YẾT KIÊU NGƯỜI HÙNG CỦA DÂN TỘC THINH QUANG

YẾT KIÊU

                                 NGƯỜI HÙNG CỦA DÂN TỘC    

                         

                                                                                                                             THINH QUANG

 

 

TRUNG HOA VÀ ẤN ÐỘ LÀ HAI QUỐC GIA HÀNG ÐẦU CÓ NỀN VĂN MINH TỐI CO,Å  MỞ RỘNG NỀN KINH TẾ VÀ GIEO RẮC ẢNH HƯỞNG CỦA HỌ BẰNG CON ÐƯỜNG XUYÊN QUA  ÐÔNG NAM Á.. LUÔN CẢ BA TƯ, VÀ CÁC VÙNG ÐẤT TRUNG ÐÔNG LEN LỎI ÐẾN CẢ THẾ GIỚI ÐỊA TRUNG HẢI…

 

Chính nhờ sự bột phát của nền kinh tế này từ hai quốc gia hàng đầu Ðông phương:Trung Hoa và Aán Ðộ được xem là nhân tố quan trọng góp phần hình thành các quốc gia cổ kính như Aâu Lạc, Phù Nam và Chiêm Thành.  Nước Aâu Lạc hình thành do nhu cầu giao thương không thể không khai sinh ra một quốc gia cần thiết này . Chính quốc gia này có nhiệm vụ quản trị hay đúng hơn kiểm soát  con đường giao thương mà người phương Bắc cần phải có để bảo đảm quyền lợi cho mình. Mầm mống thực dân bắt đầu từ công việc đi tìm con đường kinh tế. Từ đó mới trải rộng ra nền văn hóa đến các bản địa  nhược tiểu kém mở mang hơn. Tất nhiên là trong các quốc gia nhược tiểu đó gồm có  Ðông Nam Á, gồm Việt Nam,Campuchia, Thái Lan, Miến Ðiện,Mã Lai, Indonesia,Brunei và Philippine) ! Những quốc gia này đều có một nền văn hóa riêng tư của mình và những mẩu chuyện thần thoại khá độc đáo.

 

Các chuyện thần thoại là yếu tố cần thiết để nói lên cội nguồn của dân tộc mà quốc gia nào cũng có, nội dung hầu hết tiêu biểu làlinh hồn của dân tộc. Nh ư sách “Tiền Hán Thư” của Trung Quốc có ghi rõ rằng là:”Ðời Ðào Ðường có họ Việt Thường ở tại phương Nam phái sứ thần sang triều cống con rùa thần sống  có đến hàng nghìn năm. Lưng rùa có khắc loại chữ dạng hình con nòng nọc. Những dòng chữ này nói về việc mở mang của trời đất. Vua Nghiêu thấy lạ bèn chép lại  và gọi đó là “Qui Dịch”. Cứ theo các nhà sử học thì Việt Thường là một trong các tên cổ của đất nước ta, cho thấy từ thời đại này dân tộc Việt đã có văn tự…Sở dĩ không tiếp tục phát triển và lưu truyền lại cho các thế hệ kế tiếp được vì một nguyên nhân nào đó…

 

Cũng có các cổ thư khác nói về văn tự như sách Thanh Hóa thanh phong có nhắc đến một loại văn tự của Việt Nam được xử dụng ở một “Châu” tại tỉnh Thanh Hóa (tỉnh địa đầu của Trung Việt ngày nay) thường gọi là chữ “Thập Châu”. “Châu” có nghĩa chỉ cho các vùng ở miền núi. Còn “Thị” chỉ cho các vùng của người Kinh ở vùng bình nguyên tức người Việt ta.  Nhiều người nghĩ rằng loại chữ dáng hình nòng nọc giống dạng chữ người Aán hay loại chữ Pâli tương tự như văn tự Lào – cùng nguồn gốc với chữ Chiêm Thành hoặc na ná với Aán Ðộ…

 

Vì  văn tự  này chỉ ở dạng thô sơ  chưa phát triển được toàn diện, xuất hiện giữa hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương luôn luôn loạn lạc ,không còn khoảng trống nào để nghĩ đến việc lập ra một văn tự riêng biệt,  có chăng thì lại là loại chữ “Nôm” – lai  với  dạng  Hán Tự! Tuy nhiên không được phổ biến và cũng chẳng được  xem là  văn tự chính của đất nước  để truyền bá trong dân gian và dùng vào các văn kiện chính thức của triều đình ta lúc bấy giờ.

 

Hồi giữa thế kỷ thứ lll trước công nguyên, nhà Tần tràn xuống bờ nam sông Dương Tử, thì các quốc gia của các cư dân Bách Việt bị họ sát nhập vào đế quốc Tần.  Tuy sức mạnh vô địch như vậy, song Tần vẫn không chiếm được Aâu Lạc của An Dương Vương . Về sau, nhân thời cơ nhà Tần suy đốn,Triệu Ðà cắt cứ Phiên Ngung,xưng là Nam Việt đế của nước Nam Việt. Sau đó Triệu Ðà thôn tính Aâu Lạc sát nhập vào nước Nam Việt. Tuy bị sát nhập vào cùng một mối, song nền văn hóa dân gian vẫn duy trì được nguyên vẹn cho đến ngày nay.

 

Trong các bộ môn văn hóa dân gian ngày nay vẫn còn giữ được các điệu vũ Xuân Phả nổi tiếng. Những người vũ điệu Xuân Phả đều đeo các mặt nạ được tô vẽ sơn phết các bộ mặt kỳ dị và ăn vận áo quần quái gở, vừa nhảy múa, vừa ca hát phát ra những âm điệu kỳ dị  má người nghe có cảm tưởng như mình bị lạc vào một rừng âm thanh từ một cõi siêu linh huyền nhiệm nào……

 

Người dân địa phương cho rằng sở dĩ có điệu múa Xuân Phả cùng các cung cách ăn vận, đeo mặt nạ, vũ lộng và phát ra những âm thanh theo vũ điệu  là để nói lên tinh thần “Văn Lang” xuất phát từ mười lăm bộ trong quốc gia này lúc bấy giờ, với mục đích chứng tỏ tinh thần liên kết chặt chẽ chung quanh nhà vua…Tuy nhiên cũng có lắm tư liệu khác nhau, có người bảo vũ điệu Xuân Phả xuất phát từ thời vua Hùng, cũng có người cho là có từ đời Ðinh Tiên Hoàng v.v… Mọi cuộc tổ chức các vũ điệu Xuân Phả đều mang tính lịch sử mythologique  hay là tính thần thoại nói lên ý nghĩa lịch sử của nó (historico-mythologique),

 

Các quốc gia Ðông Nam Á đều có những tập tục lễ lạc theo tính lịch sử ví như người Lào thường được diễn ra trong một năm đến hai lần khi các tù trưởng ở các miền rừng núi được nhà vua cho vời họ về kinh đô cùng nhau chúc phúc. Mỗi lần như vậy họ mang theo những quả bầu đến để dâng lên chúc cho nhà vua được “vạn thọ vô cương” và đổi lại nhà vua công nhận địa vị của họ không kém phần quan trọng. Các nghi thức của các bộ lạc dành cho ngày lễ hội, là họ thi nhau bắn tên trước cung điện với mục đích xua đuổi tà ma để nhà vua khỏi bị phá phách. Sau đó, nhà vua nắm lấy vắt xôi lăn nơi ngực mình đoạn hướng về phía các tù trưởng dõng dạc nói ” Mong rằng trẩm trường thọ hơn các khanh”. Sau khi nhà vua dứt lời,tức thì các tù trưởng đang hiện diện cùng hô vang lên:” Ðúng như vậy! Ðúng như vậy! Nhà vua vạn thọ vô cương” ! Ðợi các tù trưởng đáp xong nhà vua mới ném vắt xôi đang cầm trong tay về phía họ đang đứng. Thế là họ cùng kéo nhau chạy thẳng về buông làng  coi như là lễ chúc phúc đã hoàn tất. Nhưng khi về đến buông,trước khi bước chân vào nhà họ làm phép trừ tà khí. Tương truyền, nếu nắm xôi nhà vua ném nhằm trúng  vị tù trưởng nào thì…họ tin rằng năm ấy  vị tù trưởng thiếu may mắn đó thế nào cũng  lâm bệnh chết. Chẳng biết từ xưa nay đã có xảy ra trường hợp  chết vì nắm xôi của nhà vua hay  không,song các tù trưởng đều tin như vậy.

 

Các câu chuyện thần thoại nào cũng nói lên hoặc xuất xứ  của dân tộc mình hoặc nói lên sự tích của những mối tình giữa người phàm tục với các nàng tiên nga…hay chuyện của những bậc anh hùng cái thế v.v… Như câu chuyện  :

 

YẾT KIÊU

NGƯỜI HÙNG CỦA  DÂN TỘC

Tại làng Hạ Bì có người Yết Kiêu  chuyên hành nghề ngư phủ. Có một hôm, Yết Kiêu mãi lo bũa lưới, nên quên cả mặt trời đã lặn từ bao giờ, khi thấy bóng đêm buông xuống, mới giật mình cho thuyền vào bờ neo lại, đoạn đi dọc theo bờ biển về nhà. Ði được nửa đường bỗng nhìn thấy trên bãi cỏ dưới ánh trăng tỏa chiếu có hai con trâu đang hì hục chọi nhau một cách hùng hổ,tưởng cơ hồ như trời long đất lở. Yết Kiêu sẵn đòn ống trên tay, ông ta xông lại phang mạnh vào mình mỗi con năm ba cái như trời giáng. Bỗng dưng hai con trâu này rời nhau ra cùng chạy xuống biển lặn xuống biến mất tăm dạng. Ðứng chờ mãi vẫn không thấy chúng  xuất hiện lại, ông nghi rằng có thể đó là các vị thần ngưu chăng! Bát giác ông đưa mắt  nhìn lại cái đòn ống  trong tay mình đang cầm , nhận thấy có mấy cái lông trâu còn dính lại, biết là vật quý, ông bèn bỏ vào miệng nuốt đi.

 

Cũng kể từ đó sức khỏe của ông ngày một tăng trưởng thêm mạnh hẳn hơn mọi người. Lúc bấy giờ người trong vùng chẳng ai có thể dám cùng ông địch lại. Ðặc biệt là ông lại có thêm tài lội nước. Mỗi lần ông nhảy xuống  biển bắt cá như thể đang đi trên bờ vậy. Có nhiều khi ông lặn xuống dưới lòng biển ở mãi đến năm bảy ngày mới trồi lên, điều này lại càng làm cho mọi người thán phục không ít.. ..

 

Rồi có một ngày kia, đất nước ta bị  quân địch kéo hơn trăm chiếc tàu chiến tiến vào cửa bể Vạn Ninh vây bắt giữ tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới.   Quân giặc đi đến đâu cướp phá đến đó gây không biết bao nhiêu tang thương chết chóc…Phần  các chiến thuyền của nhà vua bị quân giặc đánh tan, phần nhà cửa xóm làng hoàn toàn đổ nát.. Thế giặc mạnh  không ai có thể cản ngăn nổi. Càng ngày quân ta càng bị tiêu hao không ít, nhà vua lo sợ cơ nguy đất nước sẽ không còn, bèn sai sứ đi rao truyền trong thiên hạ, nếu ai có thể đương cự đánh tan được quân giặc xâm lăng kia sẽ phong thưởng cho quyền cao lộc lớn.

 

Yết Kiêu nghe tin bèn đến xin được làm điều này. Nhà vua phán hỏi:

 

–          Nhà ngươi có thể đánh đuổi được kẻ địch thế mạnh đến thế kia sao ?

 

–          Muôn tâu bệ hạ, hạ thần tuy tài hèn sức mọn, nhưng sẽ mang  tất cả các mạng sống của kẻ thù vào trong bụng cá.

 

Vua phán hỏi:

 

–          Vậy khanh cần bao nhiêu ngàn binh sĩ cùng với bao nhiêu tàu thuyền để ra nghênh địch?

 

–          Muôn tâu bệ hạ ! Không cần binh sĩ mà cũng chẳng cần thuyền bè. – Yết Kiêu ung dung đáp lại.

 

–          Vậy thì trẩm phong cho khanh làm Ðô Thống, chủy huy cả binh đoàn thủy quân còn lại đó !

 

Nhân sắc chỉ  của vua xong, Yết Kiêu – vị  Tân Ðô Thống này mang quân đến Vạn Ninh chuẩn bị nghênh địch!  Khi đến nơi, ông lền cho ba quân dựng trại nghỉ ngơi. Oâng chọn một số làm môn hạ sai đi sắm cho mình một cái khoan, một cái búa, xong xuôi âm thầm đơn thân độc mã lặn xuống biển, tiến ra chỗ có thuyền bè địch quân đang neo giữa khơi. Gần đến nơi ôâng nhảy xuống lặn một hơi đến  ngay bên dưới các chiến thuyền của địch, đoạn  dùng khoan khoan lủng cả một số không ít đáy tàu, xong  dùng búa đập vỡ cả các lườn tàu mà quân địch hoàn toàn không hay biết. Yết Kiêu làm rất lanh lẹ nên chỉ trong không bao lâu nhiều chiến thuyền địch bị nước tràn vào chìm dần xuống lòng biển mang theo không biết bao nhiêu binh sĩ  làm mồi trong bụng cho cá.

 

Chỉ trong vòng một hôm mà ngót cả hơn hai mươi chiến thuyền quân giặc đắm luôn một lúc. Quân giặc hoảng sợ rối rít cả lên. Các viên tướng chỉ huy trên các tàu sai những tên quân có tài bơi lội lặn xuống do thám tình hình vì sao chiến thuyền bị chìm. Ðám tinh binh này tìm mãi mới thấy Yết Kiêu đang khoan một chiếc thuyền lớn có tên tướng soái bên trên, bèn xúm nhau xông lại,nhưng ông ta không để cho một tên nào sống sót.

 

Bên trên không  thấy những tên quân do thám của mình sai lặn xuống trở lại lên, biết là cơ nguy, viêc tướng soái bèn mang ống nhòm bằng thủy tinh  có phép nhìn thấu được tận dưới lòng đáy biển, nhìn thấy rõ ràng ông Yết  Kiêu đang boi qua boi lại chẳng khác nào như một loài kình ngư. Chúng bèn đem cái vỏ sắt ra đứng rình rập đợi ông đang mải mê lo đục tàu hè nhau buông xuống chụp lấy ông. Quả nhiên, chúng bắt sống được mang lên khoang thuyền tra hỏi:

 

–          Hảy khai cho ta biết có bao nhiêu đứa có tài lặn như mày vậy?

 

Oâng khẳng khái nói:

 

–          Ta chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt. Trên ta còn biết bao nhiêu người đi lại dưới nước hàng năm chẳng biết mệt bao giờ. Còn tầm thường như bọn ta, thì hàng trăm chiến thuyền của mầy chở đi cũng không hết được.

 

Nghe nói thế, viên chủ tướng này kinh hãi, bèn dịu giọng dỗ dành:

 

–          Mày muốn được  chức cao lộc lớn, hãy đưa chúng tao đi bắt trọn bọn kia. Ðược việc sẽ mang nhà ngươi về thiên triều trọng dụng, bèn trái lời thì tao sẽ giết chết ngay.

 

Oâng Yết Kiêu gật đầu:

 

–          Ðược. Ta sẽ chỉ cho mà bắt.

 

Quân giặc tưởng thật bèn ông ngồi trên chiếc thuyền sắt cùng với mười tên quân võ nghê cao cường để thi hành lệnh truy nả.  Khi chiếc thuyền sắt ra giữa khơi, thừa cơ chúng bất ý  ông nhảy xuống nước lặn mất. Mươi tên quân trên thuyền nhìn nhau ngơ ngác chẳng dám nhảy theo xuống.  Lúc bấy giờ các chiến thuyền lần lượt bị nước vô lần lượt chìm chết vô số binh sĩ,  lại nghe Yết Kiêu khai người tài lặn lội như ông không sao kể xiết, nên cuối cùng bàn nhau tháo chạy không còn manh giáp.

 

Nhà vua được tin đại thắng mừng quá, ban lời khen ngợi Yết Kiều, và lập tức phong ông làm Ðại Vương. Về sau ông qua đời, mọi người nhớ ơn ông đã cứu nước giữ yên được cõi bờ bèn chẳng những lập đền thờ  ngay cửa Vạn Ninh  mà còn dựng lên ở các cửa biển khác nữa.

 

 

THINH QANG

 

 

Bình luận về bài viết này