Bán con – truyện ngắn Nguyễn Liệu

Bán con 

truyện ngắn

Nguyễn Liệu

Viết tặng C.Q. chuyện có thật theo lời kể sơ lược.

“Dì cho con thêm hai chỉ nữa đi. Con nuôi nó con còn nợ đó dì”. Em nhỏng nhẽo với tôi như con gái tôi vậy. Tôi trả lời : “Được rồi, tôi đưa thêm cho cô một chỉ nữa, vị chi là 5 chỉ đặt cọc trước, mà cô nhớ ưu tiên một là tôi đấy nhé, nếu là con trai tôi cho cô thêm hai chỉ nữa. Cái gì tôi nói một là một hai là hai, tôi không như người ta buôn bán ngược ngạo. Đây là làm ơn làm phước cho đứa nhỏ mà thôi.”. Em cầm khoăn vàng một chỉ cột vào đầu dây lưng quần. Tôi bồng đứa bé hai tháng lót trong chiếc khăn lông phai màu. Đứa bé gái mắt nhắm nghiền như ngủ,  miệng nhai nhai núm vú giả bằng cao su. Chào em. Tôi bước ra chiếc xi lô chờ trước cổng để ra bến xe về Nha trang. Em im lặng, mặt đỏ bừng, cắn mạnh xuống môi dưới, nhìn người đàn bà bế đứa bé ra xe. Khép cửa ra vào, em ngả mạnh xuống giường, kéo chăn trùm kín đầu….

Năm ấy năm bảy tư, năm lộn xộn. Em chưa đúng mười lăm tuổi đang học lớp chót trường làng. Quê em thôn Trà Liên ở miệt rừng Trà Bồng. Quê nghèo. Học trò lớp em, lớp lớn nhất, chừng ba chục đứa. Em là con gái nhưng lại ưa ngồi bàn dưới cùng để dễ nói chuyện, dễ coi bi khi thi, và vì em lớn xác quá. Em biết em đẹp, mẹ em dì em thường nói như vậy. Mẹ em bảo con này chắc sẽ có chồng sang. Em lớn như thổi, dì em nói em nhổ giò nhổ cẳng sớm quá chắc mau có chồng. Dì Út em rất đẹp, đã hai đời chồng mà chưa yên. Mẹ em bảo tại số dì, vì dì có tính lẳng lơ nên hai đời chồng trước đã li dị. Mẹ em thường la em con gái phải có ý tứ đừng thấy ai cũng cười như người nhà, và đừng mặc áo chật quá căng ngực lồ lộ vô duyên lắm.

Gần nửa năm học ông thầy Khuê về hưu, thầy Đức còn trẻ thế thầy lớp em. Thầy Đức người Đà nẳng Quảng Nam rất nghiêm khắc, không dễ chịu như thầy Khuê, cho nên bọn em lại tiếc không còn học thầy Khuê như mấy tháng trước. Thầy ít nói, chưa bao giờ thấy thầy cười nên lớp học im phăng phắc con ruồi bay cũng nghe. Em không đùa dỡn quấy huậy như khi còn thầy giáo già bọn em xem như ông như cha. Thầy Đức không đẹp trai nhưng người cao to khỏe mạnh. Tóc húi thật ngắn lúc nào cũng như mới hớt, cổ thầy to bằng đầu, hai cánh tay thầy vặm vỡ. Thầy thường mặc quần sọt áo chemise cụt tay hình như hơi chật vì bộ ngực nở nang của thầy. Em lớn xác nhưng học tệ lắm gần đội sổ trong lớp,  nếu không có bọn nó cho em coi bài thì em đành nộp giấy trắng. Mấy lần thầy già Khuê định đưa em xuống lớp,  nhưng nghĩ sao thầy lại thôi.

Một hôm thầy cho bài tập em không làm được, bọn bạn sợ quá không dám đưa cho chép, nên em đành ngồi khoanh tay nhìn lên bảng. Cả lớp đang lúi húi làm bài, em ngang nhiên nhìn thầy. Thầy cũng nhìn em, nhưng bắt gặp em thầy vội nhìn ra ngoài cửa sổ. Em lại nhìn thầy. Khi bốn con mắt nhìn nhau thầy liền nhìn đi nơi khác, và mĩm cười. Lần đầu tiên em thấy thầy mĩm cười. Em ngạc nhiên vì em vòng tay không làm bài trong lúc bạn em chăm chú làm bài mà thầy không la em. Bởi vậy em cứ khoanh tay nhìn thầy em lại thấy vui vui và hình như em mĩm cười trong khi bốn mắt chộ gặp nhau. Tự nhiên em cà chớn, hết sợ thầy.

Tối tối em thường ngủ cùng giường với mẹ, về khuya ngủ mê nhiều khi em ôm mẹ sờ ngực mẹ bị mẹ đánh mạnh vào tay em mới tỉnh ngủ. Mẹ em bảo em lớn rồi, có chồng chê già rồi, mà còn men vú mẹ. Nhưng không hiểu sao hình ảnh thầy Đức lại ám ảnh em. Em cảm thấy kỳ kỳ, xua đuổi hình ảnh thầy nhìn em, nhưng càng xua đuổi thì thầy hiện rõ quá. Mẹ em bảo sao độ này thấy em như bị ma quỉ gì hớp hồn, như lửng lửng lơ lơ, cầm cái gì quên cái đó. Bạn em tới lớp đứa nào cũng lo lắng làm bài, đứa nào cũng ngai ngái lo sợ, vì lớp cuối, sợ không lên được trung học. Riêng em tỉnh bơ, vì dù có được lên trung học, mẹ em cũng không đủ sức cho em theo học. Mẹ thường nói con gái học như vậy là nhiều rồi, học nhiều sinh hư chứ có ích gì. Hồi ông ngoại không cho mẹ đi học bảo ở nhà lo heo lo gà, lo cấy lúa làm cỏ lúa, và đi chợ lo nấu ăn, tức lo nội trợ. Công dung ngôn hạnh, bốn thứ đó cho tròn là người đàn bà giỏi rồi, bày đi học để đọc tiểu thuyết, để theo trai, làm hư đốn gia phong chứ có ích gì. Cũng vì dì Út đi học, đọc tiểu thuyết, viết thơ cho trai, nên gần ba mươi như thiên hạ có phước có đủ trai gái đề huề, nhưng dì vẫn lụp chụp chưa có cái gì ra cái gì. Mẹ thường phàn nàn lo lắng như vậy. Hình như mẹ nói đến dì Út là lo sợ cho em. Có lúc mẹ bảo em giống dì, cũng có nhan sắc lúc nào cũng vui cười như ngày hội ngày Tết, đó là điều bất hạnh. Những điều mẹ thường thở ra lo lắng, nhưng em thấy mẹ quá lo xa, vì dì là dì, em là em, sao dì là em. 

Nói vậy nhưng em thương dì Út như thương người chị, vì lúc nào dì cũng cưng em. Mỗi lần mẹ la em, là lập tức binh em,  dì đứng về phe em. Có lúc dì nói thẳng mẹ em đừng bắt em phải sống cảnh ăn tro mò trấu, lúc nào cũng lo con gà con heo, lúc nào cũng mong làm đầy tớ cho chồng cho cha mẹ và đàn em chồng hay sao, lúc nào cũng phải ăn cơm thừa canh cặn ở xó nhà bếp mới là người đàn bà gương mẫu hay sao. Tuy mới mười tuổi nhưng em hiểu điều dì thường cãi với mẹ về em, về dì. Sự thực em thương dì, và cũng từ đó em không ngủ với mẹ nữa em ngủ với dì để dì kể cho em nghe những chuyện trong sách. Em quên hết,  chỉ nhớ mài mại chuyện cô Mai trong Nửa chừng Xuân. Có khi dì vừa kể vừa khóc, em lấy làm lạ sao dì lại khóc,  tuy cô Mai trong truyện không còn giàu sang, nhưng hơn dì và mẹ em nhiều. Cô Mai có người em học giỏi, có chồng sắp cưới, có nhà để bán, mà tại sao dì lại khóc. Dì bảo rồi lớn lên em mới hiểu sao dì lại khóc. Dì bảo tại cô Mai đẹp nên số cô khổ. Em hỏi dì,  vậy đẹp như dì có khổ không, mẹ bảo em cũng đẹp như dì, vậy em có khổ không. Dì tát nhẹ vào má em, rồi ôm chặt người em hôn tới tấp trên mặt em đến ngợp thở.

Không như mẹ em, dì ngủ hay quẫy cựa, hay rên, hay nói lảm nhảm. Nhiều lúc nửa khuya thớ mớ ngủ, em nghe dì ú ớ em sợ. Trong lúc ngủ say dì thường luồn bàn tay nhè nhẹ vào ngực em, những đầu ngón tay mân mê rờn rợn trên đầu vú những lần đầu nhột nhạt em thấy khó chịu, nhưng quen dần em thấy thích thích. Em co thót giật mình trở người rên nhè nhẹ, giản nở khoan khoái. Mắt em nhắm kín như sợ ánh sáng chiếu vào, bàn tay dì phớt nhẹ lướt nơi dưới ngực em, xuống nữa xuống nữa, em chịu hết nổi rên khe khẻ. Em như quằn quạy trở ngữa người, một ngón tay đâm thẳng vào đau nhói tê mê, em hất mạnh tay dì, ồ không phải, không phải dì, em liền vụt ngồi dậy, một cảnh kinh hoàng sát cạnh em. Một người đàn ông trần truồng đang đè dì ép dì sát mặt giường thở hổn hển, dì uất nghẹn ú ớ. Tấm đắp vải trắng toát nửa dưới đất nửa trên giường, em cuốn tròn trong tấm đắp ép sát vách, mặc cho chiếc giường run rẩy kĩu kịt một hồi thật lâu. Không hiểu tại sao em lại khóc. Không phải sợ, không phải lo, không phải buồn, cũng không hoảng hốt, nhưng nước mắt chảy giàn giụa hình như em chia xẻ cái gì đó với dì. Em thương dì cùng cực như em thương mẹ em. Một lúc lâu em nghe tiếng múc nước tiếng rửa, và tiếng chân người đi xa ra mé sau vườn. Dì trở lại nhẹ nhàng nằm, sợ em tỉnh giấc. Em giả vờ ngủ mê.

Suốt đời em không quên được cái buổi trưa thứ Sáu năm ấy. Hôm ấy trời mưa tầm tã, gió lớn, đài cho biết sẽ có bảo. Gió thổi mạnh mái tranh của trường chớp lên chớp xuống như cánh con gà con chớp chớp khi gà mẹ mớm mồi cho nó. Thầy dặn kỹ học trò ra về không được đứng dưới các cây có tàng lớn nguy hiểm, và cho về sớm trước một giờ. Học trò vui mừng la ó chạy dưới trời mưa. Trong khi đám học trò như ong vở tổ, xốc đống tơi nón, chạy ra sân, thầy dúi vào tay em miếng giấy nhỏ viết ít chữ bằng bút chì “Ở lại về sau, xem xong xé bỏ”. Em run run xé nát miếng giấy bỏ lại trong túi. Em nhìn thầy nhưng thầy lo đi đóng các cửa sổ, cửa lớn. Học trò biến khỏi sân trường trong chốc lác.

Ngoài hè thò đầu vào, thầy bảo em vào trong, tay thầy chỉ cái cửa bên hông trường lâu nay đóng kỹ. Như cái máy em xô cửa bước vào, thì ra đây là một cái phòng nhỏ lâu nay bọn em tưởng là nơi cất những đồ lặt vặt của trường. Trong phòng vừa kê một cái giường nhỏ cho một người nằm. Như cái kho nên phòng không có cửa sổ chỉ một cửa ra vào lâu nay lúc nào cũng thấy khoá kỹ. Trên giường trải tấm đắp màu nâu một cái gối tai bèo trắng như bông. Thoảng thoảng mùi thơm. Em sợ, lui ra, thì thầy đã đứng phía sau em gài chốt phía trong. 

Bên ngoài vẫn mưa to gió lớn như trời đất đồng lòng cho thầy hủy hoại xé nát thân em . Rã rời. Em ra về.  Không cầm được nước mắt. Thầy dặn em “ Em đừng sợ, anh sẽ cưới em vì anh yêu em. Rán chịu vài ba ngày rồi hết đau, thứ Sáu tuần sau gặp lại”
Trời mưa gió ướt hết áo quần. Vừa vào đến hè nhà, mẹ em nói lớn : “ Mau đi tắm thay quần áo không thì nhiễm mưa con sẽ bị cảm đấy.” Lần đầu tiên trên đời nước lạnh làm em rát buốt cả cơ thể. Em như ốm ba ngày không đi học, dì Út nấu cháo cho em. Dì cười cười em không hiểu dì cười cái gì, hay là dì biết. Chỉ có trời, và anh Đức em, biết em mà thôi, làm sao dì đoán biết được.
Hôm em đến trường thầy có vẻ vui hơn cả lớp cũng vui hơn. Hết cơn mưa bảo, trời nắng đẹp.Cây cối xanh tươi mởn mơ thèm khát ánh nắng ấm. Chưa đến trưa thứ Sáu nhưng em vẫn đươc miếng giấy nhỏ viết bút chì, và cũng dặn xé nhỏ. Và từ đó, gần như ngày nào em cũng gặp thầy. Thú thật em đến trường ngồi trong lớp chỉ trông mau đến trưa. Và em hết sợ, tỏ ra vẻ sành sỏi không kém dì Út.

Rồi thầy đi cải tạo ở trên núi cao. Em khóc suốt một tuần. Thú thật hết với dì Út. Em không d á đối diện mẹ em. Thấy mẹ thê thảm tội nghiệp quá. Mẹ em sẽ chết mất, nếu biết em như thế này. Em có mang, dì Út nói như vậy. Dì hứa sẽ lo liệu cho em. Dì thương em hơn. Bồ của dì, ông trung úy Thanh đêm nào cũng lén lút gặp dì cũng bị đưa lên núi cải tạo. Dì buồn như tàu lá chuối héo.

Một buổi sáng em còn nằm náng lại chưa dậy, nghe tiếng dì và mẹ cãi cọ to tiếng.
– Tất cả đều tại dì hết, nó hư tại dì. Mỗi lần tôi la dạy nó thì dì binh nó, làm như nó là con ghẻ của tôi con ruột của dì không bằng.
– Chị nói lạ quá, em thấy nó lớn rồi không dùng roi vọt dạy bảo, mà dùng lời lẽ dịu dàng nói với nó chứ. Tuy là cháu nhưng em thương nó như con ruột em vậy, chị mà cho là em nuôi nó liền. Con bé dễ thương ngoan ngoản quá mà chị bắt nó sống cảnh ăn tro mò trấu hay sao.
– Mình nhà nghèo mà dì nói cái hạnh như mấy bà lớn ăn trên ngồi trước. Tui muốn nó có chồng đàng hoàng lo làm lo ăn, chứ có muốn như vậy đâu, bây giờ phải làm sao. Cũng tại dì gieo cho nó cái tư tưởng vươn lên, nào hướng thượng mơ bà này bà nọ để làm gì. Cái thằng giáo đó đi cải tạo rồi chết trên rừng sâu nước độc, con nhỏ hoá ra góa bụa, trời ơi là trời, đứt ruột đứt gan dì ơi.!
– Chị khóc để làm gì, sống phải can đảm chịu đựng, nhất là phận đàn bà của mình. Phải giải bài toán con nhỏ cho ổn, không thì hậu quả không biết đâu mà lường. Chị nhớ tuổi trẻ dại như nó, dễ liều lĩnh lắm, rồi cuối cùng cái đau khổ sẽ ray rứt triền miên trong chúng mình, trong chị và trong em.
– Bây giờ tui không còn biết tính sao, tôi muốn mua gói thuốc chuột cho xong. Đời tôi hẩm hiu khổ quá rồi. Như Dì biết, từ nhỏ đến chừng tuổi này tôi chưa có một ngày một buổi suớng, toàn những u buồn thê thảm. Từ ngày ba nó tử trận, tôi như chiếc thuyền gảy bánh lái rồi. Còn chút hi vọng lé loi nơi con nhỏ dù là con gái nhưng nó mang hình ảnh đậm nét của ba nó. Tôi đầy đủ cái cảm giác tôi ôm nó vào lòng như ôm ba nó, dì có biết không, tôi cưng chiều nó, và nay nó hư hõng rồi, tôi còn bám viếu vào đâu, chung quanh tôi đều là bể cả, cô đơn, sóng lạnh lùng.

Một buổi chiều mùa đông mưa dầm ảm đạm, em khoát chiếc áo mưa che bớt cái bụng tròn tròn, buồn rầu theo mẹ và dì Út lên sân ga. Dì nói nhỏ vào tai em “ Cưng đẹp quá, ngay dì cũng mê, huống chi bọn con trai.”Nghe dì nói em đỡ buồn và cũng cảm thấy như vậy. Bây giờ, giờ phút này em nghe lời dì chắc chắn là sống theo dì, không có chồng, anh Đức không về, thì dì là chồng em. Hôm em nói câu đó với dì, cặp mắt dì sáng long lanh, nước mắt long lanh hơn, em hôn dì cái hôn nồng cháy chỉ dành cho Đức thôi. Mẹ em buồn quá, không nói một câu nào. Ba người im lặng trên chuyến tàu đêm đi Nha trang.

Sáu tháng sau em sinh được đứa con trai nhưng không cứu được nó vì nó chết ngay trong bụng em. Em thương tiếc, em khóc, nhưng mẹ em dì em không dấu được nỗi mừng. Tình cảm trái nguợc này làm cho em giảm một phần tình thương mẹ thương dì. Mẹ em định về lại quê nhà nhưng phát bịnh nặng lại gặp lúc thiếu thốn quá nên bà qua đời tại Nha trang trong gia đình người bà con trong họ.
Em giúp dì em bán chè nơi sân ga. Hai dì cháu nhờ có nhan sắc nên chè bán rất đắc. Và từ đó dì sang cái quán cà phê cũng trong phạm vi nhà ga. Rất tiếc mẹ em không còn để sống những ngày tương đối khá hơn, no ấm hơn, vui hơn. Rồi ông phó nhà ga Nha trang yêu mê dì Út. Đám cưới của Dì đơn giản nhưng rất vui. Rất tiếc không có mẹ em dự đám cưới của Dì. Đêm ấy, uống rượu hơi nhiều, em nhớ thiết tha thầy Đức như điên như dại nên không kịp suy tính, em buông tuồng với bọn nhóc du đảng sân ga. Năm ấy em tròn mười chín, thằng bạn trai em mới mười bảy tuổi. Dì Út thường nói : “ Cháu thấy thích là được, tội đách gì phải sống thèm sống khát !” Cũng vì câu nói của Dì mà em xem như câu thánh kinh đó, nên bọn lu loa phóng đảng ở ga Nha trang thường hay đâm chém thường hay trổ tài anh chị để chiếm đoạt nhan sắc ở thời kỳ nóng bỏng của đời em. Bọn nhóc anh hùng lừng danh ở đó thượng phong em là “ Nữ Hoàng bốc lửa”. Quán cà phê của em rất đắc, em làm được khá tiền. Cuộc sống sôi nổi nhộn nhịp gần năm năm, dì Út được hai bé trai thật dễ thương. Cuộc sống của dì rất hạnh phúc, dì trở thành người vợ hiền lo cho chồng lo cho con. Chồng dì trở thành chủ nhà ga bọn em thường gọi là xếp ga. Nhờ quán cà phê cuộc sống của gia đình dì thuộc loại khá giả ở vùng ga.

Một buổi sáng thật sớm như thường lệ, thằng nhóc dậy khoảng 4 giờ sáng nấu nước sôi chuẩn bị những ly cà phê đặc biệt cho mấy khách quá quen thuộc. Phần nhiều những người đứng tuổi như bác Năm xit-lô ba bánh, chú Bảy thợ hồ, nhà văn Hoàng Hà, nhà báo tờ Nha trang Trẻ…và một số người nghiện nặng hương vị cà phê đặc biệt của dì Út bí truyền lại cho thằng nhóc. Thường thường vì thức khuya nên đến chín mười giờ sáng em mới xuống giường chuẩn bị ăn trưa, trang điểm, xem TV nghe nhạc… khoảng ba bốn giờ chiều em mới bước xuống thang gác sinh hoạt quán cà phê, và khách lớp trẻ bắt đầu tụ tập đông đúc. Quán tới một hai giờ khuya mới đóng cửa. Bổng những tiếng la kinh hoàng tiếp theo tiếng đập phá ồn ào, em vội vã chạy xuống . Trời ơi, một cảnh tượng khủng khiếp, máu phun đầy quán, ba bốn người bị thương quằn quại, bò lếch, la thảm thiết, ba người nằm bất động trên vũng máu, trong đó có chồng em, thằng nhóc. Em đứng sững không biết gì nữa mắt trợn trắng không cử động như một bức tượng. Mãi đến khi cảnh sát kéo đến dì Út mới đỡ em ngồi xuống một cái ghế gần đó cũng dính đầy máu. Nhờ mấy bác uống cà phê sớm làm chứng, cho những lời khai chính xác, nên cảnh sát không cần hỏi em. Họ chỉ hỏi có phải thằng nhóc là chồng em hay không em trả lời bằng cái gục đầu chán nản, mỏi mệt. Họ hỏi có giấy tờ hôn thú hay giấy gì chứng thực là chồng, em chỉ lắc đầu. Em chết điếng như cái xác không hồn, nhưng dì Út khóc thảm thiết chưa bao giờ em thấy dì khóc đến như vậy. Dì kể lể lăn lóc trên nền đầy máu lau chưa sạch, than khóc cho chồng em xấu số, cho cuộc đời góa bụa của em. Người ngoài tưởng như dì khóc người thân yêu nhất của dì phải lìa trần bỏ dì đơn côi đau khổ.

Chiều hôm sau, trước mặt trời lặn, em chôn chồng em sát mộ mẹ em. Vợ chồng dì Út cùng vài người bạn thân của chồng em đưa quan tài ra tận huyệt. Quán cà phê đóng cửa. Tối hôm đó, em ra đi chuyến tàu khởi hành bốn giờ sáng từ giả Nha trang. Em viết lá thư để lại nơi giường em cho dì Út.

Dì thương,
Con không muốn, không dám thì đúng hơn, đối diện với dì ở phút chia ly nên con viết ít giòng này thưa với dì là con mang ơn dì suốt cuộc đời. Dì đã diều dắt con đã dạy bảo con, nhất là dì đã cho con một nghị lực phải vươn lên trong cuộc sống. Cuộc đời ngắn ngủi, phải sống thực, và dám sống, và phải xem đau khổ và hạnh phúc hai mặt của đời người như một phương trình trong cuộc đời. Nhưng những điều không may luôn luôn đến với con, anh Đức những tưởng là người chồng lý tưởng của con, nhưng rồi Đức cho con một khoảng trống không gì thay thế được trong đời con, rồi đến người chồng nhỏ tuổi hơn con, con xem như người em thân thương. Rất thương rất nâng niu chiều chuộng con nhưng rồi bỏ con một cách tức tưởi. Bây giờ con còn phải làm gì nữa, hở dì ?
Con phải giả biệt Nha trang, sân ga Nha trang thì đúng hơn, vì làm sao dù bất sá đến đâu con cũng không thể nào đêm đêm nhìn lại sân ga dưới ánh đèn nghiệt ngả với con. Thượng đế không còn dung cho con một chỗ ngồi ở nơi oan nghiệt này. Thôi con ra đi, để lại tất cả trong quán cà phê cho dì, và con cầu Trời Phật phù hộ dì luôn có một cuộc sống đầm ấm hạnh phúc. Con chào dượng và hai em.
Con của dì.
T. B. Khi dì ra thắp nhang cho mẹ con, xin dì thắp luôn cho chồng con.

Em xách cái xách nhỏ, khoát chiếc áo choàng màu gạch đậm của chồng em lên toa xe vào ngay phòng ăn gọi một ly cognac, đốt điếu thuốc ba con 5, ngã lưng vào ghế bành phì phà khói thuốc từ giả Nha Trang, từ giả người dì mà em xem như mẹ. Rút kiến đen đeo vào che dấu nước mắt. Con tàu khuya chạy ra hướng Bắc.
Người soát vé hỏi về đâu em nói đại đi Đà nẳng vì nhiều lần Đức nói nhiều về Đà nẳng, hình như đó là nơi anh sinh ra và học hết bậc tiểu học. Em nhớ đại khái như vậy. Suốt hai ngày hai đêm tàu đến Đà nẳng. Em bước xuống thành phố của chồng em nhưng xa lạ quá. Hình như ai ai cũng hất hủi em không thèm để ý đến em. Phố xá vắng vẻ không như Nha trang. Người qua lại như buồn buồn âm thầm kín đáo. Em bắt đầu ghé các trường học hỏi có biết thầy Đức, Phan hữu Đức người Đà nẳng dạy ở Trà Bồng Quảng ngãi đi cải tạo tháng ba năm 75. Có người, mặc em hỏi, không trả lời, có người không chờ em hỏi hết câu, vội trả lời không biết, có người nhìn mặt em như thương hại như tò mò rồi trả lời không biết. Ai cũng trả lời không biết. Trả lời hay không trả lời em cũng hỏi. Em hỏi già hỏi trẻ hỏi trai hỏi gái, ai em cũng hỏi không cần câu trả lời, em biết việc đáy biển mò kim, nhưng còn cách gì hơn. Suốt bảy ngày em như con điên, mệt mỏi không phấn son không chải chuốt gần như không ăn. Đêm đến em về nhà trọ và sáng sớm đi hỏi tin tức anh Đức. Tuyệt vọng em xem như đã mãn tang anh Đức, người chồng thứ nhất của em, và em đang mang tang người chồng thứ hai.

Nghĩ đến dì Út, em nhìn gương mĩm cười, thay quần áo trang điểm đến quán cà phê bên lề đường . Uống ly cà phê đắng buổi sớm thả khói thuốc lơ lửng quanh người, khói thuốc như quyến luyến em không nở rời em, buông em. Ánh nắng yếu ớt vàng nhè nhẹ ban mai không đủ đem lại sức sống cho thành phố đang chết của chồng em, của Đức. Em gọi chiếc xit-lô lên sân ga rời bỏ thành phố buồn này. Con tàu sắp chuyển bánh em lên vội hỏi tàu đi đâu người hành khách ngồi ngay chỗ cửa bước lên vui vẻ cho biết tàu đi Nha Trang. Lại Nha Trang thành phố định mệnh như lúc nào cũng muốn niếu kéo em để đưa em về cõi chết, rời bỏ cõi vô thường này. Tàu đông người chật quá, em đành ngồi đại xuống sàng tàu ngay chỗ hai toa tàu nối liền, khoảng trống nhìn thấy trời thấy đường sắt thấy các thanh sắt nằm ngang nhanh nhanh trình diện. Em lại có ý nghĩ nếu nhích người đến một chút nữa, một chút thôi thì biết đâu em gặp lại gặp thằng nhóc gặp lại Đức và mẹ em. Em cảm thấy vui vui nếu như gặp các người thương nhớ kinh khủng này. Em đang mân mê với ý nghĩ vui vui nhè nhẹ như thế bổng có người vỗ vào vai em bảo “ Chị lui vào trong ngồi đây nguy hiểm, chị về đâu, cho xem vé !” Thì ra nhân viên soát vé trên tàu. Em hỏi sắp tới ga nào ? Người soát vé trả lời có vẻ mỏi mệt “ Sắp tới ga Quảng Ngãi”. “ Tôi xuống ga Quảng ngãi !” em trả lời như là có ý định từ lúc ra đi.

Ga Quảng ngãi tiêu điều quá, chỉ thấy toàn nhân viên và công an qua lại. Một vài người khách bước xuống vội vã ra về theo người nhà lên đón. Em ngồi tạm bên quày hàng bán trái cây của một bà cở mẹ em. “ Mời cô mua trái cây, chuối chín cây mới đốn trong vườn ra sáng nay đây, cô mua dùm cho”. Em không trả lời bốc một nải chuối nhỏ chín vàng tươi đưa tiền cho bà. “ Cô chờ người nhà lên đón ?” bà bán hàng vui miệng hỏi. Em trả lời vu vơ : “ Dạ không .” Thấy em có vẻ như lãnh đạm lơ là bà không hỏi nữa nhưng bà nói nhiều này tiếp tục : “Ế quá cô, tôi trốn hợp tác xã lên đây bán trái cây nhưng cũng không ổn, thuế má phải không nhiều quá, mình làm cho họ ăn hết, điệu này chắc phải di vào Nam kiếm ăn, nhưng đi thì ai đi thăm chồng đang cải tạo trên núi nên tôi không biết phải tính sao cho phải.” Nghe nói em hỏi bà : “Nhà giáo đi cải tạo về chưa bà ?” Bà nhìn em “ Chắc chồng cô nhà giáo đi cải tạo. Nghe nói công chức nhẹ như nhà giáo họ cho về rồi chỉ còn lại số tội nặng như công an tình báo đảng phái ở lại mà thôi, nói nói vậy chứ ông nhà tui giải ngũ từ đời nào mà nay còn mút mùa, các ổng làm không biết đâu mà đoán có người tội nhiều mà lại về còn có người làm thư ký quèm mà mút mùa, trời cũng chịu thua các ổng.” Tự nhiên em nghĩ đến quê ba em ở chợ Trạm, hay là em về chợ Trạm chứ về Trà Bồng buồn lắm. Hình ảnh hôm mẹ em dì Út và em vĩnh biệt Trà Bồng nghĩ đến đó em muốn khóc. Em chỉ nghe mẹ nói thôi chưa bao giờ em về quê cha em vì khi em ra đời thì cha em đã chết trận trước đó đúng ba mươi ngày như lời mẹ em kể lại. Ba em con một thương gia giàu có nhất trong vùng làm nghề dạy học, rồi đi lính chưa đầy hai năm thì tử trận không tìm ra xác. Mẹ em đành ôm em về quê ngoại ở Trà bồng nhờ cậy bà ngoại qua ngày, nên em được sống chung với dì Út. Vì vậy em không thể mường tượng quê ba em như thế nào. Em hỏi bà bán hàng : “ Thưa bà chợ Trạm ở đâu bà ?”. Bà ngạc nhiên nhìn em hình như nghe em hỏi câu kỳ lạ quá. “ Chắc là cô hỏi chợ Sông Vệ còn gọi là chợ Trạm chứ gì, hay Châu Ổ, nếu là Trạm Sông Vệ thì cách đây mười cây hơn, cô kêu xe honda thồ nó đưa cô đi lẹ mà rẻ nữa, xe thồ hiếm cha gì sớm mai giờ ngồi trù ẻo kia có ai thèm hỏi tới đâu, ế như hàng vôi.” Nói xong bà vẫy tay ba bốn chiếc xe thồ uà chạy tới, bà chỉ chiếc tới trước : “Đưa chị này về chợ Sông Vệ, bao nhiêu tiền” “ Dạ mời chị lên chị cho bao nhiêu cũng được sáng giờ chưa được cuốc nào mà chị mở hàng chắc nay em gặp hên”. Bà nói nho nhỏ chừng mười lăm nghìn là được, thôi cô đi.

Bây giờ không còn ai gọi là trạm nữa mà gọi Sông Vệ. Thị trấn nho nhỏ mang tên con sông chãy qua có cây cầu xinh xinh . Chợ nằm phía dưới đường quốc lộ. Tuy buổi chiều nhưng chợ cũng rất đông người mua bán. Dọc theo con đường rải sỏi dọc bờ sông nhà cửa chen chúc lôi thôi gần như nhà sàng một phần trên bờ gần đường phần lớn nằm trên sông. Đúng một tháng sau em thuê một căn nhà trên bờ sông phòng ngoài làm quán bán chè, phần trong để ở. Bài học ga Nha trang cho em biết không nên tạo cuộc đời sôi nổi sóng gió quá nhiều, có lý thú thật, nhưng quá liều lĩnh nguy hiểm. Nếu là nơi hiền lành hơn ít sôi nổi hơn thì chồng em đâu có chết một cách thê thảm như thế và trước khi chết anh ta cũng giết đến hai mạng người làm bị thương ba bốn người, máu nhuộm sân ga. Không, phải tránh không cho những cảnh hãi hùng ấy tái diễn.

Quán chè em rất thơ mộng rất dễ thương, phía trước núp dưới tàng cây cổ thụ xanh tươi bốn mùa phía sau tầm nhìn xa khoảng trời mênh mông , nước con sông Vệ trong vắt chảy dưới sàng nhà. Tuy chật nhưng rất thoáng và sạch sẽ. Ở đây người ta ngủ sớm, quán chè em đóng cửa khoảng mười giờ đêm. Quán cà phê quán nhậu còn có những người lớn tuổi, có những cụ già những thương gia những người trong chánh quyền những người có mưu đồ bàn bạc những việc kín đáo, những thương lượng, những đổi chác..Quán chè nhất là thuần một thứ chè đậu xanh cũng như quán kem khách toàn lớp con nít lớp học trò lớp trẻ tuổi. Những tay giang hồ những anh hùng hảo hán những bọn du đảng sát phạt có bao giờ lấy chè làm hứng khởi, cho nên em tránh được cảnh hồi hộp những cảnh máu đổ đâm chém rùng rợn. Sông Vệ biến thành nơi hiền lành thơ mộng của em. Có những cậu học trò choay choay ngây ngô rất dễ thương, em xem bọn chúng như em út và chúng xem em là chị cả, có đứa lễ phép gọi em bằng dì. Thì ra chúng là học sinh trung học, sinh viên trung cấp học nghề gì đó. Chúng đồn miệng như quảng cáo quán chè cho em, nên càng ngày đám đàn em càng đông, quán phải đặt những chiếc bàn nhỏ trên vỉa hè trên lề đường dưới gốc cây. Đám nhóc con khách cũ phải vào trong bếp tự đem chè đem muỗng ra tìm bàn ngồi ăn xong đem tiền vào đưa cho em, có khi làm bồi bàn hộ cho em để tiếp các khách mới lạ. Tin tưởng vui vẻ trẻ trung đến thế. Em rất thích cái cảnh selfservice của quán chè này. Chừng mươi nhóc con em thuộc tên chúng và xem như trong một gia đình. Chúng gặp gì làm nấy giúp em, như quét nhà lau bàn đem chè cho khách lấy tiền hộ cho em, ngoài giờ học chúng thường ghé quán trước khi về nhà. Em thiếu cái gì chúng tìm mua cho em như ghế bàn chén muỗng …Công việc có bận rộn nhưng em cũng dành thì giờ trang điểm và nghe nhạc, đó là hai sở thích của em. Em hâm ba tuổi rồi, vóc dáng của em cao lớn em trang điểm theo kiểu nữ sinh sinh viên không trang điểm như dì Út như các tài tử model . Bọn nhóc đàn em của em cứ trằm trồ em đẹp, cái đẹp tự nhiên gần gủi chúng, chứ không xa cách chúng, nhất là học sinh sinh viên ở tỉnh nhỏ.
 

Một hôm thằng Tấn buồn buồn nói với em “Sao dì đẹp giống má em quá, má em già hơn gì nhưng giống dì lắm, hôm bọn nó dẫn em tới quán thấy dì em giật mình tưởng má mà sao trẻ quá vậy, lại gần không phải, má em nói tiếng Huế dì tiếng Quảng.”
-Thế má em bây giờ ở đâu ?
-Má em bỏ ba em đi có chồng khác rồi .
– Tội nghiệp em, thế ba em bây giờ làm gì ?
– Ba em đi cải tạo chưa về nghe nói họ đưa ra ngoài Bắc.
– Tội nghiệp thế bây giờ cưng ở với ai ?
– Em ở với ngoại, chắc dì với má em không bà con quen biết gì.
Em cười tát cưng nhẹ vào má nó. Thằng bé thật dễ thương, hoàng cảnh thật tội nghiệp có mẹ mà mẹ bỏ đi có chồng khác. Sau đó nó cho em biết nó 18 tuổi đang học năm thứ nhất về kế toán còn hơn năm nữa ra trường kiếm việc làm giúp bà nó vì chỉ có một bà một cháu mà thôi. Thằng bé thật tội nghiệp hoàng cảnh nó làm em áy náy mãi đâm ra ngớ ngẩn. Thế rồi chiều nào nó không ăn chè nhưng cũng ghé quán giúp em lặt vặt. Nó cho biết những bạn nó thường đến quán như thằng Sĩ thằng Cát,thằng Hùng thằng Long đều mến thương em, xem em như chị và đứa nào cũng khen em đẹp như diễn viên màn ảnh Hàn quốc. Thằng Tấn tuy lớn xác hơn các bạn nó nhưng nó có vẻ con nít nhiều quá, nói chuyện ngây thơ thật dễ thương. Có hôm nó nói sau này lớn em với dì ở chung được không. Em đỏ mặt cười : “ Cưng ở với ngoại mà.” Nó làm thinh không trả lời. Em biết thằng nhóc này có chuyện rồi đây, em cố tránh để quán cho được bền và vui, cứ như thế này thì vừa có chút tiền vừa vui. Từ ngày làm quán chè tức từ ngày qua một cuộc đời khác, em luôn luôn nhớ lời dì Út : “ Hãy nghĩ đến hiện tại và tương lai đừng nghĩ đến quá khứ, hãy tạo những điều mới mới mãi.” Nhất định em không mất thì giờ để nghĩ về quá khứ làm giảm nghị lực nhưng bảo tạo những điều mới và mới mãi thì thật là thiên nan vạn nan, sức em làm sao làm được. Tuy vậy những lời dì Út lúc nào cũng là lời khuyên có giá trị của em, nhất là em đang sống cuộc đời tự lập, độc lập hoàn toàn.

Chiều chúa nhật quán em rất ít khách vì khách của em toàn là học sinh chúng về nhà. Thế nhưng thằng Hùng đến, lại đến một mình. Bước vào quán không thấy ai nó đi thẳng vào dòm phòng trong thấy em đang nghe nhạc nó lui ra, em gọi nó bảo vào tự nhiên, e dè một chút rồi nó vào đứng bên giường em. Em bảo ra ngoài xem không thấy ai thì khóa cửa trước xem như chiều nay nghỉ sớm. Nó dạ nho nhỏ ra khoá cửa. Mấy hôm nay nhớ chồng em chịu không nổi em bắt thằng Hùng thế thằng nhóc, gần ba tháng rồi có bao giờ lâu như vậy. Thằng nhỏ sợ quá làm theo sự chỉ vẻ khéo léo và khích lệ kích thích của em. Nó vụng về quấn quýt lụp chụp rất dễ thương. Hai cái má nó bầm tím đầy dấu răng thật tội nghiệp em bảo nó lấy nước muối rửa xức cho hết vết bầm. Nó mắc cở không dám nói chuyện. Em dặn nó nếu ai hỏi sao bầm thì bảo vì không biết nặn mụn nên làm nó bầm đừng dại nói thật họ cười. Nó đỏ mặt như quả gất lật đật ra về. Em lại nghĩ đến câu nói của dì Út : “Sống thực sống tự nhiên tội đách gì sống thèm sống khát .”

Cái quán của em tuy không có phân công nhưng tự nhiên như phân công, cuối cùng em chỉ còn một việc nấu chè, múc ra chén còn những việc khác mấy thằng nhóc làm như đem chè cho khách, tính tiền thối tiền, gặp ai nấy làm. Tiền thì bỏ vào cái họp thiếc đựng bánh biscuit, chén đem ra sau bỏ vào cái vại lớn ngâm rồi rửa. Nhiều khi có em ở đó nhưng có bọn nó là bọn nó làm như chính chúng nó có phần hùn trong quán. Từ đó mỗi tuần thường nhóc Hùng ở lại quán vài đêm, em dặn kỹ đừng cho bạn nó biết, nó hứa. Nó còn nói thêm nếu bạn nó biết thì chắc chết với bọn nó, vì bọn nó thề với nhau là không được làm bậy mất danh dự em, và làm bể quán tội nghiệp cho em. Bọn nó đồn thằng Sỹ nghỉ hè sắp tới nhà cưới vợ cho nó. Bọn nó bảo tướng thằng Sỹ hiền quá mà vợ con gì. Thằng Sỹ đang rửa chén em xuống phụ nó. Em bóp bàn tay nó trong nước nó để yên mặt đỏ nhắm mắt em nói nhỏ, quá mười giờ lại quán có chuyện, đừng cho ai biết tuyệt đối bí mật. Nó không trả lời có chiều suy nghĩ. Đêm đó em tập cho thằng Sỹ làm chồng. Em có thai ba tháng của chồng em Nha trang, em mặc quần áo người rành đời cũng không biết. Thế là đứa nào đang rửa chén em thích thích là em tạo cho nó vui vẻ làm chồng em. Bọn chúng kín đáo vì thương cũng có vì sợ cũng có nên bốn đứa thay phiên thế thằng nhóc Nha trang theo sự sắp xếp tự nhiên khéo léo của em, mà bọn nó không hề nói bậy lúc nào cũng đàng hoàng tự nhiên như không có gì xảy ra. Thằng Tấn em chừa lại, vì ở nó, em như có bổn phận phải đối xử khác. Tấn như con cừu non luôn luôn muốn sống chung với em . Tấn có chương trình học xong cưới em rồi đi tận nơi thật xa sống trong một xã hội chỉ có em và nó mà thôi. Nó lãng mạn như thế, em hết biết !

Đến tháng thứ sáu cái thai lớn em cho bọn nó biết đó là con chồng em ở Nha trang em đưa ảnh cho nó xem chồng em đứa nào cũng khen chồng em đẹp quá to lớn khỏe mạnh mà chết uổng quá. Tấn là thằng xem ảnh kỷ nhất và lâu nhất, mấy đứa khác chỉ xem qua mà thôi. Hôm em sinh bà ngoại thằng Tấn giúp đỡ như bà từng giúp cho các con gái của bà. Em giao quán cho bọn nhóc tự quản trị. Em sinh tại nhà bà ngoại thằng Tấn. Gần một tháng bà ngoại nói với em : “ Cháu còn nhỏ quá có con làm gì nên sống độc thân để có chồng cháu cho bà bác sĩ Tùng bà cần đứa con nuôi, bà ta không có con, bà ta sắp đi bảo lãnh, bà sẽ trả cho cháu một món tiền lớn, nếu cháu đồng ý, cháu suy nghĩ kỹ đi rồi cho bà biết càng sớm càng tốt để bà ta còn lo hồ sơ.” Ban đầu em thấy khó chịu nhưng nghĩ lại đó là một điều hay vì mới chưa đầy một tháng con em nó chưa biết em là ai và em cũng chưa có kỷ niệm mẹ con nhiều nên có thể đồng ý càng sớm càng tốt. Chiều hôm sau bà bác sĩ đến gặp em bảo em viết giấy ưng thuận cho, và bà đưa cho em năm lượng vàng. Bà nói : “ Tôi hứa xem nó như con ruột và quí nó nhất đời, cô yên tâm vì Thượng đế cho tôi có tiền mà không có con. Tôi đang làm hồ sơ cho nó, có lẽ chừng tháng nửa nó sẽ ra nước ngoài rồi. Tôi cảm ơn cô, chúc cô may mắn, chào cô”. Bà bác sĩ bế đứa bé ra xe, em muốn khóc, nhưng lại nhớ đến dì Út khuyên em trên cuộc đời đừng yếu mềm vì yếu mềm tức là thua cuộc và “ sống thực, dám sống, tội đách gì sống thèm sống khát” Quán chè em càng ngày càng đông khách và cố nhiên toàn đám học sinh choay choay, không có hoặc rất ít nữ sinh . 

Hôm thằng Sỹ cưới vợ nó có mời em dự tiệc cưới, có giới thiệu em với người vợ bé xíu của nó. Vợ nó ốm quá và cũng còn nhỏ tuổi quá. Thỉnh thoảng nó cũng lên thăm em ban đêm, nó bảo khó quên em, khi có vợ nó mới thấy hết được cái gía trị của em mà nói gọi là nữ thần của nó. Đúng mười tháng sau em lại sinh một bé trai nữa. Thật khó mà xác định ai là cha đứa bé, cũng lẫn quẫn trong bốn năm thằng nhóc đó thôi. Tội nghiệp thằng Tấn thằng nhóc hứa cưới em đó nó đinh ninh rằng đó là con nó vì nó ngây thơ nghĩ rằng nó là tác giả duy nhất. Mà đứa nào cũng vậy cứ tưởng mình là tác giả duy nhất. Điều này em không biết nói làm sao cho phải. Luôn luôn em dặn chúng đừng cho ai biết tác giả cái bầu em đang mang. Nhìn bộ mặt các nhóc cha non này, em thất cười. Đứa bé này chưa đầy hai tuần tuổi thì cũng bà ngoại thằng Tấn bán cho một bà ở Nha trang bạn với bà bác sĩ Tùng nghe nói bà bác sĩ Tùng giới thiệu vì bà bác sĩ xác nhận em người khỏe mạnh không có bịnh truyền nhiểm di truyền gì hết, đặc biệt sữa em rất tốt. Tuy thằng bé mới có hai tuần nhưng nhìn kỹ nó giống thằng Hùng như đúc và em cũng nghĩ là thằng Hùng. Bây giờ em không làm một việc nhỏ tất cả đều mướn người làm và lúc nào cũng có đám nhóc phụ.
Một năm sau em sinh bé gái lần này cũng bán cho bà ở Nha trang nhưng chỉ được hai lượng vàng mà thôi, khi nhận đứa bé về bà còn đặt cọc em năm chỉ vàng ưu tiên một cho bà đứa con tiếp theo và nếu là con trai bà trả thêm cho vài chỉ nữa.
Nguyễn Liệu

Bình luận về bài viết này