc hát và những khúc hát huê tình, những khúc hát giao duyên đã nối kết họ nên duyên chồng vợ. Và bây giờ, dù đã có gia đình họ cũng còn say mê tiếng hát và tiếp tục tham gia vào các hội hát trong những ngày lễ hội hay tham gia vào các đám hát hò lao động trong làng, trong tổng.

 

Trong khi hát họ đã hát những khúc hát huê tình, họ cũng sáng tác kịp thời những khúc hát huê tình để đáp lại người bên kia, nhưng đó chỉ là “sắm vai”, tâm hồn họ vẫn trong trắng, không vẩn đục một chút ý nghĩ ngoại tình nào.

 

Nhị nhơn đối khẩu giao hòa

Hò chơi chồng vợ, tối về nhà người dưng!

 

Đây là lời của một nghệ sĩ dân gian “hát ví” của phường vải Nghệ Tĩnh:

 

Ai có chồng nói chồng đừng sợ

Ai có vợ nói vợ đừng ghen

Tới đây hò hát cho quen

Rạng ngày ai về nhà nấy, không há dễ ngọn đèn hai tim!

 

Và đây là lời của một nghệ sĩ dân gian đất Thừa Thiên:

 

Chợ Tết năm ni

Ai có chồng dặn chồng

Ai có vợ dặn vợ

Tới đây hò hát

Gá nghĩa làm quen

Ngày mai ai về nhà nấy, chớ thả lòng ghen bạn cười!

 

Đối với dân gian, hò hát chỉ là một phương tiện giải trí làm giảm đi nỗi mệt nhọc trong lao động :

 

Hò chơi vui ruộng, vui đồng

Nào ai bắt kết vợ chồng vấn vương?

Hò chơi phỉ dạ hai đàng

.   .   .   .   .

 

Ngay cả những khúc hát huê tình trên sông nước đôi khi chỉ xảy ra giữa một người nam với một người nữ thì những câu hát ân tình đó cũng chỉ là một điều không có gì đáng nhớ, đáng để tâm :

 

Hò ít câu có chi đâu mà sợ

Chiều lên bờ, trả duyên nợ lại em!

 

Bởi vì những cuộc gặp gỡ trên sông nước nhiều khi cũng chỉ là những cuộc gặp gỡ “bèo nước” nhất thời, rồi thuyền mỗi người sẽ rẽ về mỗi ngả :

 

Thuyền về Đại Lược

Duyên ngược Kim Long

Đến đây là chỗ rẽ của lòng

Gặp nhau còn biết trên sông bến nào !

 

*

 

Thế chiến thứ Hai vừa chấm dứt, Việt Nam tiếp tục lâm vào hai cuộc chiến tranh kéo dài gần 30 năm. Nông thôn trở thành những địa bàn chính yếu của cuộc chiến. Người dân luôn sống trong tình trạng thấp thỏm lo sợ. Mạng sống thường trực bị đe dọa. Vậy là mọi sinh hoạt văn nghệ dân gian xem như không còn đất dụng võ. Không còn thấy những tụ họp vào những đêm trăng giã gạo, tát nước để hò hát. Không còn mấy hội hè đình đám được tổ chức linh đình như trong những thời kỳ thái bình nữa. Có còn chăng, thỉnh thoảng vẳng lên những điệu hò sông nước có tính cách cá nhân. Các chính phủ đối nghịch nhau cũng cố gắng bằng cách này hay cách khác duy trì những sinh hoạt dân ca. Nhưng đây lại là những sinh hoạt của các nghệ sĩ chuyên nghiệp trong các đoàn văn nghệ (Miền Nam) hay các đoàn văn công (Miền Bắc). Nghệ sĩ chuyên nghiệp chỉ chuyên về trình diễn. Họ không biết sáng tác. Sáng tác do một lớp người khác. Thế nên, hát dân ca không còn mang tính cách sinh hoạt quần chúng nữa. Nghệ sĩ dân ca dân gian phải là nhà nghệ sĩ vừa sáng tác, vừa trình diễn, và phải sáng tác ngay trong khi trình diễn. Do đó, các thể loại hát hò dân gian dần dần bị quên lãng và cũng từ đó ta không còn thấy xuất hiện nhiều những câu ca dao mới nữa. Và đó là một thiệt thòi rất lớn cho nền văn chương bình dân của ta!

 

 

ĐÀO ĐỨC NHUẬN

 

Tài liệu tham khảo chính:

-Văn Học Bình Dân – Nguyễn Trúc Phượng – Sống Mới (Hoa Kỳ)

-Văn Chương Bình Dân – Thanh Lãng – Phong Trào Văn Hóa – 1954

-Đặc Khảo Về Dân Nhạc Ở Việt Nam – Phạm Duy – Hiện Đại – 1972

-Các tuyển tập ca dao

Bình luận về bài viết này