Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 19

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 19

Lần đầu tiên trong đời tôi nghe một bài thơ ngâm sầu cảm qúa. Thu Hà đã ngâm ngay chính bài thơ tôi vừa mới sáng tác. Tôi thấy phải có nghĩa vụ và trách nhiệm viết một bài bình giảng để tặng Thu Hà và tha nhân. Đây là thơ tình trường thiên song thất lục bát tôi lấy tiêu đề là: “Trường Ca Tình Hận.”
Có hai nguồn cảm xúc dẫn dắt tôi viết là từ bài thơ tình dài 16 khổ của cố thi sĩ Đinh Hùng: “ Gặp Em Huyền Diệu” và “Trường Hận Ca “ của Bạch Cư Dị mô tả về mối tình sử bi thuơng của nàng Dương Qúy Phi và vua Đường Minh Hoàng.

Thi sĩ Đinh Hùng viết theo lối thơ mới 7 chữ , còn Bạch Cư Dị theo lối cổ phong. Tôi đã phóng tác ra thành thơ, tôi tự phân tâm nhập hồn vào Đinh Hùng, nội dung bài thơ của tôi hoàn toàn khác Đinh Hùng. Cả hai người đều đã gặp ma trinh nữ. Về phần thơ Đinh Hùng bạn nào muốn tìm hiểu thì xin vào google. Vì khuân khổ trang viết có hạn tôi chỉ đăng lại bài thơ tôi đã chuyển dịch cảm tác “Trường Hận Ca” của Bạch Cư Dị cũng sang thể song thất lục bát:

Hận Tình Dương Ngọc Hoàn Và Lý Long Cơ

cảm xúc từ Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị

 

Võ Hoàng Đế nằm yên linh cữu

Đấng chí tôn nội tử lên ngôi

Long Cợ sầu cảm xa xôi

Nhớ thương Hoàng Hậu nổi trôi bến tình

 

Cao Lực Sĩ một mình chiêu mộ

Ra công tìm kiều nữ nhân gian

Họ Dương có ả Ngọc Hoàn

Xuân xanh vừa chớm đến tuần cập kê

 

Dáng lướt thướt bầu thê giáng thế

Hoàng tử phi diễm lệ thu ba

Chiếu truyền đạo sĩ tài hoa

Ba cung sáu viện nhạt nhòa trúc mai

 

Mạch suối ấm liễu đài băng tuyết

Đỉnh Ly Sơn thắm thiết da ngà

Phẩm tiên đôi trái mâm nga

Trăng vàng sóng sánh mặn mà quý phi

 

Thưa thánh thượng thầm thì oanh yến

Động bướm hoa hiển hiện thiên thai

Tóc mây lõa xõa mày ngài

Trống canh thủng thẳng trâm cài điểm tô

 

Chim cúc trái tha hồ ân ái

Buổi thiết triều trễ nải cho qua

Bầu tiêu lai láng thềm hoa

Lửa tình cuồn cuộn xuýt xoa dạt dào

 

Không có gió lẽ nào hờ hững

Cột buồm vua lừng lững ra khơi

Gối chăn nghiêng ngả đất trời

Rồng mây hừng hực lả lơi sóng trào

 

Vua sủng ái má đào thục nữ

Bậc mẫu nghi thiên hạ như ai

Họ hàng quyền qúy phát tài

Khiến bao cha mẹ mộng hoài cô nương

 

Khói hương khấn cầu mong sinh gái

Điệu nghê thường êm ái vũ y

Cung đàn sáo đệm lâm ly

Phong phanh dải lụa kinh kỳ đèn sao

 

Quân Ngư Dương ào ào vũ bão

An Lộc Sơn máu đỏ chiến bào

Sục sôi lửa lựu đêm nào

Yến oanh dan díu nghẹn ngào giai nhân

 

Phút tan nát mây Tần gió Sở

Cả Trường An khốn khổ bi ai

Cung Phi thểu não gót hài

Mặt hoa ủ rũ phủ đài tang thương

 

Cảnh đế đô thê lương hỗn loạn

Đạp lên nhau phách tán hồn kinh

Bao nhiêu giận dữ bất bình

Bất tuân thánh chỉ gia hình qúy phi

 

Thế là hết lệ chi quả ngọt

Đường Minh Hoàng chua xót đắng cay

Cúi đầu thảm khốc thương thay

Bụi vàng Kiếm Các đọa đày Nga Mi

 

Bóng chiều nhạt đầm đìa nước mắt

Dải lụa hồng xiết chặt bi ai

Hồn xiêu phách lạc tuyền đài

Hoang sơ Ba Thục u hoài Mã Ngôi

 

Mô đất nhỏ núi đồi cỏ dại

Tiếng quạ kêu tê tái quân vương

Cành vàng lá ngọc gió sương

Hận cùng giun dế đêm trường mưa rơi

 

Rồi lên ngựa tả tơi binh tướng

Đất Tây Xuyên cảnh tượng hoang tàn

Tháng ngày trông đợi hồi loan

Lạc Dương trở lại giang san mơ màng

 

Lý Thái Bạch ôm trăng khóc nguyệt

Điệu thanh bình hủy diệt thanh danh

Nịnh thần kèn cựa tranh dành

Dèm pha Phi Yến thôi đành chịu tang

 

Non xanh cỏ biếc hàng mây ngói

Vườn Phù Dung nhức nhối dấu yêu

Vị Ương Thái Dịch tiêu điều

Sen khô mai héo mĩ miều còn đâu?

 

Thềm rêu mọc úa sầu cung nữ

Tóc bạc phơ tư lự thẫn thờ

Canh thâu trằn trọc giấc mơ

Màn đêm bao phủ lờ mờ sông Ngân

 

Quan thái giám tay chân run rẩy

Thái thượng hoàng lẩy bẩy dung nhan

Nỗi niềm tưởng nhớ khóc than

Vua tôi nức nở lệ chan dòng dòng

 

Trước thềm điện soi đường đom đóm

Sương thu rơi lốm đốm nhành mai

Ý sầu trằn trọc đêm dài

Âm dương cách trở u hoài canh thâu

 

Mộng chẳng dứt dãi dầu tơ liễu

Bóng người xưa yểu điệu hao gày

Gối loan lạnh lẽo heo may

Châu sa lã chã mặt mày xác xơ

 

Cầm túi gấm bơ phờ ngắm nghía

Mùi hương thơm hồng tía hồn say

Mả hoang xót lại vật này

Lờ mờ hư ảo đắng cay phũ phàng

 

Gió xuân hận bóng nàng phảng phất

Áo xiêm y ngây ngất hoa cười

Dao đài Quần Ngọc chơi vơi

Hỏi nơi cung Hán còn người nào hay?

 

Vì thánh thượng có tay thuật sĩ

Đất Lâm Cùng gọi quỷ chiêu hồn

Cưỡi mây đạp gió sóng cồn

Thiên tào địa phủ bồn chồn tìm đâu…

 

Chợt ngoài cõi thần châu mù mịt

Gác tiên bồng chi chít cỏ hoa

Hiên tây liễu phủ lòa xòa

Màn che trướng phủ thượng tòa Thái Chân

 

Tiên nữ bẩm đạo nhân hạ giới

Sứ gỉa là khách mới ghé chơi

Bồi hồi thốt chẳng ra lời

Song Thành Tiểu Ngọc cho mời vào ngay

 

Mặt trông mặt ai hay tình cũ

Cơn sóng lòng chan chứa ngất ngây

Ai ngờ chén ngọc vơi đầy

Phút giây hội ngộ vui vầy là bao

 

Sương móc đọng ruột bào gan héo

Khóe hạnh trào muôn nẻo đường mây

Hôm nay chàng đã đến đây

Nghê thường khúc nhạc canh chầy xót xa

 

Đành từ biệt lầu ngà gác phượng

Hộp Hoa Điền trân trọng mở ra

Vàng dòng nửa mảnh kim thoa

Ngọc châu còn một nhạt nhòa khói bay

 

Ôm mặt khóc giãi bày kể lể

Cây liền cành mưa bể gió nguồn

Cánh chim phấp phới hoàng hôn

Ngàn sao chứng dám lệ tuôn đôi hàng !

 

Lòng sầu hận dở dang ân ái

Bụi Tràng An tê tái thê lương

Tội tình chi hỡi mỵ nương

Hồng nhan bạc mệnh đoạn trường bi ai!

 

* Dương Ngọc Hoàn tức Dương Qúy Phi, từng làm pháp sư gọi là Thái Chân

Lý Long Cơ tức vua Đường Huyền Tông hay gọi là Đường Minh Hoàng

 

5.12.2014 Lu Hà



Trường Ca Tình Hận

Cảm dịch thơ Đinh Hùng: Gặp Em Huyền Diệu

Thế nào là Trường Ca? Tôi đã từng viết một bài luận bàn về Trường Ca. Xin trích dẫn một đoạn:
“Cảm ơn bạn Tô Huy Thịnh, thật ra viết Trường Ca phải là những người có trí tuệ uyên thâm kiến văn vững chắc và đề tài chọn viết phải sống động có đáng để viết trường ca không? Trường ca không chỉ đơn thuần ca ngợi ý chí quật cường của một dân tộc chống giặc ngoại xâm mà còn là những tiếng kêu ai oán của một dân tộc mất nước lưu vong tha phương như dân tộc Do Thái hay những tiếng nấc niềm bi thuơng phẫn uất của một linh hồn đã bị tê dại quằn quại thê lương mất mát đau khổ trên đường đời. Trên thế giới có vở bi kịch Hamlet viết giống như trường ca là một ví dụ điển hình.

Trường ca phải có cốt truyện nhân vật phải nhắm vào một sự kiện nóng bỏng. Không thể viết trường ca chung chung nghêu ngao dù cho ghép chữ công phu thì cũng chỉ là thứ trường ca phù phiếm rông dài. Tớ thấy có người viết trường ca thơ tình 5 , 6 chục câu hay hay dài hơn nữa cứ miên man anh yêu em, em là tiên nữ, em là bầu trời xanh mà cuối cùng trong lòng tác gỉa vẫn trống không chả có em nào sất. Như vậy cố ép bộ não tự trái tim mình làm tình với mình dù thơ có vần như lục bát trường thiên cũng là thứ trường ca vô duyên, chưa nói dài như vậy anh sẽ vấp, nhiều câu ép vần cưỡng vận. Người thiên hạ vốn dốt nát đố kỵ tỵ hiềm nhỏ nhen, tự họ viết ra vài va câu lục bát như vè cũng thấy mệt rồi, nhưng thấy có người dài hơi kéo đến hàng chục câu, và gán cho nó cái chữ trường ca thì không nên mà chỉ nên gọi rỗi thời gian nghêu ngao phù phiếm cho vui ai thích thì đọc không thì thôi.

Đến nay vẫn chưa có ai viết một bài luận có kiến thức uyên bác định nghĩa thế nào gọi là trường ca và phân tích rành mạch có bao nhiêu thể loại? Ngày xưa tớ rất ghét cái thứ trường ca thơ tình huyên thuyên dài dòng vô nghĩa vì cuối cùng vẫn là hư không là trống rỗng như nước hồ mênh mông không có con cá nào? Vậy yếu tố nhân vật hiện hữu có hình tướng hoặc vô hình tướng trong trường ca rất quan trọng. Ngay cả khái niệm không gian cũng không phải trống rỗng mà là hiện hữu vì anh đặt cho nó cái tên không gian nghĩa là anh đã coi có không gian thật sự tồn tại như củ khoai khúc sắn. Thế có ai sờ mó hay biết không gian có giới hạn không mà dám gọi tên là không gian. Vậy cái tên cũng chỉ là tương đối theo quy định của ngôn ngữ học mà thôi

Theo tớ không gian chỉ đúng trong trạng thái tĩnh giống như thiền vậy, không nghe, không sắc, không cảm, hoàn toàn đạt tới cảnh giới của tính không như quan điểm nhà Phật.

“Anh muốn gặp em bên nấm mộ

Từ ngàn xưa vàng võ trăng soi

Tương Giang sóng nước mặn mòi

Hồn thơ ngây dại lẻ loi cửa vào?“

Mở đầu tác gỉa tự thoát hồn khỏi xác tìm lại người yêu cũ bên nấm mộ. Đây là tôi tự coi mình như một Đinh Hùng thôi nhé.  Thật ra những người phụ nữ tôi đã từng yêu trên cõi đời này, cô nào cô nấy đều còn khoẻ mạnh trắng trẻo mập mạp mũm mĩm cả. Chả ai ốm đau xanh xao vàng vọt hay đã đi về thế giới bên kia.

Em là ai? Một con ma tình từ ngàn xưa như Dương Qúy Phi, Tây Thi, Bao Tự hay là Chiêu Quân…? Em là người cùng thời hay kiếp trước của anh? Tương Giang là Tương Thủy, sông Tương bên Tàu hay Hương Giang ở Huế đều là nơi để dòng nước mái ái tình nhỏ giọt. Hồn thơ hay linh hồn anh ngây dại bên nấm mồ cô quạnh lẻ loi không thể vào trong đuợc như truyện tình Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài.

“Em bước tới nghẹn ngào thủ thỉ

Cõi trần gian tri kỷ tri âm

Hồng nhan mệnh bạc tình thâm

Trời gìa cay nghiệt mưa dầm phôi phai “

Nhưng em hiện lên thủ thỉ tâm tình với anh và tự trách phận mình bạc bẽo, không cùng người tri kỷ tri âm, bởi vì  trời gìa cay nghiệt ghen tuông má hồng để cho nấm mồ của em phải mưa dầm nẳng dãi cây cỏ nhạt phai  cúc dại héo úa.

 

“Lòng rạo rực nét ngài dáng liễu

Gót sen mềm yểu điệu thướt tha

Quảng Hàn chẳng nỡ lìa xa

Hằng Nga tủi hận sa bà khổ đau“

Cảnh ngộ thần giao cách cảm, hai linh hồn gặp nhau làm cho nàng Hằng Nga trên cung Quảng chẳng nỡ lìa xa, vén mây nhìn xuống soi ánh trăng vàng cho đôi tình nhân tâm sự khỏi tủi hận trong cõi sa bà đau khổ.

 

“Hồn chuyển kiếp dãi dàu mưa nắng

Mộng tương tư cay đắng xiết bao

Thuyền tình lạc lối bến nào?

Trúc mai thổn thức gió gào thông reo “

Họ chỉ còn biết hẹn gặp nhau ở kiếp sau, nhưng ai chắc chắn con thuyền tình yêu lại lạc lối bến nào? Liệu có đuợc thanh mai trúc mã kim bôi hợp cẩn cạn chén tương giao?

 

“Em thấp thoáng cheo leo sườn dốc

Vẫy gọi anh lần gốc cây khô

Chập chờn đom đóm lô nhô

Hồn ma trinh nữ ô hô khát tình !“

Khổ này là lối thơ tượng trưng siêu hình, như một giấc mộng vô thức huy hoàng của bộ não.

 

“Chốn âm u lân tinh huyền ảo

Kỳ diệu thay màu áo trắng tinh

Nhạt nhòa hồ điệp Trang Sinh

Bích Câu dan díu thần linh cảm sầu “

Hồ điệp tức con bướm, Trang Sinh tức Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa bướm.  Tỉnh dậy không biết mình là bướm hay bướm là mình. Bích Câu kỳ ngộ là cuộc gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu, kể về sự tích một người học trò tên là Trần Tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu có nghĩa là ngòi biếc, nay thuộc thành phố Hà Nội

 

“Nàng thiếu nữ mái đầu lõa xõa

Tóc mây bay  khói tỏa ngạt ngào

Nghé tai nhỏ nhẹ thì thào

Tang bồng mấy thuở trái đào phẩm tiên…“

Câu thơ có ý  hồn ma trêu ghẹo người tình. Chàng hay thơ thế không biết luân hồi chìm nổi đã bao lần hái đào và vụng trộm phẩm tiên, chàng đã thỏa chí tang bồng cung kiếm lãng tử giang hồ chưa…?

 

“Bến Trữ La thuyền quyên đứng đợi

Phạm đại phu chới với em ơi!

Trách người tình chẳng giữ lời

Phù Sai ân ái trời ơi là trời…!“

Bến Trữ la là nơi nàng Tây Thi giặt vải gặp Phạm Lãi tức Đào Chu Công là tướng quốc nước Việt, hai người yêu nhau lắm. Nhưng mưu sĩ Văn Chủng lại tâu với Việt Vương Câu Tiễn dâng cống cho Phù Sai chúa nuớc Ngô làm mỹ nhân kế.

 

“Em và anh cuộc đời ngang trái

Dở cung đàn tê tái Tương Như

Văn Quân hiển lộ nhân từ

Vườn xuân chim chóc chín nhừ đào tươi“

Tư Mã Tương Như vốn con người phóng khoáng hào hoa , ông mua được một chức quan nhỏ, làm quan trong ít lâu, chán, cáo bịnh, qua chơi nước Lương, rồi trở về nước Thục.

Khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu đánh cho một bài.

 

Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc “Phượng cầu hoàng” nghĩa là chim phượng trống tìm chim phượng mái.

 

“Giơ tay hái nụ cười sóng nước

Mắt đa tình háo hức vòng ôm

Lưng ong  rạo rực cá tôm

Trầm ngư nhạn lạc sao hôm thẹn thùng “

Tả cảnh truy hoan tình yêu nam nữ. Trầm ngư lạc nhạn tu hoa bế nguyệt chỉ người con gái đẹp.

 

“Nhìn tận mặt hẹn cùng dâu bể

Đá vàng phai trần thế đổi thay

Ái tình vẫn chẳng lung lay

Trước sau ta quyết vui vày bên nhau“

Lời hứa hẹn cho duyên nợ kiếp sau

 

“Ôi rờn rợn nát nhàu cỏ úa

Cả một vùng dàn dụa sương rơi

Má hồng phơn phớt chơi vơi

Gió rung cành lá lả lơi trăng mờ “

Tả cảnh đêm khuya nơi rừng hoang mả vắng.

 

“Anh thất thểu nửa mơ nửa tỉnh

Hỡi em yêu yên tĩnh như tờ

Không gian vắng lạnh bất ngờ

Giơ tay quờ quặng đôi bờ tử sinh “

Trạng thái tâm thức gần trở lại bình thường sau khi hồn phách lạc chín tầng mây

 

“Thân bất lực bóng hình vời vợi

Cõi mênh mông í ới gọi nhau

Hàng hiên tầm tã giọt ngâu

Tiếng gà xao xác đêm thâu lụi tàn“

Tả cảnh tác gỉa đã kiểm soát được bộ não, nằm khoèo trên giường toàn thân cứng đờ gần như bất lực khi thấy ảo ảnh bóng hình người đẹp lờ mờ xa dần

 

“Gió hun hút trăng ngàn sầu thảm

Em đi rồi ảm đạm dòm song

Ngậm ngùi mằn mặn nhớ mong

Xót xa giọt lệ ngược dòng vào trong “

Nàng đi rồi thì chàng nằm suông ngao ngán nhìn dòm song cửa. Giọt lệ thưong cảm chảy nguợc vào trong bụng.

 

“Buồn ảo não long đong số phận

Nặng gánh tình lận đận ngược xuôi

Hai vai oằn oại than ôi!

Trường ca tình hận cho người trần gian!“

Bốn câu kết hoàn toàn dễ hiểu, ai đó còn kêu khó hiểu thì tôi cũng bó tay chả giúp gì cho bạn. Thu Hà ngâm rất lâm ly sầu cảm theo đúng tâm trạng của tác gỉa là tôi. Ngâm như thế ai đó còn chê không hay, thì xin mời đi ra chỗ khác  chơi, hay mua vé vào rạp mà nghe hát hay nghe ngâm trên sân khấu hoành tráng đồ sộ. Tôi post lên facebook mời  mọi người nghe và đọc miễn phí.


15.1.2016 Lu Hà

 

Bình Giảng 3 Bài Thơ Của Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 20
“Em Sẽ Ngâm Thơ Anh, Tình Xưa Cố Quận và Hoa TiGon Thổn Thức“

Tác gỉa bài thơ “Hai Sắc Hoa TiGon“ của nàng T.T.Kh không rõ lai lịch tung tích và chàng thi sĩ Thâm Tâm chắc cũng đã là người thiên cổ cả hai. Nhưng bài thơ để lại mang dấu ấn hình bóng một thời, một nghi án văn học dần dần sáng tỏ minh bạch vẫn để lại cho bao thế hệ người Việt Nam yêu thơ thổn thức bâng khuâng.

Thu Hà đã ngâm bài thơ kể về một câu truyện tình đầy ngang trái và nước mắt rất cảm động mà tôi đã chuyển dịch. Để tri ân sự đóng góp của Thu Hà cho nền thi ca âm nhạc nghệ thuật Việt Nam tôi đã viết tặng Thu Hà 3 bài thơ và đều được ngâm cả ba. Vậy tôi sẽ lần lượt bình giảng thứ tự từng bài làm món qùa tặng những tâm hồn thơ văn Việt Nam thưởng lãm nhân Tiết Đinh Dậu năm 2017.


Em Sẽ Ngâm Thơ Anh

thơ tri ân Trần Thu Hà

Ngâm thơ có ba bảy đường ngâm. Người thì ngâm thơ chính quy có tính chất nghề nghiệp hẳn hoi, có đủ sân khấu đạo diễn, nhạc công, khán gỉa, tiền cát xê, thị trường thị hiếu v.v… Người thì ngâm riêng trong vòng gia đình, họ hàng bạn bè thân quen. Người thì ngâm theo lối ngẫu hứng thích ngâm thì ngâm, dù cho là thơ ai đó bất kể thơ hay hoặc dở, nghệ thuật cao hay loại thơ tào lao nhì nhằng vớ vẩn, miễn là hợp với trình độ sở thích cuả mình, chả có thù lao cát xê chi hết, một lời cám ơn là xong, hay thí chủ có thơ được ngâm mời người ngâm một chầu bia hơi, nem chua, chả quế, bún bò, bún riêu, tiết canh thịt chó gì đó để thù lao thay cho lời cám ơn suông bằng mồm. Cô Thu Hà này rất đặc biệt ngâm thơ phóng khoáng vô tư tặng rất nhiều người. Nhưng riêng tôi lại thấy rất chân trọng cảm động vì nhiều người biết ngâm nhưng không muốn ngâm thơ tôi. Cô Thu Hà thì lại vô tư thoải mái ngâm tặng tôi. Nên đối với tôi, cô rất có ý nghĩa và gía trị thực tế hiện sinh nghệ thuật làm tôi cảm động. Thơ tôi làm, tôi hiểu gía trị của nó theo trí tuệ tầm vóc của tôi, cô ngâm đúng tâm trạng nỗi lòng tôi, nên tôi rất xúc động, cảm động, làm cho tâm hồn thi sĩ của tôi thêm lai láng… Tôi làm thơ tặng cô từ tấm lòng của tôi.

 

“Rồi đây em sẽ ngâm tất cả

Hoa Ti-gôn óng ả mượt mà

Ngẩn ngơ khắp chốn quan hà

Trái tim ấm áp la đà nàng thơ“

Tôi đã từng viết một bài luận văn là chồng thơ là vợ. Văn mang tính duơng biểu tượng lý trí, sức mạnh gân bắp. Thơ mang tính âm biểu tượng cho tâm hồn tình yêu, mềm mại thiết tha. Nên người ta hay gọi là nàng thơ chỉ cái tâm hồn thi nhân bất kể tác gỉa là nam hay nữ.

“Hồn cát sĩ đôi bờ thổn thức

Đại dương ơi! Rạo rực ái tình

Bâng khuâng tới cổng thiên đình

Sương rơi đầu ngõ thần linh tủi sầu“

Cát sĩ tiếng Anh tạm dịch là learned man. Cát sĩ còn có nghĩa thi sĩ đã từng trải lăn lộn trường đời và trường tình, giống như các kiếm khách giang hồ chu du thiên hạ, suy nghĩ hay hành động luôn của kẻ trượng phu, trọng nghĩa khinh tài cứu khổ phò nguy. Nhân vật Tống Giang trong tập Thủy Hử được các hảo hán khắp nơi kính nể. Trong tinh hoa cổ học có ông Phạm Trọng Yêm, người nhà Tống, làm quan đến Tể tướng mà vẫn nghèo suốt đời. Tính ông trọng nghĩa, khinh tài, thích làm việc bố thí, nhất là đối với người trong họ, lại càng hậu lắm. Ông để dành lương bổng, mua được một thửa đất làm nghĩa trang để lấy hoa lợi cứu người:
“Sướng gì hơn sướng làm lành,

Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu”

Người có tâm hồn cát sĩ đôi bờ đại dương thổn thức khi nghe có người ngâm thơ ái tình. Cụ thể là cô Thu Hà đây ngâm mấy bài Thơ Hai Sắc Hoa TiGon và cả thơ tôi cảm dịch nữa. Tâm hồn thi nhân lên tới cả thiên đình nhân năm Đinh Dậu cùng với các Táo Quân. Tình cảm tha nhân quê hương da diết như  nỗi  buồn cô quạnh cô đơn của người thiếu phụ, giọt sương rơi đầu ngõ là hình ảnh tuợng trưng siêu hình.

 

“Mùa thu đến tinh cầu tha thiết

Sắc hương phai da diết trần ai

Cam lồ rạng liễu chương đài

Sen vàng nuối tiếc u hoài giọt ngâu“

Bồ tát Quán Thế Âm tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu. nghĩa là bình thanh tịnh đựng nước cam lồ, nhờ cành dương liễu rưới khắp làm cho tâm người được mát mẻ. Sen vàng tiếc giọt mưa thu mưa ngâu chỉ hoa sen cuối mùa úa tàn, tả tâm trạng người thiếu phụ cô đơn.

 

“Mưa thánh thót hạt châu lã chã

Bước chân người vội vã làm sao

Cung đàn dang dở ly tao

Bao giờ trở lại vườn đào năm xưa “

Mô tả đời tuổi xuân ngắn ngủi mùa thu chóng tàn, cảnh đời chia ly xa cách, nhớ nhung. Bao giờ ý trung nhân trở lại vườn đào năm xưa như chàng Thôi Hộ.

 

“Kìa Thôi Hộ lưa thưa gió thoảng

Chàng Thâm Tâm thấp thoáng hiên nhà

Dưới giàn thiên lý xót xa

Vén mây nhìn xuống Hằng Nga nghẹn ngào…!“

Thâm Tâm cũng là thi sĩ theo tôi chính là tác gỉa 4 bài thơ viết về Sắc Hoa TiGon,     giống như Thôi Hộ có 4 câu tứ tuyệt:

Đề Đô Thành Nam Trang

“Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong“

 

10.1.2017 Lu Hà

 

Tình Xưa Cố Quận

Viết tặng Trần Thu Hà ngâm thơ Hai Sắc Hoa TiGon

Tình xưa cố quận nghĩa là câu chuyện tình cũm hay kỷ niệm về nơi chôn nhau cắt rốn, quê hương, cố hương.

 

“Ngoài kia gió bấc tuyết bay

Trong nhà cửa đóng đắng cay nỗi niềm

Đã buồn, buồn lại dày thêm

Tiếng ai đẫm lệ êm đềm sầu đông“

Câu thơ tả chính tâm trạng tôi khi nghe Thu Hà ngâm thơ. Mấy hôm nay rồi mà tuyết vẫn dày đặc.

 

“Bài thơ thế kỷ chất chồng

Quê hương vời vợi cánh đồng cò bay

Dưới giàn thiên lý đắm say

Hoa TiGon nở lắt lay nắng vàng“

Nhắc về bài thơ Hai Sắc Hoa TiGon đã nửa gìa thế kỷ nay  mà bao nhiêu câu hỏi chưa được gỉai đáp thỏa mãn tính hiếu kỳ độc gỉa, chất chồng nổi niềm thương nhớ say đắm bi lụy xót xa về thân phận người phụ nữ.

 

“Sông Thao bến nước mơ màng

Hai hàng dâm bụt đường làng cỏ may

Cố hương ơi, lạnh thế này!

Phương trời thổn thức đêm nay tủi sầu“

Nói về tôi hồi tưởng nhớ quê hương sinh ra mình có dòng sông Thao quanh năm đỏ nước phù sa

 

“Trán nhăn tư lự mái đầu

Trải bao năm tháng bể dâu đoạn trường

Vẳng nghe con cuốc kêu thương

Thâm Tâm đi hẳn còn vương bóng bình“

Tôi lấy hình ảnh con chim Cuốc tả về nỗi lòng người xa quê như tôi và nhắc lại  mối tình sử bi thương của vua Thục bên Tàu vì yêu một người đàn bà mà mất nước.

 

  1. T. Kh cô mình

Âm ba điệp khúc hành tinh xa mờ

Điệp hồ bảng lảng huyền mơ

Hương lan phảng phất đôi bờ đục trong…!

T. T. Kh theo như bạn bè của Thâm Tâm thì cô ấy tên là Khánh, người yêu của Thâm tâm.

 

10.1.2016 Lu Hà

 

Hoa TiGon Thổn Thức

viết tặng Trần Thu Hà ngâm thơ

 

“Thu Hà thương cánh hoa tim

Giọng ngâm cao vút đắm chìm trong mây

Mộng hồn thi sĩ ngất ngây

Dưới giàn thiên lý canh chầy hoài than“

Nghe Thu Hà ngâm làm cho tâm hồn tôi ở nửa vòng trái đất, say đắm ngất ngây mà thương cho nàng T.T. Kh và chàng Thâm Tâm

 

“Bao thập kỷ chứa chan tình ái

Chàng Tâm Tâm tê dại Khánh ơi!

Bàn dân thiên hạ chơi vơi

Cung đàn dang dở cuối trời sầu đưa“

Bài thơ Hai Sắc Hoa TiGon có từ năm 1937. Tính đến nay tròn 80 năm rồi.

 

“Người cát sĩ mới vừa thức giấc

Ngẩn ngơ buồn hoàng hạc lầu son

Thi đường còn nước còn non

Bâng khuâng bảy chữ héo hon cõi lòng“

Tôi vừa ngủ dậy vào facebook thì nghe Thu Hà ngâm bài:  “Hai Sắc Hoa TiGon“ mang dấu ấn thể thơ đường luật, tứ tuyệt,  thể hành thời tiền chiến mà các ông Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Tản Đà, Đinh Hùng, Hàn Mạc Tử v. v… hay làm vào những thập niên 30 và 40 thế kỷ trước gọi là thơ mới 7 chữ.

 

“Người thục nữ long đong xuôi ngược

Cõi trần ai ô thước cầu vồng

Ngưu Lang Chức Nữ mây rồng

Mưa ngâu tầm tã cánh đồng mù sương “

Ô thước hay kim ô là chim qụa. Còn tích Ngưu Lang Chức Nữ, mưa ngâu, cầu vồng qúa quen thuộc với nguời Việt, xin miễn giải thích.

 

“Lu Hà sầu muộn vấn vương

Nửa vòng trái đất dặm trường ly tao

Xuân về chén rượu ngọt ngào

Bâng khuâng thầm nhớ trái đào năm xưa…!“

Lu Hà chíng là tôi người đang viết bài bình giảng này. Chỉ xin nhắc lại tôi là đấng tu mi nam tử mày râu rất đàn ông, chả đồng tính luyến ái pê đê chi hết. Cái bút danh tưởng là con gái chỉ là một kỷ niệm riêng.

 

“Hoa trái tim hương thừa hết thắm

Cung đàn trầm thê thảm sầu cay

Hoàng hôn rặng liễu lắt lay

Tàn đông tuyết ngậm vui vày với ai…?“

12.1.2017 Lu Hà

Không những tả về nàng T.T. Kh ngót 80 năm nay, mà còn tả  cảvề tâm trạng cho cả người ngâm thơ và chính tác gỉa bài thơ là tôi.

 

16.1.2017 Lu Hà

Bình luận về bài viết này