Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 215-216….
Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 215
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 45
“Ngoài giả lạnh tứ chi khô họng
Nước đái vàng nhiệt nóng ngoài da
Trùm không khát nước đái ra
Nước trong hàn giả rõ là ấm chân
Hơi nóng giả phân vân thời lạnh
Âm đới dương chứng cách cho tường
Ngoài rờ hầm hập trong thường
Bên trong thấy lạnh chán chường khí âm
Phép y trị chớ lầm hàn nhiệt
Chàng chớ quên nhất thiết” ôn lương”
Hai bên chân giả tận tường
Vọng, văn, vấn, thiết nhiều đường âm dương
Không định kiến mọi đường cứu chữa
Phép thổ y hãn hạ ai hay
Đại phu bốc thuốc khéo tay
Cao nhân chứng thực đạo thày sáng danh
Thổ vì tà thực hành dám chẹn
Thượng tiêu còn tức nghẹn hơi ngăn
Hãn vì biểu thực tà căn
Mồ hôi dàn dụa nằm lăn ra giường
Càng vật vã bất thường gập bụng
Hạ vì tà mà trúng âm kinh
Đớn đau cũng bởi do mình
Tà như xen nửa thực tình vào trong
Nghề thuốc giỏi thong dong hòa giải
Y thuật cao phải trái giãi bày
Biểu hư phép hãn mới hay
Hợp làm thanh giải cho tày kinh dương
Lý hư kia bất lương phép hạ
Cố hợp đường tiêu bổ kinh âm
Phải chăng mấy bệnh u thâm
Hạ lầm âm thoát hãn lầm vong dương
Ôi cũng lắm sách phương thuốc khác
Bổ hòa, công, tán, xác thân cho
Tổ sư căn dặn nguyên do
Chứng coi tận mắt mạch dò ngoài trong
Còn dốt nát chẳng thông sách thuốc
Đáng bổ thì tả, gốc công làm hòa
Khiến ai mở cửa dắt tà
Chứng khinh làm trọng học ra hại người
Ngư than thở cảnh đời trôi nổi
Học thuốc sai lạc lối chân trời
Bám theo kiến thức lỗi thời
Tầm chương trích cú nhiều nơi mịt mù
Cõi hoàng tuyền âm u khí lạnh
Chốn dương trần oán trách chi ai
Nỗi buồn mãi chẳng nguôi ngoai
Cứu người một mạng xây đài vinh quang
Câu kinh luận ngỡ ngàng đâu đó
“Cang hại thừa chế” ở khí vần
Nhãn quan chưa rõ máy thần
“Cang hại” hai chữ cổ nhân muộn phiền.“
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 46
“Môn cho rằng tự nhiên thiên bẩm
Thái cực sinh gốc thấm tình người
Âm dương năm tạng tìm nơi
Giao hòa phối ngẫu muôn đời cặp đôi
Quân hỏa cũng nửa vời âm hóa
Thủy khí theo tướng hỏa mà thừa
Ai hay thủy xuống hỏa dư
Thổ suy mộc khí lừ đừ lần theo
Nếu mộc xuống hắt heo kim khí
Kim yếu dần hỏa thị sang hòa
Âm dương như thể hai nhà
Năm hành thắng thế mới ra tật tàn
Hơi dâm thái gian nan cang quá
Dục đợi chờ hỏa họa dây dưa
Khí cang giờ lại dư thừa
Lẽ trời báo ứng chẳng chừa ai đâu
Trong kinh luận một câu ghi nhớ
Nghĩa con vì mẹ nợ trả xong
Thù ai cậy thế nạ đòng
Chờ thời dưới cũng cầu mong phận mình
Như quân hỏa chẳng bình cang động
Hại âm tình ác mộng phế kim
Biết ngay thận thủy đắm chìm
Thuận luôn chế hỏa dằn kìm hơi cang
Lấy đôi thủy hỏa, dàng cho vững
Để kim, mộc, thổ cũng như đây
Khen cho con tạo dựng xây
Âm dương sinh tử bấy chầy hóa công
Hay ở chỗ gieo trồng sự sống
Cùng núi sông chuyển động không ngừng
Hết cùng tắc biến chẳng dừng
Tĩnh kia động nọ nửa chừng lấn nhau
Theo năm tháng bạc màu sương gió
Sinh diệt hoài chăng chớ dằng dai
Đến khi cang cực nghiêng vai
Chữ rằng một cực kim cài hỏa xông
Hỏa cực độ sắt ruồng tự thủy
Thủy cực thành thổ lụy dưỡng doanh
Thủy dù sang mộc cũng đành
Muôn loài thụ tạo sinh thành thế gian
Cùng tinh tú tuần hoàn vũ trụ
Máy nhiệm màu đồn trú trước sau
Thử xem phong mộc làm đau
Vẫy vùng kiệt sức về sau nghiêng mình
Kim khắc mộc bất minh phải tính
Động kinh qua giữ tĩnh hết tình
Biết ngay thấp thổ cực hình
Gân run thịt nhão giật mình tay chân
Thổ cùng cực bất thần tự mộc
Tĩnh quá lâu động bốc mới xong
Xem hai chứng ấy tạc lòng
Dù cho bách bệnh xét trong dò ngoài“
Thu Hà đã diễn ngâm thơ tôi phần 215 này, gồm hai bài thơ tôi viết nhiều về kinh dịch, cảm xúc từ bản gốc thơ lục bát của cụ Nguyễn Đình Chiểu viết bằng thể thơ lục bát, còn tôi biến hóa thành song thất lục bát cố gắng hết sức để tránh viết rườm ra, giống như xây dựng một đại lộ, một bản trường ca bi ai hùng tráng về y thuật đông phương cổ truyền. Công khai phá mở đường ngăn sông sẻ núi phát quang cây cối phá đá phải kể công đầu là của bậc tiền bối Nguyễn Đình Chiểu, còn tôi là kẻ hậu sinh vạn bối làm công việc sửa sang tráng nhựa tô son, sơn phết thêm cho con đường đại lộ thuận tiện mà thôi. Cụ Nguyễn Đình Chiểu là người miền Nam, một nhà nho miệt vườn uyên thâm nho học, cụ dùng rất nhiều tiếng địa phương vùng Gia Định nay gọi là Sài Gòn, còn tôi là dân Bắc, nên nhiều từ tôi sửa lại. Ví dụ: Cụ Nguyễn Đình Chiểu gọi mắc nàn thì tôi là mắc nạn. Cụ tai nàn thì tôi là tai nạn vân vân và vân vân…
Về phần kinh dịch cực kỳ khó hiểu, ngay đến bậc thánh nhân như đức Khổng Tử cũng không thuộc và chưa hiểu hết. Nên tôi tránh bình giảng linh tinh dài dòng. Tôi buộc phải chắp tay đảnh lễ xin hỏi đại sư phụ vạn thế sư biểu tân thời là thày Google giải thích cho.
Kinh dịch là bộ sách kinh điển của China (Tàu). Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi (chuyển dịch). Ban đầu kinh dịch được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Tàu. Cho tới nay, kinh dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông và được coi là một tinh hoa của cổ học . Nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh…
Kinh có nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có gốc gác từ “quy tắc” hay “bền vững”, hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật tạo hóa không thay đổi theo thời gian.
Dịch có nghĩa là “thay đổi” của những thành phần bên trong một vật thể nào đó mà trở nên khác đi.
Khái niệm ẩn chứa sau tiêu đề này là rất sâu sắc. Nó có ba ý nghĩa cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:
Bất dịch – bản chất của thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn luôn tồn tại nguyên lý bền vững – quy luật trung tâm – là không đổi theo không gian và thời gian.
Biến dịch là hành vi của mọi thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống khác nhau.
Giản dịch là thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không cần biết là biểu hiện của nó là khó hiểu hay phức tạp.
Tóm lại: Vì biến dịch, cho nên có sự sống. Vì bất dịch, cho nên có trật tự của sự sống. Vì giản dịch, nên con người có thể qui tụ mọi biến động sai biệt thành những quy luật để tổ chức đời sống xã hội.
Hay: Thiên hạ chi động, trinh phù nhất (Dịch Hệ từ hạ truyện).
Lịch sử ra đời
Kinh Dịch được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy. Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ, được cho người sáng tạo ra bát quái là tổ hợp của ba hào. Dưới triều vua Vũ nhà Hạ, bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ, được ghi chép lại trong kinh Liên Sơn còn gọi là Liên Sơn Dịch. Liên Sơn, có nghĩa là “các dãy núi liên tiếp” trong tiếng Hoa, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn (núi), với nội quái và ngoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là Tiên Thiên Bát Quái.
Sau khi nhà Hạ bị nhà Thương thay thế, các quẻ sáu hào được suy diễn ra để tạo thành Quy Tàng còn gọi là Quy Tàng Dịch), và quẻ Thuần Khôn trở thành quẻ đầu tiên. Trong Quy Tàng, đất (Khôn) được coi như là quẻ đầu tiên. Vào thời kỳ cuối của nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu diễn giải quẻ (gọi là thoán hay soán) và khám phá ra là quẻ Thuần Càn (trời) biểu lộ sự ra đời của nhà Chu. Sau đó ông miêu tả lại các quẻ theo bản chất tự nhiên của chúng trong Thoán Từ và quẻ Thuần Càn trở thành quẻ đầu tiên. Hậu Thiên Bát Quái ra đời.
Khi vua Chu Vũ Vương (con vua Văn Vương) tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán tạo ra Hào Từ, để giải thích dễ hiểu hơn ý nghĩa của mỗi hào trong mỗi quẻ. Tính triết học của nó ảnh hưởng mạnh đến chính quyền và văn học thời nhà Chu.
Muộn hơn, trong thời kỳ Xuân Thu, Khổng Tử đã viết Thập Dực, để chú giải Kinh Dịch. Ông nói:
-“Nếu trời để cho ta sống thêm mươi năm nữa thì ta sẽ đọc thông Kinh Dịch. Năm mươi tuổi mới học Kinh Dịch cũng có thể không mắc phải sai lầm lớn.”
Vào thời Hán Vũ Đế của nhà Tây Hán (khoảng 200 TCN), Thập Dực được gọi là Dịch truyện, và cùng với Kinh Dịch nó tạo thành Chu Dịch .
Tuy đa phần các văn bản và học giả xưa này đều cho rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn hóa Hoa Hạ tại Trung Quốc, gần đây một số tác giả Việt Nam như Kim Định, Nguyễn Thiếu Dũng và Thích Viên Như và những người khác cho rằng Kinh Dịch do người Việt sáng chế hoặc phát triển.
Sau này Lão tử khi giáng sinh đã lập ra Đạo giáo đã tiếp tục kế thừa phát triển Kinh dịch lên tầm cao mới.
1.5.2020 Lu Hà
Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 216
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 47
“Nhân chứng tự dương sai âm đấy
Trong y khoa phương ấy dễ lầm
Bỏ qua quy luật âm dương
Biện câu “cang hại“ giết lầm người đau
Chẳng có thuốc dễ mau chuyển bệnh
Ngẫm câu thừa chế chểnh mà khinh
Lạnh qua nóng lại khuyên mình
Hoặc chờ ngày đến truyền kinh tự lành
Thể theo ý mà nhanh khỏi bệnh
Xét hợp thời mà tính cho ra
Khí cang làm hại người ta
Khí thừa trách cứ nôm na vội vàng
Ngư cho rằng xênh xang tạng phủ
Lắm nguyên nhân bệnh ủ khác xa
Chúng sinh muôn cõi quan hà
Âm dương chứng ấy sao mà giống nhau
Bởi con tạo trước sau tuần tự
Máy âm dương thứ tự dãi dầm
Thị phi điều tiếng dễ lầm
Nhập Môn: Dương chứng tự âm phơi bày
Trong nóng ran ai hay lạnh ngắt
Phía ngoài da con mắt đỏ vàng
Xa xôi giọng nói mơ màng
Miệng khô lưỡi rát hai đàng nguy nan
Mạch Sác nhảy đái tràn ỉa bón
Nước tiểu vàng dương lộn giả hàn
Trùm chăn chiếu đắp kêu than
Hợp cùng thuốc mát trấn an kịp thời
Tự âm vốn bao người lầm tưởng
Chẳng phải hàn bởi trướng khí lâu
Bốc thang giải độc hàng đầu
Bớt đau đỡ nhức một câu ghi lòng
Cũng như âm tự dương ái ngại
Nóng ngoài da trong lại lạnh tanh
Đùn ra nước dãi đã đành
Dộp môi, nhớt miệng, mục thanh, mạch trì
Trùm mền kín bố vi che đậy
Nước chẳng đòi ỉa thấy bã hèm
Nói năng lảm nhảm quấy sàm
Nên dùng thuốc ấm tự làm khí dương
Thuốc ôn trị thông thường mắc chứng
Thành lý trung, tứ nghịch các phương
Chao ôi sao lắm tục công
Âm dương tương khắc chẳng thông sẽ lầm
Tự phản nhau dương âm cang cực
Cổ chí kim y chước lẽ thường
Cao nhân học tập từng chương
Bao lời ca quyết tìm đường lần ra
Dương tựa âm dễ mà lường trước
Chân tay run thao thức chẳng yên
Phều phào táo bón phân đen
Dầm dề nước tiểu bao phen đỏ hồng“
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 48
“Ngư tiều nghĩ ngóng trông hòa khí
Thuốc chẳng cần tự trị bệnh lành
Cang kia thừa chế đã đành
Âm dương sinh tử mong manh phận người
Cả bốn mùa đất trời vần vũ
Theo ngũ hành khí tụ muôn nơi
Nắng mưa phải biết tùy thời
Đại phu bốc thuốc ở đời làm chi?
Đường Nhập Môn suy vi nhân thế
Bao danh y cứu tế độ trì
Thuốc hay chẩn mạch tương tri
Nghìn năm bia đá đền nghì thánh nhân
Thân xác bởi tinh thần khí tượng
Máy huyền vi tưởng thưởng ý trời
Than ôi vật dục khổ người
Hoặc vì tửu sắc khí hơi bất đồng
Hoặc đói lạnh sức nông lực cạn
Lao tâm nhiều ngao ngán chán sao
Nhọc nhằn thời thế lao đao
Chiến tranh bệnh dịch cường hào sai nha
Thân gầy yếu hư hao năm tháng
Hạn hán dài cay đắng làm sao
Trách trời, trời ở trên cao
Đất dày ai oán nghẹn ngào sương sa
Bởi cớ sao sơn hà tang tóc
Dân đau thương nheo nhóc sớm hôm
Triều đình quan lại đầu tôm
Hôn quân hủ bại nằm ôm mộng vàng
Miền lâm y mênh mang thảo dược
Nhen nhóm lò cứu trước chúng sinh
Khen thay y thuật thánh minh
Đủ phương pháp trị bệnh tình người ta
“Trí trung hòa” vị tha giải họa
Sách “tham thiên tán hóa” vân vi
Trọn hay:“ bất dược trúng y“
Ứng nhau nhân bệnh thiên ly cảm lòng
Ngược xuôi mãi long đong ảm đạm
Biết đi đâu trời thảm đất sầu
Mưa phùn gió bấc thân đau
Dựa theo vận khí theo sau mà lành
Bởi vận khí hoành hành ngang ngược
Bậc đại phu biết trước nhân sinh
Đến như dục vọng hại mình
Đau không uống thuốc sao bình máu hơi
Cũng đành rằng do trời vận khí
Cũng có khi vận khí nơi mình
Từ hai lẽ ấy phân minh
Đâu là y biến bệnh tình y nguyên
Biết y nguyên dễ quên thiên hạ
Bệnh gia tăng chẳng há theo trời
Mới hay y biến theo người
Thuốc hay công dụng trọn lời vấn vương
Âm dương vẫn mạch thường ba bộ
Thốn xích quan ấy đủ ra vào
Hai phương nam bắc chia sao?
Thiên hòa bất ứng năm nào bộ chi?“
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 49
“Môn khảng khái du di vận khí
Chính bắc nam định vị chúa tôi
Sáu hơi bốc hỏa cao vời
Chẳng dùng vào việc một ngồi thảnh thơi
Quyền lực lớn rong chơi năm vận
Thấp thổ càng bàn lấn trung ương
Biết ngay vận thổ đế vương
Mặt nam chiếu chỉ tứ phương đến chầu
Mộc kim thủy hỏa, cầu chúa thượng
Bá quan văn võ tướng công hầu
Vệ binh giáp mã từng xâu
Bề tôi nam bắc cúi đầu xưng tên
Lấy trong mười chữ thiên can hóa
Thuận tiết thời tránh họa tuyệt vời
Nam chinh mới nói đạo trời
Bắc kia quy thuận tỏ lời sách biên
Coi giáp tý hai niên xung mãn
Kinh dịch xem chẳng chán thánh hiền
Cao nhân y thuật thần tiên
Thì ra phận thổ chiếm quyền nam quân
Tám năm bắc chính, thần dân cậy
Đinh nhâm canh ất, thấy nhấp nhô
Bính tân quý mậu tung hô
Lấy hai ngôi chính phân đồ công danh
Mạch theo niên mới rành tách bạch
Bạn luận nhiều sát hạch chí tình
Thiên hòa mạch ấy vốn binh
Mạch trầm thông suốt tình hình tam âm
Thái, thiếu, quyết lâm râm trời đất
Ba âm càng chân thật theo niên
Nam chinh âm thái tư thiên
Cho hay bộ thốn mạch chuyên hữu chìm…
Còn bộ xích im lìm mạch hữu
Ví dụ nhiều để cứu chúng sinh
Rạch ròi chi tiết bệnh tình
Coi sao cho hết thân hình lao đao
Mạch chẳng ứng chìm vào xương cốt
Học thiếu hành đã dốt lại cương
Chủ quan phép mạch ấy thường
Bốn mùa bệnh biến dò đường dễ sao?
Kinh trời đất núi cao biển rộng
Con tạo kia lồng lộng hóa sinh
Mạch đâu mờ mịt dáng hình
Xem hơi thắng phục cho tinh tường vào
Phải xem kỹ gắt gao nhất thiết
Giao phản rằng sắp chết tới nơi
Thiếu âm xích thốn chơi vơi
Bệnh tình khẩn cấp kịp thời cứu ngay
Đặt bài ca bậc thày truyền tụng
Tổ sư ta thiên hứng văn chương
Bộ ba âm khí tỏ tường
Muôn đời con cháu bốn phương cậy nhờ.“
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 50
“Dễ lẫn lộn vẩn vơ thời bệnh
Trị đúng căn chớ chểnh mảng chơi
Ngư rằng nhờ cậy đất trời
Thảo trùng dược phẩm cứu đời độ sinh
Có lắm kẻ bất minh cầu đảo
Tìm thày mo bát nháo thần linh
Thày chùa dâng sớ xảo kinh
Bàng môn đạo sĩ rập rình chập cheng
Trò đồng bóng tòng teng trống phách
Yểm bùa ma đàn hạch nhang đèn
Trấn yêu trừ quỷ bon chen
Oan gia trái chủ bao phen tung hoành
Bệnh càng nặng mong manh mạng sống
Phận bọt lèo nuôi mộng Nam Kha
Phù hoa trong cõi sa bà
Ăn chơi thác loạn mã tà nhiễu nhương
Chẳng lề luật kỷ cương phép nước
Phường lục lâm ô trược quàng xiên
Chống lưng ác bá vì tiền
Bán buôn thuốc giả đảo điên tật nguyền
Như hổ dữ tà quyền quan lại
Đám kiêu binh chẳng ngại lộng hành
Lang băm kiêu ngạo xú danh
Tanh tao mật mỡ ruồi xanh nhặng bầy
Môn ngao ngán cáo cầy phách lối
Tấn vương hèn xã hội lụi tàn
Chúa Liêu xâm lược dã man
U, Yên tang tóc nghèo nàn khổ đau
Cuộc bể dâu bạc màu năm tháng
Càng thê lương cay đắng u minh
Người cùng thần quỷ yêu tinh
Khác đường ăn ở điêu linh thảm sầu
Hơi tà khí dãi dầu sương tuyết
Nơi chùa hoang rên riết khóc than
Thần nghèo quỷ đói mượn đàn
Thê lương miếu sập ôn tràn dịch lan
Khắp muôn nơi thân tàn ma dại
Xác đầy đường tê tái quan san
Hớp hồn hồ mị xa gần
Xôn xao quỷ hiện ma thần ngu si
Sách rằng ”trúng ác truyền thi” tán
Tật quấy là bệnh hoạn xiết bao
Tổ xưa nghề thuốc thanh cao
Nhiều phương cứu chữa dạt dào đồng môn
Thời lấy thuốc đuổi ôn tả dịch
Với dân nghèo chẳng tính toán chi
Đồng tiền chẳng có nghĩa gì
Lấy trâm trừ quỷ tiếng thì đồn vang
Chích hang quỷ cao hoang yểm huyệt
Giải nguy nan nhất thiết chẳng sai
Ông còn mũ áo trắng vai
Phá hình dụ gái diệt loài yêu ma.“
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
27.4.2020 Lu Hà
Cả 4 bài thơ liên tiếp trên dẫn tiện lợi để tôi cài đặt 4 Video tương ứng được nghệ sĩ Trần Thu Hà vào Youtube, giúp ích cho mọi người vừa nghe ngâm thơ vừa đọc nội dung từng bài thơ, còn bình giảng miên man từng câu thì tôi không muốn làm cái công việc coi như là vô bổ khi toàn giải thích ý nghiã tên các vị thuốc, kinh dịch và các chứng bệnh mang tính chuyên môn nghề nhiệp hơn là thưởng thức thơ.
Sau đây tôi xin trích dẫn lời tâm sự của một bạn đọc tên là Nguyễn Quang Hà. Theo tôi là rất hay khi bạn đó đã đọc toàn bộ tác phẩm truyện thơ lục bát của cụ Nguyễn Đình Chiểu.
“Truyện “Ngư Tiều vấn đáp y thuật” trước đây đã có cả thảy sáu bản in. Cuối năm 2006, Nhà xuất bản Thuận Hóa in lại tập sách này do Lương y Lê Quý Ngưu phiên âm và chú thích.
Lê Quý Ngưu tâm sự: “Tôi muốn bạn đọc hiểu một cách tường tận, từ đó quý mến, trân trọng sách của Nguyễn Đình Chiểu nên tôi cho in song ngữ chữ Nôm và chữ Quốc ngữ với những chú thích hết sức kỹ càng tường tận. Tôi đã bỏ công gần 10 năm trời để hoàn thành công việc này với mục đích giúp đỡ cho các thầy thuốc Đông y có tài liệu Đông y bằng chữ Nôm của chính người Việt Nam viết”.
Nguyễn Đình Chiểu viết nhiều tác phẩm: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Tứ thơ ngũ kinh gia huấn ca, Tam thập lục nạn, Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây… Suốt đời, ông đau nỗi tang thương nước mất nhà tan nên ngay cả trong “Ngư Tiều vấn đáp y thuật”, một cuốn sách chuyên nói về thuốc, vẫn thấy ông quặn thắt nỗi đau nhân tình:
“Đánh nhau thây bỏ đầy đồng
Máu trôi đọng vũng, non sông nhơ hình”
Chính từ nỗi thương tâm đó, Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu nghề thuốc rồi làm lương y để chữa bệnh cho dân và viết sách thuốc truyền tâm nguyện đến với mọi người.
“Ngư Tiều vấn đáp y thuật” kể chuyện Mộng Thê Triền và Bào Tử Phược không chịu sống dưới ách ngoại bang đã rời quê hương đi ở ẩn, thành Tiều và Ngư. Đời sống quá cực khổ, vợ con ốm đau.
Thương nỗi mình, cảm cảnh đồng bào, Ngư và Tiều tìm thầy học thuốc, rồi đi chữa bệnh cho cộng đồng. “Ngư Tiều vấn đáp y thuật” tập trung giới thiệu về y thuật, gồm các phần: Mạch, chế dược, vận khí, thương hàn, sản phụ, nhi khoa…
Tác giả rất khéo léo đề cập tới một căn nguyên bệnh là từ miệng ăn vào, từ lòng tham:
“Mũi thời tham vị hương vinh
Miệng thời tham béo, ngọt, thanh, rượu, trà
Vóc thời muốn bận sô, sa
Bụng thời muốn ở cửa nhà thếp son”
Các thầy thuốc Đông y xem bệnh, chữa bệnh qua mạch, qua kinh lạc, ngũ tạng, lục phủ…, đánh giá bệnh bằng sự cân bằng âm, dương, sự hài hòa ngũ hành. Những thầy thuốc giỏi khám bệnh qua sắc diện, hơi thở, chỉ cần đặt tay vào mạch là đọc bệnh cho bệnh nhân nghe, rồi từ đó tính toán chữa bệnh gì trước, bệnh gì sau.
Ngũ tạng trong cơ thể con người gồm tâm, can, tỳ, phế, thận, là những tạng khí có công năng tàng trữ và gạn lọc, chế tạo ra tinh khí. Một tạng bị bệnh ảnh hưởng ngay tới sự vận hành chung.
Trong “Ngư Tiều vấn đáp y thuật”, tác giả kể về tạng của can như sau:
“Tạng can thuộc mộc, cây vào mùa xuân
Sắc xanh con mắt là chừng
Hoa ra giáp mấy dây gân buộc ràng”
Qua những câu thơ lục bát, bạn đọc hiểu được sự nguy hiểm của căn bệnh này. “Ngư Tiều vấn đáp y thuật” có bàn tới những bài thuốc cụ thể:
“Như đau bụng thốn tử cung
Can khương, phụ tử chẳng dùng sao an?
Như đau máu chứa bàng quang
Phương nào khỏi hốt đại hoàng, đào nhân”
Nguyễn Đình Chiểu phê phán rất nghiêm khắc những người chỉ khoác áo lương y thôi”
“Học thầy nào dạy cho mày
Làm ngay không phép hại bầy sinh linh
Cả gan riêng lập phép hình
Khảo dân lấy của lung tình ăn chơi”
Với 3644 câu, “Ngư Tiều vấn đáp y thuật” cốt để dạy cách làm thuốc chữa bệnh. Nguyễn Đình Chiểu viết truyện bằng thơ để người đọc ngâm nga cho dễ nhớ. Đó là phong cách soạn sách của một thời ở miền Nam.
Có tâm huyết với dân với nước, Nguyễn Đình Chiểu đã đào sâu y thuật để cứu người.
Ông viết sách để truyền thụ cho dân gian kiến thức nghề thuốc và y đức của người thầy thuốc. “Ngư Tiều vấn đáp y thuật” mang tinh thần ấy cho nên được truyền tụng cho đến tận bây giờ và sẽ mãi còn giá trị.“
1.5.2020 Lu Hà
Thơ Tình Chùm Số 1.232
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 50
Dễ lẫn lộn vẩn vơ thời bệnh
Trị đúng căn chớ chểnh mảng chơi
Ngư rằng nhờ cậy đất trời
Thảo trùng dược phẩm cứu đời độ sinh
Có lắm kẻ bất minh cầu đảo
Tìm thày mo bát nháo thần linh
Thày chùa dâng sớ xảo kinh
Bàng môn đạo sĩ rập rình chập cheng
Trò đồng bóng tòng teng trống phách
Yểm bùa ma đàn hạch nhang đèn
Trấn yêu trừ quỷ bon chen
Oan gia trái chủ bao phen tung hoành
Bệnh càng nặng mong manh mạng sống
Phận bọt lèo nuôi mộng Nam Kha
Phù hoa trong cõi sa bà
Ăn chơi thác loạn mã tà nhiễu nhương
Chẳng lề luật kỷ cương phép nước
Phường lục lâm ô trược quàng xiên
Chống lưng ác bá vì tiền
Bán buôn thuốc giả đảo điên tật nguyền
Như hổ dữ tà quyền quan lại
Đám kiêu binh chẳng ngại lộng hành
Lang băm kiêu ngạo xú danh
Tanh tao mật mỡ ruồi xanh nhặng bầy
Môn ngao ngán cáo cầy phách lối
Tấn vương hèn xã hội lụi tàn
Chúa Liêu xâm lược dã man
U, Yên tang tóc nghèo nàn khổ đau
Cuộc bể dâu bạc màu năm tháng
Càng thê lương cay đắng u minh
Người cùng thần quỷ yêu tinh
Khác đường ăn ở điêu linh thảm sầu
Hơi tà khí dãi dầu sương tuyết
Nơi chùa hoang rên riết khóc than
Thần nghèo quỷ đói mượn đàn
Thê lương miếu sập ôn tràn dịch lan
Khắp muôn nơi thân tàn ma dại
Xác đầy đường tê tái quan san
Hớp hồn hồ mị xa gần
Xôn xao quỷ hiện ma thần ngu si
Sách rằng ”trúng ác truyền thi” tán
Tật quấy là bệnh hoạn xiết bao
Tổ xưa nghề thuốc thanh cao
Nhiều phương cứu chữa dạt dào đồng môn
Thời lấy thuốc đuổi ôn tả dịch
Với dân nghèo chẳng tính toán chi
Đồng tiền chẳng có nghĩa gì
Lấy trâm trừ quỷ tiếng thì đồn vang
Chích hang quỷ cao hoang yểm huyệt
Giải nguy nan nhất thiết chẳng sai
Ông còn mũ áo trắng vai
Phá hình dụ gái diệt loài yêu ma.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
27.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 51
Cũng lắm chước trừ tà diệt quái
Đạo của ta vạn đại thánh hiền
Tôn sư sách thuốc khảo biên
Sử gia hoạt pháp lưu truyền tới nay
Mầu nhiệm thay chẳng hay chấp nhất
Yêu thuật tà thành thật lắc đầu
Được thời độc sĩ theo sau
Múa may phù phép đua nhau lừa người
Dân mê muội lẽ trời chẳng tỏ
Sợ chết thời lọ mọ vời sư
Phong tà dịch hạch như từ
Hố sâu lầm lạc thói hư mặc đời
Dù đau đớn tả tơi thân xác
Phép bí tung tự tác dị đoan
Oan gia trái chủ lăng loàn
Nhà chùa hốt của mưu toan hại người
Sư hổ mang ăn chơi đàng điếm
Vãi dâm ô mưu chiếm nhang đèn
Chính tà ngụy biện bao phen
Vô thần giả mạo bon chen tượng thờ
Phép y trị nào mơ mộng hão
Khoa nội thày chỉ bảo thuốc thường
Bệnh tà áp dụng biến phương
Cao thâm học thuật tìm đường cứu nguy
Lẽ tự nhiên xét suy tạo vật
Nghĩa trọng coi chân thật khinh tài
Bệnh sinh nội tiết trong ngoài
Học cho tường tận trừ loài yêu tinh
Hương trừ quái quỷ kinh gõ mõ
Hồ ly tinh sợ chó săn đi
Mồ hoang mả dại chim di
Xà yêu sợ tỏi lạị nghi hùng hoàng
Thổi bồ kết xênh xang lỗ mũi
Tưởng hắt hơi lụi cụi rồi thông
Cải cay lệ chảy long tong
Hoa tiêu tắc khí cầu mong hơi rời
Nước đái rùa chữa người cấm khẩu
Xương chuột cho cô cậu mọc răng
Cây kim từ thạch dính nhằng
Biết ngay hạt cải lăng xăng chốn nào?
Có hổ phách lẽ nào chẳng thấy
Mật rái kia nước ấy rẽ liền
Keo loan xương nối đáng tiền
Tiết đông nhờ cậy ngó sen đó mà
Bỏ xác cua sơn ta tan rữa
Thanh quế kia vì nhựa nấu tan
Ngọc mềm mỡ cóc rã tàn
Như bùn trong bát ngút ngàn nghiệm suy
Kể sơ qua cũng tùy nhận thức
Hết thảy đều đã được chứng minh
Hết lòng cứu chữa bệnh tình
Lương y từ mẫu chúng sinh đạo hành.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
28.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 52
Tiều mới hỏi trời sanh đất dưỡng
Bốn dạng thường sinh trưởng mà ra
Trăm sông nghìn núi bao la
Xin nghe các chứng đàn bà có thai
Tháng kinh can thái lai tĩnh dưỡng
Hai tháng sau ba tượng tâm bào
Thứ tư kinh tiểu trường trao
Năm thì tỳ dưỡng sáu vào vị hương
Bảy kinh phế thông thường tháng tám
Chín tháng kinh thận dám nối liền
Đủ ngày trọn tháng dĩ nhiên
Mười kinh, mười tháng về miền bàng quang
Nhóm xung nhâm âm dương thủ túc
Cùng tam tiêu phủ phục dưỡng thai
Con người đệ nhất trần ai
Lời hay Sào thị có bài sách biên
Tâm làm mẫu chính chuyên tạng chủ
Lấy tam tiêu ấy phủ thênh thang
Tổng quan thai gốc máu sang
Máu nhờ tâm chủ giữ đàng mạch kinh
Mạch máu ấy nuôi hình thai nghén
Thủ thiếu âm chẳng chẹn bởi tâm
Thai nhi phát triển tới tầm
Chia đâu phiên thứ giáng cầm chủ trương
Trong kinh lạc âm dương suy ngẫm
Đắp đổi nhau dựa dẫm năm hành
Có ông Phùng thị nổi danh
Gốc theo kinh chỉ sử xanh luận bàn
Bậc lương y chứa chan nhân loại
Tay nghề hay chẳng ngại thấp cao
Kinh truyền:”tâm với tâm bào”
Thật ra hai mạch lại vào một nơi
Ta cũng biết máu hơi kinh lạc
Đủ mười hai nào khác trong mình
Có thai tiếp đến bế kinh
Vần xoay nhóm máu đồng tình nuôi thai
Luận bào thai mấy ai Sào thị
Tuy vắn dài Phùng thị khác nhau
Đọc nhiều thông tuệ cái đầu
Lời nào xác đáng nhu cầu sáng soi
Ngư cho rằng giống nòi đã đặng
Nuôi thai nhi mang nặng đẻ đau
Vuông tròn sinh đẻ theo sau
Cớ sao lắm kẻ thai nhau chẳng lành?
Năm ba tháng chẳng thành con cái
Nghiệp tạo nên oan trái gì đây
Môn buồn phúc đức vơi đầy
Thai hư ngày tháng hao gầy phụ nhân
Theo Thuần Khôn tinh thần chao đảo
Chẳng khiêng khem chao đảo lo âu
Máu hơi chẳng đủ dãi dầu
Xung nhâm mạch yếu cơ cầu mặc nhiên.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
28.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 53
Thai nguyên gốc chẳng bền thể dục
Bệnh hoạn nhiều tứ túc khó thành
Trách ai chửa nghén chẳng lành
Liền mang tiểu sản mong manh nơi mình
Bán sản nên điêu linh ảm đạm
Trái non kia u ám trên cành
Xầm xì đức hạnh tiết danh
Gốc cây lỏng lẻo trái đành rụng non
Máu hơi thiếu đẻ con ốm yếu
Thân hao gày thất thểu ra gì?
Vướng vòng nhục dục sân si
Ăn chơi bất kể vật chi dữ lành
Phường trí trá hư danh bất hảo
Thuốc lang băm lếu láo bất kinh
Xót xa thế thái nhân tình
Lầm mang độc vị hại tinh huyết người
Thợ trời giúp tình đời đây đó
Lời cấm xưa chớ có coi thường
Nguyên trùng miêu đỉa bất lương
Có thai nên tránh nhiễu nhương mặc dầu
Thật nguy hiểm ô đầu, phụ tử
Với thiên hùng ba đậu thủy ngân
Ngô công dã cát sát nhân
Tam lăng ngưu tất tâm thần đáng thương
Đại giả thạch xạ hương đại kích
Nguyên hoa kia kình địch thư hoàng
Nha tiêu xà thuế tiêu mang
Mẫu đơn tạo giác quế càng độc tăng
Đừng bán hạ lăng nhăng thông thảo
Can tất còn giải trảo mai cua
Than ôi bồ kết chu sa
Đào nhân rắn rết chẳng tha mạng người
Gốc cỏ tranh ma chơi hồn quỷ
Mao căn kia bi lụy hòe hoa
Khiên ngưu địa đảm nhạt nhòa
Thân tàn ma dại mù lòa thuốc thang
Tiều chắp tay phải càng thận trọng
Người mang thai phận mỏng cánh chuồn
Giữ gìn thể xác linh hồn
Nội tâm tĩnh tại nỗi buồn tiêu tan
Còn những bệnh băng hàn thân giá
Thuốc nóng càng triệt phá thai nhi
Ta còn có biện pháp gì?
Thai tiền hợp dụng duy trì dài lâu
Thuốc trợ thai nhiệm mầu công hiệu
Môn cho rằng thông hiểu chước y
Nếu như biến chứng bất kỳ
Chớ quen thường trị phải suy cho cùng
Như đau lạnh tử cung nhức nhối
Quế phụ càng bối rối can khương
Bàng quang máu chứa bất thường
Đại hoàng khỏi hốt thoát tường đào nhân
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
29.4.2020 Lu Hà
Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 54
Phương thuốc trị tâm thân ưng chịu
Chỗ đau nào mắc míu tới thai?
Xưa nay y biến kỳ tài
Thuận theo thiên ý vạn loài muôn phương
Chương thai dựng bất thường tắc nghẽn
Cứu chữa người thai nghén tận tình
Sách ghi gọi chứng: “ ám kinh“
May không nhơ uế tháng mình mang thai
Có người bảo: “cấu thai” là vậy
Nghén rồi kinh nguyệt thấy tuôn ra
Máu ra thai nghén chẳng sa
Có tên “thai lậu” gọi là huyết dư
Có người nghén năm dư ấy chớ
Thai nằm yên dễ sợ mới sinh
Bởi vì khí huyết trong mình
Gần mười tám tháng bụng phình chửa to
Thật lạ lùng đáng lo ngại lắm
Chứng “quỷ thai” thê thảm buồn thay
“Trưng hà” “bĩ khối” lắt lay
Nhớt nhau hơi huyết đọa đày như thai
Máu đầy chứa ngày dài hư thiệt
Thật kinh hoàng “súc huyết”tang thương
Than ôi! Bệnh biến khôn lường
Giống thai quái đản dị thường xiết bao
Bốn mươi chín tuổi cao thiên quý
Đã dứt đường tục lụy mang thai
Vợ chàng Tịnh Phổ là ai?
Đã hơn sáu chục tuổi ngoài thai mang
Bốn mươi chín tuổi nàng túy lúy
Mới vu quy thiên quý thông thường
Tô Khanh gái rượu phấn hồng
Mới mười hai tuổi lấy chồng có thai
Coi hai chuyện biên ngoài dấu sử
Đừng đắn đo phận sự thế thôi
Biết bao kinh nghiệm trau dồi
Liệu đường biến hiện để rồi kê đơn
Luận y học gặp cơn tai biến
Phải xét suy biểu hiện trong ngoài
Nguyên nhân động đến nội thai
An lòng thân chủ nguôi ngoai mấy bài
Tiều quả quyết trước thai chẩn mạch
Thật rõ ràng dám trách chi ai
Xưa nay nhắc nhở mãi hoài
Gái thì bên hữu tả trai đã đành
Tả di hoạt tật sanh trai đó
Gái hữu di hoạt có thấy không
Chỉ e rắc rối chất chồng
Thai đôi bụng chửa má hồng phôi phai
Coi mạch chủ hai tay sáu bộ
Môn bảo rằng ba bộ mạch đi
Máy trời tạo hóa vân vi
Âm dương hai chữ thịnh suy khác hình.
*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
30.4.2020 Lu Hà