PHẠM NGỌC THÁI VỚI NHỮNG TÌNH THƠ SÂU NẶNG NỖI ĐỜI
|
PHẠM NGỌC THÁI
VỚI NHỮNG TÌNH THƠ SÂU NẶNG NỖI ĐỜI Đọc “Phê bình & tiểu luận thi ca”, Nxb Văn hoá Thông tin 2013
NGUYỄN ĐÌNH CHÚC giới thiệu
Phạm Ngọc Thái không chỉ sáng tác được nhiều bài thơ tình hay, mà thơ về nỗi đời dân gian, kiếp người của anh không ít bài cũng đạt sự viên mãn để tạo thành những thi phẩm súc tích, có bài đến hoàn bích: Làm ma em vợ, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Em bán xoài, Cỏ hoang, Em bé cầu bơ, Cô quét lá đêm hồ… Trong bài viết nhận định “Phê bình & tiểu luận thi ca – Phạm Ngọc Thái” vừa qua của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng, cũng mới đăng trong năm, cô giáo đã trích từ tác phẩm hai bài bình thơ của hai tác giả để giới thiệu cùng bạn đoc: 1. Nhà văn Đào Viết Minh luận bàn về “Làm ma em vợ” – một bài thơ khóc tang khúc triết. 2. Nhà giáo Diễm Loan thì bình bài thơ tình sâu sắc “Khóc bên Hồ Núi Cốc”. Ở bài viết này, tôi chỉ xin nói riêng về mảng thơ đời hay của thi nhân được in trong tập bình luận thi ca đó. Như nhà văn Đào Viết Minh khi bình Làm Ma Em Vợ đã có nhận xét rằng: “… Trước những cảnh đời còn bao thương tâm, oan nghiệt, phi lý, bất công vẫn đè nặng lên lớp nhân quần lương thiện – Bài thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ tượng trưng, nhuốm đầm sắc thái dân gian, theo quan điểm nỗi kiếp đoan trường của cụ Nguyễn Du… Hay là: Cái nạn kiếp người nơi hạ tầng của chúng sinh thời nào mà chẳng khổ? Trải qua những thăng trầm, bể ải nơi nhân tình thế sự, chiêm nghiệm trong thẳm sâu tâm linh của cuộc đời mình, thấm đẫm về chữ “kiếp” luân hồi… để nỗi xót thương từ trong lòng tác giả trào ra”. Tức là nhà thơ đã nhìn đời bằng con mắt của những người lao khổ. Có khi còn chĩa mũi dùi vào đả phá những kẻ làm chính trị nhưng đạo đức giả, thậm chí là loạn luân. Như ở bài “Cỏ hoang” viết: Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa cấy linh hồn… Để nói về một cô gái trong cái đám người phải đi xuất khẩu lao động, thực chất là những kẻ làm thuê cuốc mướn ở nước ngoài, tha phương cầu thực vì miếng cơm manh áo – Cô gái đã trở thành một thứ trò chơi, nạn nhân của xã hội đang xuống cấp tận cùng. Cái thế giới nhân quần được gọi là “trần gian” kia: Hỡi Thiên đường – Địa phủ: Trần gian Loài người mãi sao tràn lan tội ác? Biết bao sự bất công, tàn bạo xô đẩy lớp chúng sinh vào cảnh khốn quẫn. Đấy là nhân sinh quan của Phạm Ngọc Thái. Thí dụ như ở trong bài “Em bé cầu bơ” – Nói về cảnh tết của một thân phận vất vưởng, lang thang nơi đường phố: Tối ba mươi lò than phở đã nguội rồi Em bé cầu bơ không nơi ngồi sưởi ấm. Đêm giao thừa người chúc nhau nhiều may mắn Dưới gốc cây già một bóng nhỏ nhuộm màu đen. Hình ảnh một đứa bé cầu bơ, cầu bất trong đêm giao thừa, không nhà không cửa, ngày đi xin ăn, khuya về ngủ nhờ bên cái lò phở lấy chút hơi ấm để qua đêm. Nhưng đêm ba mươi hầu hết các cửa hiệu đều đóng cửa, lò than cũng không còn được đốt nữa. Đứa bé không còn chỗ nào để sưởi ấm tấm thân còm. Chỉ bằng 4 câu mà tác giả khắc họa sâu sắc đến mức điển hình. Người ta chỉ còn nhìn thấy một cái bóng đen, cũng được gọi là sự sống ấy đang co quắp vì giá lạnh dưới một gốc cây già. Chính là cái màu đen của cả một kiếp người, những thân phận thấp hèn của chốn nhân gian. Đọc lên trái tim ta quặn đau, không khỏi xót xa. Rõ ràng từ một hiện thực cuộc sống được tác giả khái quát thật cô đọng mà vẫn đầy cảm xúc. Tầm vóc của bài thơ không nhỏ một chút nào. Nói về bài “Nỗi trăn trở người đi đi tìm vàng”, cũng viết về những người xuất khẩu lao động, làm thuê ở nước ngoài. Thông qua sự trăn trở bản thân, nhà thơ đã đi sâu vào nỗi lòng của những người lao khổ. Nó phục lại một bối cảnh đầy mâu thuẫn, trước những cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người. Nhiều nơi, nhiều chỗ tranh giành, dối lừa nhau như cảnh chợ giời. Đạo lý thì bị tha hoá, xã hội xuống cấp – Có thể đó đã thuộc vào hàng lớp chúng sinh ở tận cùng đáy xã hội rồi: Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ Đứa mách qué lại vân vi dễ sống… Cuộc sống của những con người lương thiện đó đã phải: Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ Là một màn bi hài của xã hội và cuộc đời. Rồi tác giả lý giải về mục đích mà những nỗi đời đáng thương đó đã phải chịu đựng: Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật Đánh một đoá hồng vàng tôi trao đứa con thơ Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ Một chút nữa với bạn bè, thân hữu… Như một nhà bình luận khi nhận xét về bài thơ “Nỗi trăn trở người đi tìm vàng” này, đã nói: Để tiếp tục giới thiệu tập “Phê bình & tiểu luận thi ca – Phạm Ngọc Thái” vừa xuất bản đó – Tôi xin trích thêm hai bài bình, nói về mảng thơ đời sâu sắc của thi nhân, đã được hai tác giả là Hoàng Ngọc và Trần Ngọc Lâm viết lời bình, bạn đọc cùng thưởng lãm:
1. Trước hết nói đến bài thơ viết về những kiếp đời gió bụi lang thang, nhà thơ đã từng gặp trên bãi biển Nha Trang:
EM BÁN XOÀI– Anh trai mua xoài cho em đi? Em bán xoài đi đêm trên cát trắng Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách… Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Phạm Ngọc Thái Lời bình TRẦN NGỌC LÂM: Theo nhà thơ kể lại, trong một dịp đi qua thành phố Nha Trang những ngày sau chiến tranh. Khi đó anh vẫn còn trong quân đội ở chiến trường miền Nam. Vào một buổi tối, anh cùng với một nhóm sĩ quan đi ra chơi trên bãi biển và… đã gặp những cô gái “bán xoài”. Một em gái trẻ dễ thương, thân hình bó lẳn trong chiếc áo cánh chẽn mềm mỏng tới mời anh. Không hiểu sao lúc đó anh lại từ chối? để rồi bao nhiêu năm tháng qua đi, hình ảnh người con gái ấy cùng với những kiếp đời sương gió cứ đọng mãi, in sâu vào kí ức nhà thơ thành kỉ niệm. Tới một ngày những xúc động xưa lại quay về và… bài thơ Em Bán Xoài đã ra đời: Em bán xoài đi đêm trên cát trắng Biển càng to lớn mênh mang thì bóng hình những người con gái bé nhỏ ấy càng côi cút. Bên bóng của những chiếc cột đèn đứng trong đêm thành phố cũng thật lạnh lẽo, nhập hoà vào những thân phận tội nghiệp, đáng thương, để cùng vô vi trong cát bụi cuộc đời: TNL. Trích “Phê bình & tiểu luận thi ca – Phạm Ngọc Thái”
2. Một bài thơ đời dân gian sâu sắc khác: CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ Một đêm hồ nước đầy sương gió
Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Con nai vàng chết bóng thu xưa… Phạm Ngọc Thái Lời bình HOÀNG NGỌC: Vào một đêm trời đầy sương gió, tác giả đã gặp cô quét lá bên hồ nước, chính là người quét rác trong phố khuya. Đó là những con người lao khổ, cuộc sống cũng giống như những chiếc chổi tre ngày tháng quét lê trên đường để mòn vẹt dần đi: Em quét lá lẫn đời lẫn kiếp Tấm hình của bức chân dung trở thành siêu thực. Siêu thực theo đúng nghĩa của nó: thực mà đã siêu trần. Cảm giác vừa xa xót, vừa mộng mơ hòa quyện trong tâm hồn tác giả như ở đoạn thơ hai ta vừa phân tích, tạo thành nhân cốt của bài thơ. Nhưng đây là “nhân cốt đời”! Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Nhà thơ tâm sự: nhìn sâu vào trong đêm đó, giữa anh và cô quét lá đêm hồ ấy như có hai khoảng đời cách biệt. Một đằng anh thi sĩ mộng mơ, còn em lại đang quét lá rơi. Nói một cách khác, em đang lao động kiếm sống vì miếng cơm manh áo, còn tâm trí nào mà cảm đồng với những xúc cảm lãng mạn của nhà thơ? Chung quanh tiếng lá cây reo nghe bình thản một cách rờn rợn, lạnh lùng. Bóng trăng trên đầu cũng trở nên nhợt nhạt, côi cút trong cả khoảng không gian vô tận, vô bờ. Cô quét lá có cô đơn không, nhà thơ không biết? Cô cứ thầm thì lặng lẽ quét, chẳng hề để ý đến sự có mặt của anh lúc đó. Nhà thơ thấy chính lòng mình cô đơn! Câu thơ: Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng Đã ra đời như thế. Bóng trăng trên đầu đã được hóa thân để kết hợp với câu thơ dưới: Con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô… trong thơ cố thi nhân, nó bọc chứa cả thế giới huyền ảo như cổ tích nằm bên trong tình thơ. Còn hình ảnh “con nai vàng chết” của bài thơ Cô Quét Lá Đêm Hồ này, ý nghĩa xã hội lại nằm bên ngoài tình thơ, để phản ảnh tới sự mất mát cả giá trị đời sống cũng như tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài, nâng tầm vóc của bài thơ cao lên! Người đi không rõ mặt người… Đấy chính là nhân ảnh của dân gian, chẳng khác nào những kiếp phù du? Nghĩa là bài thơ không dừng lại ở thân phận cô quét lá. Nhà thơ đã chạnh lòng nghĩ đến những kiếp đời của chốn nhân quần, cái lớp người thời nào mà chẳng phải chịu những sự bất công? Sống vật vã suốt đời chỉ để lo miếng cơm, manh áo cũng không xong. Đến cuối bài thơ hình tượng nhân ảnh mờ mịt này còn được tác giả nhắc lại một lần nữa: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Đã được hòa tấu bằng một giọng thơ trầm lắng và hơi hiu hắt. Có lẽ chỉ những rặng liễu kia đã cùng thức để cảm đồng với nhà thơ mà lặng lẽ ru cuộc đời cô quét lá? Đưa ta vào khoảng không gian thật mơ hồ, nửa thực, nửa không. Nhà thơ xót với nỗi đau đời mà hóa buồn chăng? Chính trong tâm trạng ấy, cô quét lá đêm hồ thành thơ rơi vào cõi lòng anh. HN. Trích “Phê bình & tiểu luận thi ca – Phạm Ngọc Thái”
|

