Tưởng nhớ anh Lê Vĩnh Thiều – Nguyễn Văn Quảng Ngãi

Ngày Xuân Nhớ Bạn

Tưởng nhớ anh Lê Vĩnh Thiều

LE VINH THIEU

*******

 

Bài Thơ Không Tên

Mười sáu năm đời vẫn gió mưa tuôn

Mà tình sử vẫn thơm mùi tóc lạ

Ta dìu em dưới khung trời nghiêng ngả

Lá mai non run suốt cuộc hành trình

Gió nồm quê ta thôi hết thơm mùi muối mặn

Kể từ khi sông núi lạ lùng nhau

Dãy Trường Sơn mây trắng chít ngang đầu

Ngoảnh nhìn lại lâu đài xưa đổ vỡ

Bao nhiêu giận hờn và bao nhiêu thương nhớ

Loạn sử không ghi, kinh sách cũng không đề

Mười sáu năm theo với gió nồm về

Bàn tay trắng mộng ngày xưa nở trắng

Lê Vĩnh Thiều

 

Những câu trên thơ trên đây trích từ  “Bài Thơ Không Tên” của anh Lê Vĩnh Thiều, một nhà giáo, một nhà thơ, một cựu tù nhân, một người bạn chân tình, … đã nằm xuống sau những tháng năm dài cùng khổ trong các trại cải tạo và những bi lụy của cuộc đời. Mấy năm trước, sau khi các Đặc San của Hội Đồng Hương và Thân Hữu Quảng Ngãi tại Nam và Bắc Cali cho đăng “Bài Thơ Không Tên”, tôi nhận được hai tâm tình từ hai phương trời xa thẳm gởi về:

@ Anh Trần Hữu Lễ từ Thụy Sĩ đã gởi thư tâm sự với tôi:

 

… Quả thật là một trời để thương, để nhớ … Buồn lắm khi được biết anh Lê Vĩnh Thiều đã quá cố và “lá mai non” đã bay xa tới Sài Gòn. Cuộc đời anh Thiều dằn co giữa một nghệ sĩ tính và một hoài bão dở dang …

 

@ Chị Đào Túy Hằng từ Pháp đã điện thọai cho tôi:

… Thật bất ngờ và cũng thật buồn khi biết tin thầy Thiều đã mất. Kỷ niệm cuả em đối với hai vợ chồng “Thiều Oanh” có rất nhiều ngay từ lúc mối tình của họ vừa chớm nở … Vẫn biết vật đổi sao dời là chuyện thường tình trong cuộc đời nhưng khi nghe tin em vẫn thấy cay đắng và ngậm ngùi …

Bài thơ thật xuất sắc về cả hai phương diện kỹ thuật lẫn nội dung và có thể được xem như là một trong những bài thơ tình dang dở đáng ghi nhớ: Không than trách, không ủy mị nhưng trọn vẹn chua xót, đầy đủ đắng cay. Cái tài hoa cuả anh Thiều là ở chỗ đó. Và tấm lòng hiền hoà, bao dung nhưng tha thiết cuả anh Thiều cũng là ở chỗ đó!

Những dòng tâm tình sau đây được ghi lại để tưởng nhớ anh Lê Vĩnh Thiều xuyên qua những năm tháng dài trong tình bằng hữu cuả hai chúng tôi ngoài đời, cũng như ở trong tù.

Tỉnh Quảng Ngãi bị cưỡng chiếm đêm 24 rạng ngày 25 tháng 3 năm 1975. Thấm thoát đã hon 30 năm và đằng đẵng cũng đã hơn 30 năm ! Ngồi đây, viết những dòng nầy, nhắm mắt lại tôi tưởng chừng như mới ngày hôm qua. Bởi vì một vết thương, dù đã thành sẹo, vẫn làm cho ta nhức buốt khi gặp trái gío, trở trời. Sau đó anh em lần lượt kẻ trước, người sau bị công an (lúc đó còn gọi là an ninh) đến nhà còng tay nhốt vào nhà lao Quảng Ngãi.  Rồi lần lượt bị đày đi các trại Hành Tín, Kim Sơn, Gia Trung hoặc ra Bắc.

Anh Lê Vĩnh Thiều và tôi bị đưa lên trại Hành Tín thuộc quận Nghĩa Hành. Thời gian ngắn ở đây đã ghi lại trong chúng tôi những kỷ niệm đẹp khó quên trong kiếp tù ngục. Một số anh em – qúi anh Lê Vĩnh Thiều, Trần Anh Lan, Nguyễn văn Minh (Mê Kung, Phan Nhự Thức), Trân Hữu Huy (Vương Thanh) và tôi – thường cùng nhau đọc lại các tác phẩm Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm v.v. Tuy trí nhớ đã bị quá nhiều mai một, nhưng kẻ nọ bổ túc cho người kia, nên chúng tôi đã ôn lại được rất nhiều phần chính của những tác phẩm văn học qúi giá nầỵ

Ngoài ra chúng tôi cũng cùng nhau đọc lại kịch thơ “Người Điên” cuả Hoàng Cầm. Theo tôi thì cho tới ngày nay vẫn chưa có tác giả nào vượt qua được Hoàng Cầm trong lãnh vực văn học nầy. Nhiều đoạn trong “Người Điên” rất thích hợp với hoàn cảnh đất nước và tâm trạng cuả anh em tù nhân chúng tôi lúc đó. Thử nhớ lại một vài đoạn (chắc chắn không đúng trọn vẹn):

…Nhà ta đâu con sông dài trắng xóa ?

Nằm im hơi bóng đẹp chửa quay về

Nhà ta đâu dãy Trường Sơn cao cả ?

Nằm nghe mưa trùng điệp khúc tiêu tao

Nhà ta đâu này giang sơn tàn tạ ?

Gío xoay chiều rớm lệ ánh trăng sao !

Nhà không có vì giang sơn tàn tạ

Gió xoay chiều cụ hát đến là hay !

Cụ già ơi! Ai xuôi cụ thành say ?

Lão say quá nhưng không say vì rượu

Lão mới uống có trăm vò mỹ tửu

Lão chưa say và cô cũng không điên

Lão chưa say lão mới uống có vài bình

Mang vò nữa. Lão chưa say chủ quán

Trong cuộc đi khi rượu ngon đã cạn

Mà chưa say là lão giết nhà ngươi

Ôi những vần thơ đẹp làm sao! Ôi những tâm tình đắng cay chua xót trước cảnh quốc phá gia vong! Ôi ngất ngưỡng! Ôi ngang tàng!

Anh Thiều có một trí nhớ đặc biệt về thi ca. Anh thấy cái hay cuả một câu thơ rất nhanh. Anh ghi nhận cái đẹp cuả một đoạn văn rất chí lý. Nhiều đêm nằm bất ngờ chợt nhớ lại một đọan, hoặc những hôm đi lao động mệt phờ người nhưng bỗng moi trí ra được đôi câu là lập tức nhắc lại cho từng người. Tôi còn nhớ rất rõ, một hôm trời đã sập tối, anh em phần lớn đã vào phòng chờ công an đến đếm số và đóng cửa, từ phòng mình anh Thiều chạy vội qua phòng tôi, vẫy tôi ra để nhắc lại vài đoạn :

Ta chờ chàng cạn sông và lỡ núi

Mưi năm qua bao giận hờn buồn tủi

Nước mắt nầy gấp mấy sóng Châu Giang

Thương nàng công chúa nằm không

Đợi một tấm chồng đập nát lầu son

Dựng hai gò má cô đơn

Thành hai trái núi mưa hờn quanh năm

Vòng nầy là vật kết duyên

Mười năm chuốt lấy ưu phiền trên tay

Mặt trời đã khuất sau núi đồi. Vài tia nắng còn sót lại chiếu vào những dãy nhà giam lợp tranh buồn ảm đạm. Tôi bắt gặp đôi mắt anh Thiều xa vắng, u ám, mênh mông rồi siết chặt tay anh và vào lại phòng giam.

Tưởng cũng cần ghi lại ở đây là là những đoạn thơ vừa bi thương, vừa hùng tráng đó đã làm thích thú các bạn tù trẻ trong trại nên – nhiều hôm – ở trong toán đốn cây, sau khi gạt được chú công an quản chế ở lại dưới chân núi, các bạn cùng tôi leo tuốt lên đỉnh và tha hồ hưởng trọn một ngày “lao động quang vinh quang” thỏa thích : bụng no nhờ nhiều loại rau rừng, đọc cho các bạn nghe những vần thơ đắc ý, tắm nước suối trong mát lạnh, chia xẽ cho nhau những tâm tình riêng tư, những “tin tức thời sự nóng bỏng” …

Sau đó anh Thiều và tôi bị di chuyễn vào trại Kim Sơn thuộc tỉnh Bình Định rồi cùng lại gặp nhau ở bộ phận làm gạch ngói. Anh Thiều và tôi cùng ở chung trong tổ chụm lò một thời gian khá lâu. Công việc cuả tổ chụm lò không giống như những bộ phận lao động khác. Ban đêm, ngày lễ hoặc Chủ Nhật nếu đang có lò nung thì chúng tôi vẫn phải làm việc, còn những ngày thường, khi các anh em khác đi lao động thì chúng tôi được nghỉ bù. Vì làm chung một “ca” nên chúng tôi có nhiều thì giờ và hoàn cảnh thuận lợi để tâm sự với nhau, để chia xẽ cho nhau về rất nhiều lãnh vực, mà trước 1975, dù đã khá thâm giao, vẫn chưa được san sẻ.

Anh Thiều đã kể cho tôi nghe thật đầy đủ về hai cuộc tình lớn đã đi qua trong đời anh. Từ lần lập gia đình ban đầu với chị Hoàng, cô thôn nữ phảng phất trong câu ca dao :

 

Con chim Phượng Hoàng bay ngang lều chợ

Anh cưới mình về làm vợ nên chăng ?

 

Làm ta nao nao nhớ đến chợ Long Phụng quận Mộ Đức cuả một thuở thanh bình xa xưa với trai thanh, gái lịch, phong cảnh hữu tình.

Đến mối tình sôi nổi, cháy bỏng với cô nữ sinh trẻ, xinh đẹp, lãng mạn :

 

Em đi sáng thứ sáu

Anh nhớ chiều thứ năm

đã có những năm sống trọn vẹn cho nhau đúng như ý nghĩa cuả “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”, bất chấp mọi tiếng thị phi cuả bà con, thân hữu và sau nầy đã mang đến cho anh nhiều bi lụy.

Đặc biệt – vô cùng đặc biệt – là chúng tôi có nhiều dịp thưởng thức Trà – Rượu – Thơ .

Trà thì trại tù nào cũng được nhận. Tội nghiệp anh Thiều nghiện trà đến độ đặc biệt. Gặp những đêm hè trăng sáng mà được một ít trà ngon là phiên trực nửa đêm về sáng cuả chúng tôi thú vị đến vô cùng. Sau khi bẩy, lăn những khúc củi to bằng thân mình vào đầy các cửa lò mệt đến ngút hơi, lưng đau đến như đứng dậy không nỗi, là chúng tôi có được độ nửa giờ thoải mái.

Đun một “gô” nước thật sôi đem ra khoảng trống bên cạnh lò, bỏ trà vào rồi ngồi uống dưới trăng nói chuyện văn thơ quả là một kỳ thú! Vẫn biết vào giờ đó các chú công an trong trại chính đã hết đi tuần và hai cậu công an quản giáo, quản chế lò gạch đang ngủ say nhưng chúng tôi vẫn cẩn thận: mỗi đứa ngồi nhìn mỗi hướng để canh chừng. Nhờ gia đình tiếp tế và nhờ anh em thương mến gởi cho khi họ được thăm nuôi (vì ai cũng biết anh quá nghiện trà) nên, ngày qua tháng lại, đắp đổi anh Thiều vẫn có trà để uống. Gặp khi thiếu hẳn, anh có hai cách giải quyết. Hoặc là những xác trà đã uống lần thứ nhất anh đem phơi khô giờ đem ra rang giòn, giã nhỏ rồi nấu uống. Hoặc là tuy phần cơm “tiêu chuẩn” mỗi bữa vốn đã quá ít nhưng anh vẫn để dành một muổng nhỏ đem phơi khô, sau nhiều ngày dồn chung lại, rồi rang đến cháy đen, giã thành bột, bỏ vào nước sôi để uống thay trà.

Cho mãi đến ngày nay tôi vẫn còn nhớ rõ cách anh Thiều thưởng thức trà ngon trong tù: Ngồi xếp bằng trên một đòn gỗ (anh em toán mộc đóng cho), mở nắp “gô” trà ra, rót một chén nhỏ rồi cẩn thận đậy nắp lại. Đưa chén trà lên gần mũi, ngữi một hơi mạnh, ngắn, khịt khịt rồi chầm chậm uống hết sạch chén trà, thích chí chắp chắp gật đầu khoái trá. Trong hoàn cảnh thiếu thốn cuả trại tù nên ta không bắt gặp cái cầu kỳ, kiểu cách cuả Nguyễn Tuân nhưng lại được gần gũi với lối uống chè Huế mà Võ Phiến đã chi tiết diễn tả. Người nông dân miền Trung mỗi sáng uống một bát chè Huế thật đậm rồi mới ra đồng cày, cuốc và hễ có điểm tâm như vậy là khỏi cần ăn. Trong tù, sau bốn giờ lao động buổi sáng mệt và đói đến lã người nhưng nếu có được một “gô” trà ngon, anh Thiều đem ra chỗ vắng ngồi uống một mình là có thể tiếp tục lao động buổi chiều, để dành phần “cơm, củ tiêu chuẩn” cho buổi tối …

Tuy nội quy cấm ngặt nhưng thỉnh thoảng, bằng cách nầy hay cách khác, chúng tôi vẫn có rượu để uống :

Vẫn giữ mình được thong dong

Giấy tuy có rách vẫn không nát lề

Nội qui trói buộc mọi bề

Ngư Tự Do vẫn không hề băn khoăn

Vẫn trà, vẫn rượu dưới trăng

Vui buồn vẫn dệt những vần đầy vơi

(Nguyễn Văn Quảng Ngãi – Xuân Canh Thân 1980)

Trong tù mà uống trà, uống rượu, ngâm thơ dưới trăng quả là chuyện khó tin. Hoặc giả có người sẽ bảo rằng ở tù như vậy thì sung sướng hơn ngoài đời nhiều lắm. Thật vậy, làm sao mà tin được tại bộ phận lò gạch cuả trại giam Kim Sơn, tỉnh Nghĩa Bình – một bộ phận với những thường xuyên rình rập, theo dõi, tố cáo lẫn nhau, với những đêm dài phê bình, kiểm điểm đến ghê óc, rợn người – một bộ phận mà sự kiềm chế, kiểm soát cuả các cậu quản giáo, quản chế đến độ cực kỳ khắc nghiệt theo đúng tuyền thống “cộng sản liên khu 5” … mà chúng tôi vẫn được thong dong như vậy? Chuyện khó tin đôi khi vẫn có thực trong cuộc sống !

Một kỉ niệm nhỏ nhưng khó quên là một hôm cháu Lê Vinh Mạc Vũ, con trai anh Thiều, vào Lò gạch thăm anh đã khiến tôi thuc sự cảm động suốt mấy ngày liền. Nhìn cháu bé độ 10 tuổi gầy yếu, xanh xao, quãy gánh vào trại tù thăm cha sau khi vượt hàng ngàn dặm (từ Long Phụng, Mộ Đuc đến Kim Sơn) rồi lầm lũi ra về lúc thung lũng Kim Sơn đã bắt đầu thấm lạnh vi gío núi và sương chiều ai mà chẳng xót xa! Tôi có làm mấy đọan thơ, nay cố nhớ lại nhưng không được trọn vẹn:

… Cháu Mạc Vũ khi chiều vào thăm Bố

Trời cuối thu thung lũng lạnh gây gây

Trong khung cửa ngục tù loang nắng đổ

Tôi lặng yên nhìn vóc cháu xanh, gầy

 

Mới 10 tuổi cháu đã nhiều gian khổ

Cha ngục tù, Mẹ vỗ cánh bay xa

Về lại quê cháu môi côi, mồ cút

Bà con thương đùm bọc tháng ngày qua

 

Giờ thăm hết, quà cho Bố đã nhận

Cháu ra về quãy gánh nhẹ buồn hiu

Đôi chân chim khuất dần trong truông vắng

Lạnh trong tôi – Lạnh thấm cả sương chiều

 

Chợt thức giấc buồng giam im lặng qúa

Nhìn qua song trăng vàng khắp núi đồi

Rồi nhớ đến những chân chim gầy yếu

Cảm ơn đời cho muối mặn trong tôi!

Một hình ảnh “thảm thương” của anh Thiều, (và cũng là của tất cả anh chị em Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam) không thể không nhắc tới, là một dạo tại trại tù Kim Sơn, chúng tôi, phụ vào một chén cơm lưng cho mỗi bửa trưa và tối, được phát thêm 1 chén bắp khô nấu chín. Vì bắp phơi khô đã để qúa lâu trong kho, và bộ phận nhà bếp không có thì giờ ngâm kỹ trước khi nấu, nên bắp vừa nhạt nhẽo, lại quá cứng nên rất khó ăn. Mỗi chiều, sau một ngày lao động, anh Thiều đã gom phần bắp của mình và của các anh em không ăn được, rồi bỏ vào cái cối nhỏ ngồi một mình ở một góc phòng, với than hình ốm yếu, còm cõi, cặm cụi, kiên nhẫn dã bắp cho mềm nhuyễn để ăn cho bớt đói! Khó mà tìm được một nghệ sĩ (họa sĩ, thi sĩ, văn sĩ) diễn tả cho trọn vẹn được cảnh bi thương, chua xót tột cùng  nầy!

Những bằng hữu, những bạn thơ, bạn văn cuả anh Thiều đều ghi nhận là anh có kiến thức về Hán văn rất rộng, anh làm thơ không nhiều nhưng rất hay về cả kỷ thuật lẫn ý tưởng và ngồi uống trà, nói chuyện thơ văn với anh là điều thú vị vô cùng! Những học sinh cũ cuả anh (có người đã vào tuổi cỗ lai hy) đều công nhận là anh thuộc rất nhiều thơ, văn, anh giảng bài (nhất là giảng Kiều) rất hấp dẫn, pha trò rất thi vị, duyên dáng …

Về các văn nghệ sĩ, anh Thiều thường nhắc đến ba người:

Một là nhà thơ Tạ Ký, cựu Giáo sư trường Trung học Petrus Ký, nhà thơ được giải thưởng văn học toàn quốc về bộ môn thơ qua thi phẩm “Sầu Ở Lại”. Tạ Ký và anh Thiều là đôi bạn thân từ thi còn là học sinh Trung học và tình bạn cuả họ liên tục, lâu bền mãi đến 1975. Anh đọc cho tôi nghe nhiều thơ cuả Tạ Ký, nhất là những bài không có trong “Sầu Ở Lại”: Quả đúng là những vần thơ đẹp cuả văn học nước nhà .

Hai là nhà thơ Bùi Giáng. Ca ngợi Bùi Giáng là chuyện thừa nên anh chỉ nhắc lại nhiều kỷ niệm cuả hai người nhất là thời gian họ cùng ở Sài Gòn sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước 1954. Lúc chúng tôi tại bộ phận lò gạch (1979) thì có tin bên ngòai (hoàn toàn thất thiệt) đưa vào cho biết Bùi Giáng đã qua đời tại Sài Gòn nên anh Thiều có làm bài thơ khóc Bùi Giáng với lời và ý rất xuất sắc và man mác kỉ niệm giữa hai người:

Chúng mình là hai giọt lệ

Rơi lăn lóc từ trên thềm Ngọc Đế

Ba là nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Anh ca ngợi Doãn Quốc Sỹ hết lời. Theo anh thì Doãn Quốc Sỹ là nhà văn duy nhất ở miền Nam có tư tưởng, có lập trưng Quốc gia Dân tộc vững chắc, và có tư cách đức độ.  Chúng tôi cũng ôn lại nội dung một số tác phẩm cuả họ Doãn :  Chờ Sáng, Trái Cây Đau Khổ, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều, Gìn Vàng Giữ Ngọc, Khu Rừng Lau … Năm 1996, trong những đêm tâm sự với anh Doãn Quốc Sỹ tại Wichita – Kansas, tôi có nhắc lại chuyện nầy và anh Sỹ rất cảm động .

Năm 1982 anh Thiều được phóng thích và vài tháng sau đó tôi bị đày lên trại giam Nước Nhóc – K18. Xa nhau từ đó và rồi anh đã vĩnh viễn ra đi. Vì kiệt lực sau những năm tháng dài cùng khổ! Và vì quá nhiều đắng cay bởi những bi lụy cuả cuộc đời!

Anh Thiều thân mến:

Tôi viết những dòng tưởng nhớ nầy vào những ngày cuối năm tại một Tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ. Anh đã nằm yên dưới lòng đất Mẹ. Và hàng ngàn, hàng vạn anh em khác nữa cũng đã vĩnh viễn ra đi sau ngày 40 tháng 4 năm 1975.

Từ chốn xa xăm nầy tôi xin đốt nén hương lòng vọng về anh, về tất cả qúi anh.

Xin nguyện cầu linh hồn qúi anh được mãi mãi bình an ở cõi vĩnh hằng.

Xin nguyện cầu cho một ngày mai thật sự an lành trên quê Mẹ Việt Nam.

Xin nguyện cầu cho đồng bào Việt Nam sớm được thực sự sống trong

TỰ DO, DÂN CHỦ, ẤM NO, HẠNH PHÚC

 

Nguyễn Văn Quảng Ngãi

Bình luận về bài viết này