Trường Thi Bình Định và Sĩ Tử Quảng Ngãi (phần 2 và hết ) – Đào Đức Chương
IV – GÓP VÀO ĐẤT NƯỚC
Điều đáng nói là trường thi Bình Định đã đóng góp cho đất nước những anh hùng
cứu nước, những nhân tài, những bậc đại khoa.
1 – Ứng nghĩa Cần Vương:
Các thủ lãnh của Phong trào Cần Vương (1885) ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa hầu hết xuất thân từ trường thi Bình Định:
– Lê Trung Đình (1863 – 1885) đỗ Cử nhân thứ 17 khoa Giáp Thân (1884), người
thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, nay thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn
Tịnh, là lãnh tụ Phong trào Cần Vương tỉnh Quảng Ngãi.
– Nguyễn Tự Tân (? – 1885), đỗ Tú tài, người thôn Phước Thọ, huyện Bình Sơn,
cùng Lê Trung Đình và Vũ Hội dựng cờ khởi nghĩa, chiếm tỉnh thành Quảng Ngãi được 5
ngày.
– Nguyễn Duy Cung (1843 – 1885) đỗ Á nguyên khoa Mậu Thìn (1868), người
thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa [5]; sau là thôn Vạn Tượng, xã Nghĩa Dõng [6],
huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi; nay thuộc thị xã Quảng Ngãi. Ông từ bỏ chức Án sát
Bình Định, gia nhập cuộc ứng nghĩa Cần Vương ở tỉnh này, làm tham mưu cho nguyên
Tổng đốc Đào Doãn Địch.
– Mai Xuân Thưởng (1860 – 1887), đỗ Cử nhân thứ 7 khoa Ất Dậu (1885), người
làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn tỉnh Bình Định, nay là thôn
Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn (quận Bình Khê cũ). Ông là lãnh tụ Cần Vương
của tỉnh nhà, có óc tổ chức, có tài thao lược. Từ hai bàn tay trắng, tiếp nhận 600 quân của
Đào Doãn Địch, ông đã phát triển thành lực lượng kháng chiến hùng hậu, với các chiến
khu vững chắc như Lộc Đỗng, Linh Đỗng và thứ Hương Sơn.
– Nguyễn Trọng Trì (1854 – 1922), đỗ Cử nhân thứ 8 khoa Bính Tý (1876), người
thôn Vân Sơn, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn, nay là thôn Vân Sơn, xã
Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ông giữ chức Hiệp trấn thứ Hương Sơn
trong lực lượng Cần Vương của Mai Xuân Thưởng.
– Võ Phong Mậu, đỗ Cử nhân thứ 5 khoa Qúy Dậu (1873), người thôn Kiên
Phụng, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn tỉnh Bình Định, nay là thôn Thuận
Hạnh, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn (quận Bình Khê cũ), tỉnh Bình Định. Ông giữ chức
Tham trấn thứ Hương Sơn, trong lực lượng của Mai Xuân Thưởng.
– Lê Thành Phương (1825 – 1887), đỗ Tú tài, là thủ lãnh Cần Vương nổi tiếng
nhất của tỉnh Phú Yên, bản doanh đặt tại đèo Quán Cau, thuộc huyện Tuy An.
– Nguyễn Khanh, đỗ Tú tài, cùng với Trần Đường, Trịnh Phong ứng nghĩa Cần
Vương ở Khánh Hòa. Ông được phong Tán tương Quân vụ, đóng quân tại trung tâm tỉnh,
lo việc tuyển quân và tiếp tế lương thực cho hai mặt trận phía Bắc và phía Nam của tỉnh.
2 – Tham gia phong trào Duy Tân:
Việc chống sưu kháng thuế ở Miền Trung năm 1908, các thủ lãnh và ban chỉ đạo
của phong trào phần lớn đều xuất thân từ Trường thi Bình Định.
Ở Quảng Ngãi, các Cử nhân đã lãnh đạo phong trào tại tỉnh nhà gồm có:
– Nguyễn Sụy (? – 1916) đỗ thứ 9 khoa Quý Mão (1903), người thôn Hổ Tiếu,
huyện Chương Nghĩa, nay là xã Tư Nguyên, huyện Tư Nghĩa. Án khổ sai 9 năm, đày
14
Côn Đảo. Năm 1916, tham gia cuộc khởi nghĩa Duy Tân, việc bại lộ, ông tự sát trong
ngục [7].
– Lê Đình Cẩn (1870 – 1914), đỗ thứ 3, cùng khoa với Nguyễn Sụy. Ông người
thôn Hòa Vinh, huyện Chương Nghĩa, sau thuộc xã Nghĩa Dõng, huyện Tư Nghĩa, nay
thuộc thị xã Quảng Ngãi. Ông bị án đày Di Lăng, rồi Côn Đảo.
– Nguyễn Đình Quản, đỗ thứ 14 khoa Đinh Dậu (1897), người thôn Phong Niên,
tỉnh Quảng Ngãi. Ông bị án chém, cải đày Côn Đảo và chết ở đó.
– Nguyễn Mân, đỗ thứ 15, cùng khoa với Nguyễn Đình Quản, người thôn Kim
Giao, tỉnh Quảng Ngãi, bị án đày Côn Đảo.
Các Tú tài người Quảng Ngãi, tham gia tích cực phong trào tại tỉnh nhà gồm có:
Phạm Chẩm và Nguyễn Tuyên, án khổ sai 9 năm đày Côn Đảo; Nguyễn Thoa, án khổ sai
9 năm; Trần Kỳ Phong (1873 – 1941) bị đày Côn Đảo.
Ở Bình Định các Cử nhân lãnh đạo phong trào gồm có:
– Hồ Sĩ Tạo (1869 – 1934), đỗ thứ 3 khoa Tân Mão (1891) và năm Giáp Thìn
(1904) đậu Tiến sĩ. Người làng Hòa Cư, tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn,
tỉnh Bình Định; nay là thôn Hòa Cư, xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn. Ông bị án trảm
quyết, cải trảm giam hậu khổ sai chung thân.
– Lê Chuân (còn gọi là Truân, Quốc Triều Hương Khoa Lục, bản dịch), đỗ Giải
nguyên khoa Bính Ngọ (1906), lúc 23 tuổi; người thôn Thanh Lương, tổng Trung, huyện
Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định; nay thuộc xã Ân Tín, huyện Hoài Ân. Ông bị
án xử 100 trượng, đày 3.000 dặm, cải khổ sai 9 năm.
– Nguyễn Du, đỗ thứ 6 khoa Đinh Dậu (1897), người thôn Đại Thuận, tổng Trung
Bình, huyện Phù Mỹ, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định [8], nay thôn Đại An, xã Mỹ Hiệp,
huyện Phù Mỹ, bị cách hết phẩm hàm chỉ còn bằng Cử nhân.
Các Tú tài tham gia phong trào gồm các ông: Bùi Phiên Dự, thôn Hòa Cư và
Đặng Thành Tích, thôn Đại Bình đều thuộc huyện An Nhơn; Nguyễn Phát, thôn Dương
Liễu và Lê Cương thôn An Lương, huyện Phù Mỹ; đều bị quan tỉnh Bùi Xuân Huyến đề
nghị mức án từ giảo giam hậu đến phạt trượng rồi đày Côn Đảo.
3 – Các đóng góp khác:
a/ Trường thi Bình Định còn cống hiến một danh nhân văn hóa: ĐàoTấn (1845-
1907), đỗ Cử nhân thứ 8, khoa Đinh Mão (1867), người thôn Vinh Thạnh, tổng Thời Tú,
huyện Tuy Phước, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định, nay là thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc,
huyện Tuy Phước. Ông vừa là nhà thơ, nhà văn, vừa là nghệ sĩ viết tuồng, nhà lý luận sân
khấu. Nói đến nhân tài của tỉnh, người đời thường nhắc: “Bình Định có hai ông vua,
Quang Trung vua võ, Đào Tấn vua văn.”
b/ Trường thi Bình Định cũng là nơi khởi đầu của các bậc đại khoa như:
– Kiều Tòng, còn gọi là Kiều Lâm (1825 – ?), người thôn An Đại, huyện Chương
Nghĩa, nay thuộc huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Ông đỗ Á nguyên khoa Ất Mão
(1855), đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1862), làm quan tới chức Bang biện Ngãi Định.
– Phan Văn Hành (1847 – ?) người thôn Thuận Phước, xã Bình Phước, huyện Bình
Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ông đỗ Giải nguyên khoa Bính Tý (1876), đỗ Phó bảng khoa Đinh
Sửu (1877), chưa kịp làm quan.
– Đỗ Quân (1869 – ?) người thôn Châu Sa, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ
Á nguyên khoa Tân Mão (1891), đỗ Hội nguyên Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1895). Ông là cháu
nội của Phó bảng Đỗ Đăng Đệ.
15
– Hồ Sĩ Tạo, đã nói ở phần trên.
– Đào Phan Duân (1864 – 1947) người thôn Biểu Chánh, xã Phước Hưng, huyện
Tuy Phước, tỉnh Bình Định, đỗ Cử nhân thứ 6 khoa Giáp Ngọ (1894), đỗ Phó bảng năm
Ất Mùi (1895) lúc 31 tuổi. Làm quan đến chức Tuần phủ, lấy đức giáo hóa dân, không
chịu sự xúc phạm của viên Công sứ Khánh Hòa, ông cãi lại rồi xô ghế bỏ quan về nhà,
sáng lập Phước An Thương Hội, giữ chức cố vấn tối cao.
V – SĨ TỬ TRANH TÀI
1/ Mặc dù thường xuyên có sĩ tử của năm tỉnh dự thi, nhưng chỉ có Quảng Ngãi
và Bình Định tranh nhau thủ khoa. Suốt ba khoa thi đầu là Nhâm Tý (1852), Ất Mão
(1855) và Mậu Ngọ (1858), Giải nguyên đều về tay người Bình Định, đó là Cao Văn
Tuấn người thôn Thắng Công, huyện Tuy Viễn, nay thuộc xã Nhơn Phúc huyện, An
Nhơn (khoa 1); Nguyễn Đăng Tuyển người thôn Chánh Trạch, huyện Phù Mỹ (khoa 2);
Nguyễn Duy Lộc người thôn Xuân An, huyện Phù Cát (khoa 3). Sự bất quá tam, Bình
Định đoạt thủ khoa 3 lần, trong khi Quảng Ngãi cố tranh sát nút nhưng chỉ đỗ Á nguyên
ba lần, đó là Phan Văn Điển người thôn An Thổ, huyện Mộ Đức (khoa 1), Kiều Tòng
người thôn An Đại, huyện Chương Nghĩa (khoa 2); Phạm Thúc người thôn Trà Bình,
huyện Bình Sơn (khoa 3). Sự việc ấy còn ghi lại trong câu ca dao của vùng:
Tiếc công Quảng Ngãi đường xa
Để cho Bình Định thủ khoa ba lần.
Đến khoa thứ 4, năm Đinh Mão (1867), Bình Định chẳng những đoạt cả Giải
nguyên, Á nguyên, đó là Lê Đăng Đệ và Nguyễn Tạo cùng ở huyện Phù Cát; mà còn
chiếm liên tục đến hạng 8, Quảng Ngãi chỉ chen được vị thứ 9, rồi liên tục từ 10 đến 13
lại là người Bình Định, lập thành tích Bình Định 14, Quảng Ngãi 4.
Bị thua liên tiếp 4 khoa, sĩ tử Quảng Ngãi quyết tâm vùng lên. Họ đã thành công
rực rỡ ở hai khoa liền (5 và 6) mang lại vinh dự cho tỉnh nhà. Đó là khoa Mậu Thìn
(1868), Nguyễn Luật người thôn Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, đoạt Giải nguyên và Nguyễn
Duy Cung người thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa, chiếm Á nguyên. Tiếp khoa
Canh Ngọ (1870), Trương Đăng Tuyển người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn và Phạm
Viết Duy người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa, đoạt cả giải nhất nhì và Quảng
Ngãi còn vượt trội tỷ số đậu. Lúc bấy giờ ca dao có câu:
Tiếc công Bình Định xây thành
Để cho Quảng Ngãi vô giành thủ khoa. [9]
Sau đó, Bình Định và Quảng Ngãi còn liên tiếp tranh nhau ngôi thứ và tỷ số thêm
17 khoa nữa, cho đến khi chấm dứt vào năm 1918.
2/ Trong các khoa thi ở Trường Bình Định, hai khoa Tân Mão (1891), lần thứ 14
và Giáp Ngọ (1894) lần thứ 15 là vui vẻ nhất vì cả năm tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận (lúc đó chưa lập tỉnh Ninh Thuận) đều có người thi đỗ
Cử nhân, còn hai giải nhất nhì chia đều cho Bình Định và Quảng Ngãi. Dù vậy vẫn có
câu: “Một tỉnh Khánh Hòa không bằng một nhà Hưng Lạc”, bởi khoa Giáp Ngọ (1894), ở
Bình Định tại thôn Hưng Lạc (thời Minh Mạng gọi là Hưng Long) xã Mỹ Thành, huyện
Phù Mỹ có nhà họ Đinh, cha con cùng thi và cùng đỗ Cử nhân. Cha là Đinh Hữu Quang,
52 tuổi, đậu thứ 13; con là Đinh Trọng Cát, 22 tuổi, đậu thứ 15; cũng khoa đó, Khánh
Hòa chỉ đỗ có 1 người, ở hạng thứ 19 là Phạm Tấn, người huyện Tân Định.
16
Quảng Ngãi cũng có trường hợp tương tự, vào khoa Mậu Thìn (1868), trường thi
Bình Định tuyển 15 Cử nhân, gồm 8 người Bình Định và 7 người Quảng Ngãi, các tỉnh
khác không ai đỗ. Ở xã Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi có anh em
cùng đỗ cao, em là Nguyễn Duy Cung đoạt Á nguyên, anh là Nguyễn Tấn Phó trúng hạng
4.
H 4: Lễ xướng danh thi Hương.
(Nguồn: Hình Ảnh Xưa Việt Nam)
VI – MỘT THỜI ĐÃ QUA
Những ngày huy hoàng của nền Nho học rồi cũng tắt. Ngày 21- 12- 1917, Toàn
quyền Đông Dương Albert Sarraut ra nghị định ban hành “Quy chế chung về ngành giáo
dục ở Đông Dương,” thường gọi là “Học Chính Tổng Quy,” áp dụng nền giáo dục Pháp
Việt trên toàn cõi Đông Dương. Ở Miền Bắc, sau khoa Ất Mão (1915) là chấm dứt nền
Hán học. Còn ở Miền Trung, gắng gượng một kỳ thi Hương nữa, tức khoa Mậu Ngọ
(1918), rồi cũng vĩnh viễn cáo chung. Trường thi Bình Định, mới có 68 tuổi đời (1850-
1918), cũng chịu chung số phận như các trường thi khác!
Đã một thời, trường thi này cũng cờ lọng rợp trời, đi đầu là cờ biển vua ban, biểu
tượng cho quyền hành và chức vụ của Hội đồng giám khảo. Có hai thớt voi đi kèm, đầy
đủ yên bệ, đoàn quân nhạc rập rình xen lẫn tiếng trống, tiếng cồng, vang dội một vùng.
Các quan trường triều phục chỉnh tề ngồi trên kiệu, có lính hầu, tàn che, lọng rủ. Còn sĩ
tử, từ nửa đêm đã vác lều chõng đứng đợi gọi tên vào vi dành cho thí sinh.
Ngày xướng danh còn long trọng hơn nữa. Trên khán đài có đủ mặt hội đồng quan
trường và các quan lớn, nhỏ thuộc vùng đến dự. Các sĩ tử, cùng thân nhân, bè bạn, đến
nghe xướng danh, đứng chật khán đài.
Trên chòi cao, vị Truyền lệnh sứ bắc loa gọi từng người đỗ Cử nhân, đủ cả tên họ,
tuổi tác, quê quán.
Chẳng hạn, khoa thi Hương năm Bính Tý (1876), tại trường thi Bình Định, ông
Phạm Văn Hành, 30 tuổi, người xã Thuận Phước, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ
Giải nguyên. Vị Truyền lệnh sứ xướng danh là:“Cử nhân Đệ Nhất danh Phạm Văn
Hành, niên canh tam thập tuế, quán tại Thuận Phước xã, Bình Sơn huyện, Quảng Ngãi
tỉnh.”
Từ trong đám đông, vị thủ khoa lên tiếng “dạ” lớn, lách mình tiến đến khán đài
trình diện, rồi được ban áo mão cân đai và tàn lọng, trước sự trầm trồ ngưỡng mộ của mọi
người.
Xong, tiếp tục xướng danh: Cử nhân Đệ Nhị danh…, rồi Cử nhân Đệ Tam danh…
17
Nếu trong lễ xướng danh, tân khoa được rạng rỡ tại trường thi, thì lễ vinh qui bái
tổ lại được mở mày mở mặt tại quê nhà. Theo lệ, người đỗ Tú tài được cấp làng đón rước,
đậu Cử nhân được hàng tổng đón rước. Khi về tới địa giới của quê quán, vị tân khoa được
hàng chức sắc và dân chúng ứng trực sẵn để đưa về tận nhà. Đám rước đông đảo, long
trọng, cờ mở trống giong, tiền hô hậu ủng, “ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau.”
H 5: Quan tỉnh đãi yến các tân khoa.
(Nguồn: Hình Ảnh Xưa Việt Nam)
Thi đỗ, không những bản thân vị tân khoa được vinh dự mà thầy dạy học, cha mẹ,
vợ con và họ hàng cũng được vẻ vang. Đúng với câu “dương thanh danh, hiển phụ mẫu.”
Vì vậy, sự mến chuộng học hành đã trở thành truyền thống của dân tộc. Quan niệm “nhất
sĩ nhì nông” đã ăn sâu vào lòng người, thể hiện qua câu ca dao:
Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ.
Thời ấy, mỗi khoa thi kéo dài hơn một tháng. Người đi thi, kẻ đi xem, thêm gia
nhân và quyến thuộc lên đến hàng vạn người. Quán xá tuy chỉ dựng tạm thời nhưng rộ
như nấm mọc. Trong những ngày ấy, con đường từ xã Nhơn Hòa về thành Bình Định đến
chợ Gò Chàm qua lối bến đò Trường Thi, trở nên phức tạp. Chàng trai phải đưa người
yêu của mình tới tận bến sông, đợi nàng bước lên đò, mới yên tâm trở về nhà, vì:
Đưa em cho tới bến đò,
Kẻo em thơ dại, “học trò” phỉnh em.
(Ca dao)
Đó là khúc sông ôm choàng lấy thôn Hòa Nghi, một đoạn hình vòng cung trên
dòng Nam phái sông Côn, mang tên Trường Thi; với bến đò Trường Thi cát trải vàng
óng, nước sông trong xanh, đò ngang thưa khách. Phong cảnh nên thơ ấy, gợi cảm hứng
cho nhà thơ Yến Lan (quê ở thành Bình Định) sáng tác bài Bến My Lăng, một thời nổi
tiếng:
Bến My lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi ông lái chẳng buồn câu.
Trăng thì dày rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu…
18
H 6: Sông Trường Thi ở thị xã An Nhơn.
(Ảnh: Trần Quang Kim, cuongde.org)
Thời huy hoàng ấy đã qua rồi! Dấu vết Trường Thi Bình Định cũng đã phai mờ
theo năm tháng. Các vị Cử nhân và Tú tài Hán học xuất thân từ trường này, dù ở khoa
cuối cùng, cũng không một ai còn sống. Ngày nay, nếu không có người chỉ dẫn, không ai
có thể biết được nơi đây, ngày xưa, chỉ mới 93 năm trước, còn là một cái nền khổng lồ
vuông vức. Và cứ mỗi ba năm một lần, Triều đình tập hợp thí sinh sáu tỉnh [10] về đây để
tuyển chọn hiền tài.
San Jose, ngày 4- 12- 2011
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG
GHI CHÚ
[1] Trường Thi Bình Định là trường cấp vùng, như Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ
An, Gia Định…, dùng để tổ chức thi Hương, lấy đỗ Cử nhân và Tú tài. Thời Hán học, chỉ
ở Kinh đô mới mở thi Hội và thi Đình để lấy Tiến sĩ và phân Tam giáp, Tam khôi.
[2] Nguyên bản khắc thiếu một chữ sau chữ “An…”
[3] Đúng là Võ Văn Tịnh, nhưng nguyên bản khắc lầm là Võ Duy Tịnh.
[4] Dương Kinh Quốc; Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử 1858- 1918 (Hà Nội,
nxb Giáo Dục tái bản, 2001); trang 271:
– Ngày 20 tháng 5 năm 1901 Quyền Toàn quyền Đông Dương là Broni ký nghị
định thành lập tỉnh Phan Rang, gồm phủ Ninh Thuận, huyện An Phước, huyện Tân Khai,
đều được tách ra từ tỉnh Khánh Hòa. Tỉnh lỵ là Phan Rang.
– Ngày 9 tháng 2 năm 1913, Toàn quyền Đông Dương là Sarraut, Albert ký nghị
định giải thể tỉnh Phan Rang, phần đất phía bắc của tỉnh sáp nhập vào Khánh Hòa, phần
đất phía nam sáp nhập vào tỉnh Bình Thuận.
– Ngày 5 tháng 7 năm 1922, Toàn quyền Đông Dương là Long, Maurice ký nghị
định tái lập tỉnh Phan Rang, gồm phủ Ninh Thuận và huyện người Chàm cư trú là An
Phước. Vì vậy, Phan Rang còn được gọi là tỉnh Ninh Thuận.
19
[5] Theo Cao Xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục, Nguyễn Duy Cung ở
huyện Chương Nghĩa (nay là Tư Nghĩa); nhưng theo Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá
Thế, Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam, ông ở huyện Sơn Tịnh?
[6] Trước năm 1981, Nghĩa Dõng thuộc huyện Tư Nghĩa. Từ ngày 24- 8- 1981,
Quyết Định số 41- HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, ba xã của huyện Tư Nghĩa là Nghĩa
Dõng, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh (trừ xóm La Tà nhập vào xã Nghĩa Thương, huyện Tư
Nghĩa) sáp nhập vào thị xã Quảng Ngãi và thuộc xã ngoại thành (Nguyễn Quang Ân, Việt
Nam Những Thay Đổi Địa Danh Và Địa Giới Các Đơn Vị Hành Chính 1945- 1997, trang
312).
[7] Các bản án, căn cứ vào Châu Bản Triều Duy Tân, trong cuốn Phong Trào
Kháng Thuế Miền Trung của Nguyễn Thế Anh và bổ túc bởi nhiều tài liệu khác.
[8] Nguyễn Thế Anh; Phong Trào Kháng Thuế Miền Trung Năm 1908 Qua Các
Châu Bản Triều Duy Tân (Sài Gòn, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên xuất bản,
1973); trang 92, ghi là “thôn Phú Nông, phủ Hoài Nhơn”.
[9] Quách Tấn, Nước Non Bình Định, trang 337, cho rằng câu “Tiếc công Bình
Định xây thành” có trước vì khoa đầu tiên của Trường thi Bình Định, năm Nhâm Tý
(1852), người Quảng Ngãi giật thủ khoa. Ba khoa tiếp theo là khoa Ất Mão (1855), Mậu
Ngọ (1858), Tân Dậu (1861), ngôi thủ khoa mới về tay người Bình Định nên câu “Tiếc
công Quảng Ngãi đường xa” ra đời sau. Lập luận này trái với thực tế (hơn nữa, năm
1861, Trường Bình Định không mở thi, sĩ tử phải ra Thừa Thiên dự thí, thủ khoa là Trần
Văn Chuẩn người Thừa Thiên) và không trùng khớp với kết quả thi cử trong Quốc Triều
Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục.
[10] Sáu tỉnh gồm: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và
Bình Thuận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01/ CAO XUÂN DỤC; Quốc Triều Hương Khoa Lục, Nguyễn Thúy Nga và
Nguyễn Thị Lâm dịch; Sài Gòn, nxb TP/ HCM, 1993.
02/ DƯƠNG KINH QUỐC; Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử (1858- 1918), tái
bản lần thứ nhất; Hà Nội, nxb Giáo Dục, 2001.
03/ ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG; Những Viên Toàn Quyền Cai Trị Liên Bang Đông
Dương; Nguyệt san Làng Văn (Toronto, Canada), số 145, tháng 9 năm 1996; trang 32 –
40.
04/ NGÔ ĐỨC THỌ chủ biên và 2 tgk; Các Nhà Khoa Bảng Việt Nam; Hà Nội,
nxb Văn Học, 1993.
05/ NGUYỄN QUANG ÂN; Những Thay Đổi Địa Danh Và Địa Giới Các Đơn
Vị Hành Chính 1945 – 1997; Hà Nội, nxb Văn Hóa – Thông Tin, 1997.
06/ NGUYỄN Q. THẮNG và NGUYỄN BÁ THẾ; Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử
Việt Nam; Sài Gòn, nxb Khoa Học Xã Hội, 1992.
07/ NGUYỄN THẾ ANH; Phong Trào Kháng Thuế Miền Trung Năm 1908 Qua
Các Châu Bản Triều Duy Tân; Sài Gòn, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, 1973.
8/ NGUYỄN VĂN XUÂN; Phong Trào Duy Tân; Sài Gòn, nxb Lá Bối, 1970.
9/ QUÁCH TẤN; Nước Non Bình Định; Sài Gòn, nxb Nam Cường, 1967.
20
10/ TOAN ÁNH; Nếp Cũ Con Người Việt Nam, in lần thứ 2; Sài Gòn, Khai Trí
xuất bản, 1970.
MỤC LỤC
Dẫn nhập . . . . . Trang 01
1 – Vài nét sơ lược . . . . . 01
H 1: Thầy đồ mở trường dạy học . . . 02
2 – Trường Bình Định và các khoa Thi Hương . 02
H 2: Sĩ tử vào trường thi mang theo lêu chõng . 08
3 – Trường thi trong lịch sử . . . . 08
H 3: Hội đồng Giám khảo thi Hương . . 10
4 – Góp vào đất nước . . . . 13
– Ứng nghĩa Cần Vương . . . . 13
– Tham gia Phong trào Duy Tân . . . 13
– Các đóng góp khác . . . . 14
5 – Sĩ tử tranh tài . . . . . 15
H 4: Lễ xướng danh thi Hương . . . 16
6 – Một thời đã qua . . . . . 16
H 5: Quan tỉnh đãi yến các tân khoa . . 17
H 6: Sông Trường Thi. Ảnh: Trần Quang Kim . 18
Lời kết . . . . . . 18
Ghi chú . . . . . . 18
Tài liệu tham khảo . . . . . 19
Mục lục . . . . . . 20