Thư gởi bà con quyến thuộc và thân hữu,
Thư gởi bà con quyến thuộc và thân hữu
Tôi khởi sự viết thư này sáng mồng 2 Tết Giáp Ngọ, February 1, 2014. Mục đích là để trả lời câu hỏi: tại
sao tôi tranh cử? Why do I run?
Câu hỏi và đồng thời là một lời khuyên ân cần, chân thành, là tại sao vào tuổi “thất thập cổ lai hy” tôi
lại không hưởng thú hưu an nhàn, chăm sóc vườn tược, vui chơi với các cháu nội, du lịch năm châu bốn
biển, đọc sách, tham gia công tác tình nguyện. Tôi đã làm những việc trên. Đã du lịch. Đã dạy một lớp
về luật di trú hè vừa qua tại Lincoln Law School ở San Jose. Lớp học nhỏ nhưng tôi yêu mến bảng đen,
cục phấn, và giảng đường. Đã cộng tác hành nghề luật sư bán thời gian với một văn phòng tại thành phố
Santa Clara. Vợ chồng tập thể dục thường xuyên. Tháng tháng họp mặt, tiệc tùng, hát karaoke với một
số thân hữu. Với tôi, có thể, và có nên, sống mãi êm đềm như vậy mãi đến mãn đời hay không?
Cũng như quý vị, tối giao thừa, tôi làm lễ trước bàn thờ tổ tiên. Trên bàn thờ có chân dung em tôi, Đại
Uý Không quân Phan Quang Tuấn. Máy bay của Đại Uý Tuấn bị hạ trên không phận Cam Lộ, Quảng Trị
tháng 4, 1972, Mùa Hè Đỏ Lửa. Đại Úy Tuấn mới 27 tuổi thanh xuân, cả cuộc đời còn trước mặt. Mỗi khi
tôi nghĩ đến những giây phút cuối cùng của người phi công ngồi trong phòng lái bốc lửa lao xuống mặt
đất, tôi không hình dung nổi những gi người phi công đang cảm thấy lúc ấy. Những cảm nghĩ nói trên
đến với tôi mỗi lần tôi làm lễ đón giao thừa khi còn ở Việt Nam và tiếp tục suốt 38 năm từ khi đặt chân
lên đất Hoa Kỳ. Không những tôi nghĩ đến người em, tôi nghĩ đến những người trai đã chết trong cuộc
chiến, những thiếu phụ đã bị hãm hiếp, bỏ mình trên biển cả. Tôi nghĩ đến những tàn phá, chết chóc
trên quê hương. Tôi nghĩ đến những ngườ tỵ nạn Việt Nam bị xua đuổi khắp nơi. Ruột gan như thắt lại.
Làm sao an nhàn sống cho đến mãn đời như nói ở trên?
Tôi kinh hoàng khi tìm hiểu, quan sát tầng lớp lãnh đạo trong nưóc. Lê Duẩn rời trường học khi ở lớp
4. Đỗ Mười có trình độ học vấn lớp 3. Đại Tướng Lê Đức Anh biết đọc, biết viết. Nguyễn Tấn Dũng gốc
là một cứu thương, y tá cấp xã, dám làm thống đốc ngân hàng quốc gia một dạo, và là thủ tướng nhiều
năm qua. Khi Việt cộng túng thế tìm cách nối lại bang giao với Hoa Kỳ thì năm 1993 Võ Văn Kiệt nhờ
không ai khác hơn là John Kerry thảo văn thơ gởi cho Tổng Thống Clinton, và John Kerry cầm tay mang
về nước cho Bill Clinton! Hiện tại và tương lai đất nước, dân tộc chúng ta đang ở dưới lớp người lãnh
đạo như vậy.
Các người lãnh đạo cộng sản Việt Nam có lối xưng hô gọi tên nhau của một tổ chức thảo khấu. Trên
cùng là Bác Hồ. Dưới có “anh Tô, anh Văn, anh Ba Duẩn, anh Sáu Thọ, anh Sáu Dân, anh Mười Cúc”.
Và hiện nay là “Tư Sang, Ba Dũng”. Họ xử dụng một ngôn ngữ mà George Orwell gọi là ngôn ngữ mới
(newspeak). Công an bắt người thì gọi là “làm việc”. Bỏ tù họ gọi là “cải tạo”. Họ thay phiên nhau nắm
quyền bất kể đến ý nguyện người dân. Họ ngang ngược tuyên bố chế độ cộng sản dân chủ trong khi họ
cướp quyền lựa chọn của người dân bằng thể thức “đảng cử dân bầu”.
Lân bang như Trung Cộng không muốn gì hơn là duy trì lớp lãnh đạo này hòng dễ sai khiến. Các giới
nguyên thủ quốc gia, từ cường quốc như Hoa Kỳ, Pháp, đến các lân bang trong vùng Đông Nam Á, thì
mặc kệ miễn là giữ cộng sản ở địa vị chính quyền có lợi cho điều mà họ gọi là ổn cố, an ninh, và phát
triển vùng. Họ coi thường các nhà lãnh đạo Việt Nam, tuy cũng xưng hô là chủ tịch nhà nước, thủ
tướng. Thái độ này được biểu lộ qua cung cách họ đối xử với các nhà lãnh đạo cộng sản trong những
chuyến công du tại Hoa Kỳ, Pháp, Cuba vừa qua. Báo chí, truyền hình tây phương chế diễu các nhà lãnh
đạo cộng sản Việt Nam, và dân tộc Việt Nam bị chế diễu theo.
Tôi không vui gì với những nhận xét như trên. Tôi xem những điều trên là xấu hổ chung cho tất cả chúng
ta. Và là tai họa cho tương lai của con cháu chúng ta. Tôi nghiệm ra một điều là dù đứng bên phe thua
cuộc hay thắng cuộc, cả hai phe Việt Nam đều là người ngoại cuộc ngay đối với số phận của chính mình.
Trước khi Hiệp ước Geneve được ký kết chia đôi Việt Nam, Pháp, Trung Cộng, Anh Quốc , Sô Viết, Hoa Kỳ
đã quyết định số phận của chúng ta. Trước Hiệp Ước Ngưng Bắn 1973, Hoa Kỳ và Trung Cộng đã thương
thảo từ năm 1972 số phận của Miền Nam Việt Nam. Những nhà lãnh đạo hai miền Nam Bắc đều nỗ lực
đi tìm sự ủng hộ của ngoại bang, thay vì sự ủng hộ của dân tộc. Người ta không thể vừa là tôi tớ của
ngoại bang vừa là nhà lãnh đạo dân tộc được. Và đó là thảm họa của chúng ta.
Không thể cho phép tình trạng này kéo dài lâu hơn nữa. Chúng ta không thể nhắm mắt, giả vờ xem như
ta không có trách nhiệm chính trị. Giả vờ như quốc gia đã tiến bộ. Giả vờ như cộng sản không thực sự
còn là cộng sản nữa.
Dẫu tài sơ trí thiển, tôi muốn khởi bước đầu tiên để chấm dứt tình trạng này. Tôi thực hiện điều này
bằng cách mạnh dạn tranh cử vào quốc hội Hoa Kỳ.
Nhưng tôi không thể làm việc này một mình đuợc. Tôi cần sự ủng hộ của tất cả mọi người. Cùng nhau
chúng ta sẽ có tiếng nói trên diễn đàn quốc hội Hoa Kỳ. Hãy giúp tôi chấm dứt tình trạng dân tộc ta bị
làm ngoại cuộc, để dân tộc không còn là nạn nhân của các cuộc mà cả, sắp xếp của các thế lực quốc tế.
Cám ơn sự ủng hộ của quý vị.
Phan Quang Tuệ
Ứng cử viên quốc hội liên bang
California Đơn vị 11
Chi phiếu xin đề: JudgePhan
PO Box 1687, Danville, CA 94526
Email: Tuephanquang4uscongress@gmail.com
Or JudgePhan@gmail.com
Paypal: Tuephanquang4uscongress@gmail.com
Or JudgePhan@gmail.com
