Nguyên Lạc         CƯỠI RỒNG BÓI PHƯỢNG

Nguyên Lạc

        CƯỠI RỒNG BÓI PHƯỢNG

                                                                          ooOoo

Lời nói đầu: Xin được thưa cùng quý bạn: Các bài viết của Nguyên Lạc tôi không văn chương cao xa, không triết lý hiện đại gì cả. Các bạn có thể tìm điều đó ở các bài đầy sáng tạo của các tác giả trí thức khác. Các bài viết của tôi chỉ giành cho đa số người bình thường, sau những giờ cơ cực vì cơm áo, có chút thời giờ rãnh rỗi tìm chút ít nụ cười, quên đi nỗi mệt nhọc, rồi an giấc cho ngày sau tiếp tục công việc hàng ngày.

Nếu bài tôi viết có gì khó hiểu, nhạt nhẽo xin các bạn cho biết, tôi sẽ chỉnh sửa hoặc bỏ nó. Chủ ý là đem lại vài nụ cười, chút niềm vui cho các bạn thôi. Nguyên Lạc tôi xin từ chối những trách nhiệm ngoài chủ ý của mình. Trân trọng. NL

                                                                           …

 

Phần I: (Chuyện góp vui)

  1. CHUYỆN LIÊN QUAN TỚI RỒNG

Trong Truyện Kiều có câu:

Trai anh hùng gái thuyền quyên

Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.

(Kiều 2211 – 2212)

Bái trước Nguyên Lac tôi đã bàn về trai ANH HÙNG và gái THUYỀN QUYÊN (1), nay xin được tiếp tục bàn về CỞI RỒNG  BÓI PHƯỢNG để các bạn, nhất là các người trẻ tường.

Trước khi vàophần chính của bài, tôi xin được nói sơ qua về chữ RỒNG, tiếng Trung là LONG. Đây là chuyện tiếu, chủ ý làm cho các bạn  cảm thấy “phẻ” trước khi vào phần chánh “nghiêm nghị”, cùng với lời cẩn báo

Xin cẩn báo trước: “Đây là chuyện tiếu cấm trẻ em và xin các ông bà đạo mạo bỏ qua giùm phần I “nhảm nhí” này, hãy vào thẳng phần II. Chủ ý của tác giả chỉ muốn tặng cho các bạn một nụ cười trước khi vào phần chính.

Laughter is the best medicine ( Cười là liều thuốc vạn năng)

Mời các bạn thưởng lãm chuyện tiếu.

Trước hết xin nói thêm vài hàng: – Các ông vua ĐẠI HÁN thường tự xưng mình là RỒNG (LONG). Con RỒNG thường có vẫy ngược, ai mà đụng tới là toi đời (ba họ không còn “đầu đội mão”). Các vua nước khác, vua lân bang chỉ là thú vật, man di thôi. Coi chừng!

Chuyện rằng:

Ông X (hơi ngọng ) : – Long (Rồng) tượng trưng cho vua, những gì liên quan đến vua đều dùng

chữ Long.

Cơ thể vua : Long thể;  mặt vua : Long nhan;  xe vua : Long xa ;  giường vua ngủ : Long sàng.

“Long thể bất an / Long sàng nhúc nhích”

Từ đó mới đưa đến Long thai : cái bào thai do vua “mần” ra (đôi khi cũng có hơi lộn sòng . Ví dụ

có người bảo rằng Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi)

Ông Y :  – Vậy chớ “cái ấy” của vua gọi là gì?

Ông X : – Long cu.

Ông Y  : – Tầm bậy!  Bộ đầu óc ông có vấn đề hả?  Sao lại ghép chữ Hán (Long) vào chữ Nôm (cu)

Chúng sao kết hợp được?

Ông X : – Ông mới có “dzấn đề” đó! Sao ông lại ” nghìn trùng chia cắt ” cái chữ đầy “ấn tượng”

đó ra làm hai dzậy?  “Hán” với “Nôm”, rõ nỡm.

Hay là ông cũng hiểu nghĩa, theo phát âm cả hai chữ đó theo “nom”? Giời! Long cu là con tuấn

mã, con ngựa hung hăng của vua.  Vì “cái ấy” của vua quá dữ,  như con ngựa (không dữ sao có cả ngàn vợ ) nên mới gọi là Long cu. Thông chưa, hết “théc méc” chưa ?

Ông Y : – Minh triết, bái phục, bái phục!

……………

Tui xin “làm rõ” với quí bạn : – Vì ông X hơi ngọng nên đọc chữ CÂU thành chữ CU

Câu  駒 Tuấn mã, Ngựa hai tuổi gọi là Câu. Phàm ngựa còn non còn khoẻ đều gọi là Câu cả. Vì

thế khen các con em có tài khí hơn người gọi là “thiên lí câu” 千里駒.(Từ điển Thiều Chửu)

……………

 

Sao các bạn? Vui?

Thôi bây giờ chúng ta đi vào phần chánh. Và cũng xin thưa trước, đây là truyện trích từ sách của Nguyễn Tử Quang (có edit lại chút-NL), người bạn vong niên của tôi, cùng dạy học ở Sóc Trăng thời lâu lắm. Sách này ông đã ký tặng cho tôi.

Xin được giới thiệu thêm vài hàng về Nguyễn Tử Quang:

Người bạn vong niên (hơn tôi hơn hẳn hai  giáp) Nguyễn Tử Quang là một nhà văn, nhà bình luận (thiên cộng (?). Ông đã từng hợp tác với báo Đuốc Nhà Nam  (Trần Tuấn Quốc), phê phán chế độ hiện hành (TT Ngô Đình Diệm, TT Nguyễn Văn Thiệu). Rồi cuối cùng phải thống hối suốt đời!

Sau “giải phóng” 1975, ông được Đảng CS “ưu ái” cho ngồi làm”cây cảnh” ở chức vụ chủ tịch “Mặt trận Tổ quốc ” Sóc Trăng, ngồi chơi xơi nước.

Tôi quen với Nguyễn Tử Quang khi dạy học chung ở trường trung học tư thục Lam Sơn – Sóc Trăng, khi trường chưa bị CS chiếm lấy.  Vì mến, về văn chương, ông anh đã ký tặng tôi cuốn sách quý : “Điển Hay Tích Lạ”. Tôi  mang theo trên đường vượt thoát (bằng ghe con đi sông, sau bảy ngày lang thang trên biển) đến Bidong (Malaysia) sách lấm lem.

Nhớ có lần ông bạn đã nói, lúc tâm sự :- Tao đã lầm! Mầy hãy tìm cách đi đi, ở lại không khá đâu!. Không nhớ lời Lenin (và cả Mao) nói sao? (Lenin gọi trí thức là cứt) (2)

 

Vì là NGỤY, vì gia đình bị theo dõi và kềm kẹp của CS, một phần cũng vì lời nói của anh; tôi phải tìm đường, bất cứ phương tiện gì cũng được, dù có chết, để đào thoát.

Từ ngày đó chúng tôi mất tin tức nhau. Chắc ông anh đã chết dần mòn trong sự ưu sầu cay đắng, bên những chai rượu đế (từ mật mía) nhúng thuốc rầy. An lành cho hương hồn ông!

Văn chương và chính trị như hai gàu nước trên cái ròng rọc của giếng nước, ít khi nào cân bằng nhau: Cái này lên thì cái kia xuống, bên này trọng thì bên kia khinh.

Người làm văn chương thường “mù” về chính trị: vì không biết dối gạt; và kẻ làm chính trị thường “mù” về văn chương: vì chưa từng mở lòng. Than ôi!

Thôi bây giờ mới các bạn đi vào phần chính, phần II: CỞI RỒNG  BÓI PHƯỢNG

                                                                             …

Phần II

  1. CƯỠI RỒNG BÓI PHƯỢNG

Truyện rằng:

Đời Chu Tương Vương (651-617 trước D.L.), Tần Mục Công làm bá chủ các nước ở tây phương. Nhà vua có một người con gái, lúc mới sinh có kẻ dâng viên  đá ngọc (ngọc phác); Tần Mục Công sai thợ mài giũa thành một viên ngọc sắc biếc và đẹp lắm, dành riêng cho con.

Đến khi cô gái đầy tuổi thôi nôi, trong cung bày đồ quí giá đầy bàn; nàng nhặt ngay viên ngọc ngắm nghía mãi, Tần Mục Công mới đặt tên nàng là Lộng Ngọc.

Lớn lên, Lộng Ngọc nhan sắc đẹp tuyệt trần, tính trời thông minh. Nàng có tài thổi ống sinh hay lắm, không học ai mà thành âm điệu. Tần Mục Công sai thợ làm ống sinh bằng ngọc để cho nàng thổị. Lộng Ngọc  thổi ống sinh tiếng trong như tiếng chim phượng.

Tần Mục Công cưng lắm, lập cái lầu để cho nàng ở, đặt tên lầu là Phượng Lâu. Trước lầu có xây một đài gọi là Phượng Đài.

Năm Lộng Ngọc lên 15, Tần Mục Công muốn tìm một người rễ tốt (giai tế). Lộng Ngọc thề :- Người nào có tài thổi ống sinh họa được với Lộng Ngọc thì nàng mới chịu lấy làm chồng.

Tần Mục Công sai sứ đi tìm khắp, nhưng không có ai được như thế cả.

Một hôm, Lộng Ngọc ngồi trên lầu vén rèm ngắm cảnh đêm.  Trời quang mây tạnh, vừng trăng sáng tỏ như gương; nàng liền truyền cho thị nữ đốt một lò hương rồi đem ống sinh ra thổi. Bỗng nhiên vẳng đâu tiếng tiêu họa lại, lúc gần lúc xa.

Lộng Ngọc lấy làm lạ, dừng ống sinh lại không thổi nữa, lắng tai nghe. Nhưng giọng tiêu ấy chỉ còn dư âm văng vẳng. Lộng Ngọc ngẩn ngơ, lưỡng lự thao thức canh chầy.

Trở lại giường, đặt ống sinh ở đầu giường rồi nằm thiêm thiếp ngủ.

Hình như lúc ấy nàng bỗng thấy trên trời, về phía tây nam, cửa mở rộng, hào quang ngũ sắc rực rỡ như ban ngày; có một chàng thiếu niên, mũ lông áo bạc, cưỡi con chim phượng từ trên trời sa xuống trước Phượng Đài.  Chàng đến gần và bảo nàng:

– Ta đây là chủ núi Hoa Sơn. Ngọc Hoàng Thượng Đế cho ta kết duyên với nàng. Đến ngày Trung Thu năm nay  đôi ta sẽ gặp nhau.  Duyên số đã định sẵn như vậy.

Nói xong, chàng đưa tay rút ống ngọc tiêu bên mình, rồi đứng tựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên cũng giương cánh ra vừa hót vừa múa. Tiếng phượng hót cùng với tiếng tiêu xướng họa hòa nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất thâm trầm.

Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần vội hỏi:

– Khúc tiêu này là khúc tiêu gì?

– Đây là khúc “Hoa sơn ngâm”.

Nàng lại hỏi:

– Khúc này có học được không?

– Khi cả hai kết duyên rồi thì có gì không học được?

Đoạn chàng bước đến gần đưa tay cầm lấy tay nàng. Lộng Ngọc giật mình tỉnh dậy.

Sáng lại, nàng thuật lại điềm chiêm bao cho cha nghe. Tần Mục Công liền sai người đi tìm, theo hình dáng người trong mộng mà Lộng Ngọc tả lại.

Dò tìm đến núi Họa Sơn, có người nông phu chỉ rằng: – Từ rằm tháng bảy vừa qua, có một chàng trẻ tuổi lạ mặt đến làm nhà ở đỉnh núi, hằng ngày thường xuống chợ mua rượu uống; chiều lại thổi chơi một khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng rất thích.

Người của Tần Mục Công mừng rỡ, tìm đến thấy chàng thiếu niên mũ lông áo bạc, cốt cách thần tiên.  Vội vàng vái chào, hỏi tên họ. Chàng xưng là Tiêu Sử.

Người của nhà vua thuật lại sự tình và yêu cầu Tiêu Sử về triềụ. Sau mấy lần từ chối không được, Tiêu Sử cùng theo về triều ra mắt Tần Mục Công.

Tần Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh nhã, có vẻ bằng lòng, cho ngồi bên cạnh, hỏi:

– Ta nghe nhà ngươi có tài thổi ống tiêu, tất có tài thổi ống sinh nữa.

Tiêu Sử đáp:

– Tôi chỉ biết thổi ống tiêu, chứ không biết thổi ống sinh.

Vua bảo:

– Ta định tìm một người có tài thổi ống sinh, nay nhà ngươi chỉ biết thổi ống tiêu, vậy không thể làm rể ta được.

Đoạn bảo người đưa Tiêu Sử ra.

Lộng Ngọc nép sau rèm nghe, vội sai nội thị tâu với Tần Mục Công:

– Tiêu với sinh cũng là một loại, người ta có tài thổi ống tiêu thì sao không bảo dạo chơi một khúc, để cho người ta được phô tài.

Tần Mục Công lấy làm phải, truyền Tiêu Sử thổi tiêu cho nghe.

Tiêu Sử mới thổi qua một khúc thì thấy có gió mát hây hẩy. Đến khúc thứ nhì thì mây che bốn mặt. Đến khúc thứ ba thì có đôi bạch hạc múa lượn trên không;  đồng thời có đôi khổng tước bay đến, rồi các giống chim đua nhau kêu hót…, một lúc mới tan.

Thiệt là:

Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa  (Kiều 481 – 484)

 

Tần Mục Công rất lấy làm bằng lòng. Lộng Ngọc đứng bên rèm trông thấy mọi việc, vui tự nghĩ :”Người ấy thật xứng đáng làm chồng ta!”

Đúng là:

Hoa hương càng tỏ thức hồng,

Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu  (Kiều 497 – 498)

 

Tần Mục Công lại hỏi Tiêu Sử:

– Nhà ngươi có biết ống sinh và ống tiêu có từ đời nào không?

Tiêu Sử thưa:

– Ống sinh làm ra từ đời Nữ Oa, ống tiêu làm ra từ đời Phục Hi.

Tần Mục Công bảo kể rõ nguyên ủỵ. Tiêu Sử nói:

– Nghề tôi vốn ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguồn gốc ống tiêu.

Ngày xưa vua Phục Hi ghép ống trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng. Tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn ghép liền 23 ống, dài 1 thước 4 tấc gọi là Nhã Tiêu (1 thước xưa khoảng 3-4 tấc thời nay – NL); thứ nhỏ ghép liền 16 ống, dài 2 thước 1 tấc gọi là Tụng Tiêu. Cả hai thứ gọi chung là Tiêu Quản. Còn một thứ không đáy gọi là Đổng Tiêu.

Về sau vua Huỳnh Đế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê chế làm ống địch, ống này có 7 lỗ, cầm ngang mà thổi, tiếng cũng giống chim phượng, trông rất giản tiện. Người đời sau thấy ống Tiêu Quản phiền phức quá nên chỉ dùng ống địch. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch. Bởi vậy, ống tiêu ngày nay không giống ống tiêu ngày xưa.

Tần Mục Công lại hỏi:

– Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có các giống chim bay đến?

Tiêu Sử thưa:

– Ống tiêu dẫu mỗi đời mỗi khác nhưng tiếng thổi bao giờ cũng  giống tiếng chim phượng. Chim phượng là chúa các  giống chim, vậy khi nghe tiếng chim phượng tất nhiên các giống chim đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc nhạc  “tiêu thiều” mà chim phượng còn bay đến, huống chi là các giống chim khác.

Tiêu Sử ứng đối lưu loát. Tần Mục Công rất lấy làm bằng lòng, sai quan Thái Sử chọn ngày để làm lễ thành hôn. Tiêu Sử kết hôn cùng Lộng Ngọc, được phong làm Trung Đại Phu.

Tuy làm quan nhưng Tiêu Sử không dự gì đến quyền chính, ngày ngày vui chơi ở Phượng Lâụ.  Lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu. Lộng Ngọc học được phép tiên của chồng cũng không ăn cơm. Tiêu Sử  dạy vợ thổi tiêu.

Ở nhau được non nửa năm, nhân một đêm trăng sáng vằng vặc, vợ chồng đem tiêu ra thổi. Bỗng thấy một con phượng xuống đậu bên tả và một con rồng xuống phủ phục bên hữu, Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc:

– Ta vốn là tiên ở thượng giới, Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy sử sách trần gian nhiều chỗ tán loạn  nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu ở nhà Chu để san định lại. Người nhà Chu thấy ta có công về việc sử sách mới gọi ta là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng cho ta làm chủ ở núi Hoa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên nhau, nhờ khúc ngọc tiêu mà được cùng nhau tác hợp, nhưng cũng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng và phượng đã đến đón, vậy chúng ta cùng nhau đi.

Lộng Ngọc định vào từ biệt cha. Tiêu Sử ngăn:

– Không nên! Đã là thần tiên thì chớ nên vì chút tình riêng mà quyến luyến.

Đoạn Tiêu Sử cưỡi rồng, Lộng Ngọc cưỡi phượng cùng bay lên trời.

                                                                   ***

Trong “Đoạn trường tân thanh” (Kiều ) của cụ Nguyễn Du, lúc Từ Hải cùng Kiều gặp gỡ, có câu:

Trai anh hùng, gái thuyền quyên,

Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. (Kiều 2211 – 2212)

“Đẹp duyên cưỡi rồng” là do điển tích trên.

“Bói phượng” có nghĩa là kén được chồng tốt.

                                                                       ***

Sách Tả Truyện có chép:

Trần Trọng Kính sang nước Tề, được vua nước này cho coi việc công chính. Quan Đại Phu nước Tề có ý muốn gả con gái cho Trọng Kính. Người vợ liền bói một quẻ, bảo rất nên. Vì quẻ bói nói:

Phượng hoàng vu phi, hòa minh tương tương”:  Nghĩa là phượng hoàng cùng bay, cùng hót vang vang.

Phượng là tên một giống chim. Theo sách cổ, đó là một trong 4 con thú linh thiêng: Long, Lân, Qui, Phượng, đem lại điềm lành.  Chỉ khi nào có đời thái bình hay thánh nhân ra đời thì mới xuất hiện.

Phượng là chúa loài chim: Con trống là phượng, con mái là hoàng (loan). Loan là một giống chim cùng loại với phượng hoàng. Vì là đồng loại nên người ta hay dùng để ví với vợ chồng.

Ca dao có câu:

Ước gì anh được vô phòng,

Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan.

“Bói phượng”, “Cưỡi rồng” đều cũng có nghĩa là kén được chồng xứng đáng.

(Điển hay tích lạ – Nguyễn Tử Quang)

Xin tạm ngừng ở đây, hẹn gặp các bạn những bài khác.

 

Nguyên Lạc      

                                                                                               (Bài tiếp: Phượng cầu hoàng)

—————————————————————————————————————

Nguồn:  Nguyễn Tử Quang, Yahoo, Google, FB

(1) TRAI ANH HÙNG GÁI THUYỀN QUYÊN – Nguyên Lạc

https://nghiathuc.wordpress.com/2017/09/28/nguyen-lac-trai-anh-hung-gai-thuyen-quyen/

(2) Lenin gọi trí thức là cứt. Trong thư gửi Maxim Gorky ngày 15/9/1919, Lenin viết: “Các lực lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức – đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng mình là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt.” [Trích từ V.I. Lenin, Thư gửi A.M. Gorky ngày 15/9/1919, Toàn tập, Tái bản lần thứ 5, NXB Văn học Chính trị, 1978, tập 51, trang 48-49] (theo Nguyễn Đình Đăng)

Bình luận về bài viết này