Đánh Libya hay đập heo đất?

Đánh Libya hay đập heo đất?

Ngythanh

Ngày 7/03 vừa qua, một số không ít nhà làm luật của quốc hội Mỹ đã kêu gọi tổng thống Obama tung chưởng “khui kho dầu dự trữ” ra làm biện pháp chống đỡ giá xăng dầu tăng vọt, sau khi chiến sự lan rộng ở Libya. Ký giả Wolf Blitzer của CNN đã có cuộc phỏng vấn ông Bill Richardson cựu thống đốc tiểu bang New Mexico về tương lai của chính phủ Tripoli và về đề tài liệu Mỹ có nên khui “heo đất” lấy dầu dự trữ ra dùng:

Wolf Blitzer: Khối Nato đang tiến hành dùng máy bay thám thính để ngày đêm theo dõi tình hình chiến sự tại các mặt trận ở Libya. Các viên chức Liên Hiệp Quốc, như tôi biết, đang cảnh cáo rằng chúng ta sẽ chứng kiến thêm màn tàn sát trong những ngày sắp tới khi Muammar Gadhafi thẳng tay trong cuộc chạm trán để bám víu quyền lực. Dù sao, đến giờ nầy Hoa Kỳ và Đồng Minh vẫn chưa có quyết định gì về một vùng cấm bay. Góp mặt với chúng ta hôm nay là nhà ngoại giao Bill Richardson nổi tiếng là chuyên gia tháo các ngòi nổ chính trị, là cựu thống đốc tiểu bang New Mexico, cựu đại sứ HK tại LHQ, và là cựu Bộ trưởng Bộ Năng Lượng. Thưa ông Đại sứ, cảm ơn ông đang có mặt. Ông cho phép chúng tôi gọi ông là ông đại sứ hay ông thống đốc đây?

Bill Richardson: Cứ gọi tôi là Bill. Đã cùng nhau đi Bắc Triều Tiên, nay anh muốn gọi tôi thế nào thì gọi.

WB: Vâng, tôi đã đi cùng chuyến sáu ngày qua Bắc Triều Tiên với thống đốc Richardson. Nhưng để chuyện đó lại khi khác sẽ nói, còn bây giờ chúng ta nói về Libya. Tới một lúc nào đó, một ai đó sẽ phải bay tới Tripoli, nhìn thẳng vào mắt Gadhafi và nói, đại tá ơi, hết rồi, hết cả rồi. Ông có thể sẽ bị giết tại đây hoặc là ông có thể cuốn gói và tới một nơi nào khác. Nếu thế, ai sẽ là người thích ứng nhất để tới đó và nói toạc ra lời nhắn nhủ ấy?

BR: Phải là một ai đó cỡ như Colin Powell. Phải là một nhân vật khả tín về ngoại giao nhưng đi kèm kinh nghiệm quân sự. Một người nào đó mà ông Gadhafi biết là rất gần gũi với tổng thống Obama. Dĩ nhiên có nhiều người như thế, nhưng với tôi thì tướng Powell giữ vị trí đầu sổ. Và tôi nghĩ chuyện ấy phải tới thôi vì hiện Gadhafi đang đeo bám vào quyền lực, mà cơ may của ông ấy hết sức hạn chế.

WB: Một lãnh tụ nào trong khối Ả rập có thể làm chuyện nầy không nhỉ? Một vị hoàng gia hay một ông tổng thống nào đó rất thân cận với Gadhafi để có thể nói bạn thấy đó, đại tá ơi, bạn phải đánh bài tẩu mã thôi.

BR: Tôi không nghĩ thế. Ông ta ở chừng mực nào đó đã từng là lãnh tụ của châu Phi, ngang vai với tổng thống Sudan, hay ít nữa cũng khu vực Bắc Phi, cỡ như Nelson Mandela. Nhưng tôi không nắm vững về tình trạng sức khỏe của ông ta, với lại tôi nghĩ tình hình sẽ diễn biến rất chóng vánh. Phía người Ý có ảnh hưởng rất nặng ký với Libya, nhưng tôi cho rằng cần phải một ai đó có liên lạc mật thiết với Hoa Kỳ.

WB: Giờ nây ông ấy vẫn nhận được những lời lẽ tốt đẹp từ Hugo Chavez bên Venezuela đó chứ; ông nầy vẫn ca tụng ông ta, và tấn công Mỹ. Tới Fidel Castro cũng viết những dòng chữ rất tốt về Gadhafi. Nhưng chẳng ông nào trong hai ông nầy dám bảo Gadhafi đã tới ngày tận số.

BR: Chẳng ông nào. Thực ra. Nếu Gadhafi tính đường lưu vong, có thể chỉ có hai hay ba người muốn chứa ông ấy. Anh còn nhớ là phía Ả Rập Saudi…

WB: Thế còn Mugabe của Zimbabwe.

BR: Vâng, thì Mugabe xứ Zimbabwe. Hẳn anh còn nhớ là gia đình hoàng gia xứ Saudi, họ từng chứa chấp Idi Amin đó.

WB: Vâng.

BR: Nhưng họ vừa bảo họ sẽ không chứa Gadhafi vì ông nầy đã tìm cách hạ bệ họ.

WB: Còn ông thì sao? Nếu có ai đó bảo rằng, Bill à, anh thấy đó, anh đã chạm trán với những tổ sư ngoại giao sừng sỏ khắp năm châu bốn biển, chẳng hạn như chuyến chúng ta đi Bắc Triều Tiên vừa rồi. Anh tính sao nếu người ta phái Bill Richardson tới Tripoli để chuyển thông điệp cho Gadhafi? Tôi biết chắc là ông ta sẽ tiếp ông, nhưng câu hỏi là, ông có nhận lời không?

BR: Vâng, thì tôi sẽ thi hành, nhưng tôi chẳng là một nhân viên ngoại giao đúng nghĩa của Bộ Ngoại Giao Mỹ.

WB: Tuy không, nhưng ông vẫn làm hoài hoài. Ông đã tới Syria, tới Iran, tới Cuba. Ông đã tới nơi nầy nơi kia trên thế giới trong những tình huống tương tự.

BR: Vâng, cố nhiên, nếu tổng thống đề cử tôi, tôi sẽ nhận lời, nhưng tôi không nghĩ đó là nước cờ của tổng thống. Tôi nghĩ là Nhà Trắng thích một nhà ngoại giao truyền thống hơn, và thế nào họ cũng sẽ kiếm ra một người thích nghi để làm chuyện ấy.

WB: Và ông nghĩ rằng chuyện vùng cấm bay, đề tài mà ông nhắc tới mấy hôm nay, là một nước cờ sáng, nước Mỹ nên làm, cho dù ông Bộ trưởng QP Gates và ông Bill Daley tham mưu trưởng của tổng thống và nhiều người khác nữa cứ nhắc đi nhắc lại, quý vị biết không, đây không phải là một trò chơi ‘game’ trên màn ảnh, mà là một trận chiến hóc búa thực sự?

BR: Vâng, điều mà tôi đã nói, là nên có vùng cấm bay đặt dưới sự quản trị của Nato, và được cộng đồng quốc tế nhìn nhận. Tôi nghĩ nếu thông qua ngã LHQ, anh sẽ vấp phải quyền phủ quyết của người Nga và người Tàu. Tôi suy nghĩ là có nhiều cách để mình có thể giúp phía kháng chiến. Chúng ta có thể giúp bằng cầu không vận chở tới phẩm vật cứu trợ nhân đạo. Tôi cũng đồng tình với các nỗ lực bí mật nhằm vũ trang cho phía kháng chiến. Tôi nghĩ chúng ta cần đứng về phía kháng chiến, nhưng phải cùng cộng đồng quốc tế, với các quốc gia Pháp, Anh, khối Nato và những nước ngoài khối Nato. Chúng ta phải thận trọng khi thiết lập một vùng cấm bay. Chúng ta không thể cứ nhắm mắt làm bừa.

WB: Trong tất cả các bài tường thuật của tôi, trong bộ máy hành pháp của chính quyền, có vẻ như chính phủ HK chưa nắm vững được lý lịch lập trường của những người lãnh đạo phía kháng chiến. Chứ nếu như có thể tin vào nhóm nầy, họ đã giao các giàn hỏa tiễn Stinger hay loại hỏa tiễn vác vai để bắn hạ máy bay chiến đấu của Tripoli. Cái khó là chính phủ không dám chắc liệu vũ khí họ đưa có lọt vào tay đúng người đúng việc.

BR: Như thế nầy, đôi khi mình phải coi như canh bạc thôi, mình phải dám bạt mạng. Họ là dân kháng chiến. Họ thuộc thành phần nam nữ trẻ trung, những người muốn Gadhafi ra đi. Họ không có một cơ cấu chính quyền hay quân sự tuyệt đối. Có vẻ như họ đang thành lập một chính phủ lâm thời, nhưng tôi nghĩ sau cùng rồi Hoa Kỳ và Nato cũng cần đứng về phía những người muốn bứng gốc Gadhafi, và hậu thuẫn cho họ. Khi dùng biện pháp quân sự, chúng ta cần rất thận trọng, chúng ta cần giúp về mặt ngoại giao, về lãnh vực nhân đạo, có thể cũng cần công nhận chính phủ lâm thời một khi họ thành lập xong nữa. Chỉ trừ một điều chúng ta không muốn xẩy ra ở bên ấy, là cuộc tàn sát dân Libya…

WB: Vâng.

BR: … trong khi cộng đồng quốc tế chỉ có ủng hộ bằng nước bọt. Tôi thích câu nói dứt khoát của tổng tống Obama rằng Gadhafi phải ra đi. Tổng thống đang lập liên minh ngoại giao, điều ấy tốt, nhưng tôi cho là chung cuộc chúng ta vẫn cần phối hợp nỗ lực quân sự với khối Nato.

WB: Đội chiếc nón cựu Bộ trưởng Năng Lượng Mỹ lên đi, thưa thống đốc, để cho tôi hỏi câu nầy: trong tình hình giá xăng nhảy vọt trên mỗi gallon như hiện nay, có phải đã đến lúc cần rút dầu dự trữ tung ra thị trường để bảo đảm giá cả không vượt 4 đô một gallon?

BR: Vâng, tôi nghĩ chúng ta cần. Chúng ta phải rút dầu dự trữ để bảo vệ giá nhiên liệu sưởi ấm và tình trạng của các tiểu bang vùng Đông Bắc. Chúng ta cần rút ra để chặn đứng…

WB: Rút ngay tức khắc?

BR: Vâng, để nhằm chặn đứng…

WB: Hồi ông còn nắm Bộ Năng Lượng, Bill Clinton đã rút.

BR: Chính tôi rút. Tổng thống Clinton ra lệnh cho tôi rút.

WB: Và đó là lần thứ nhì trong lịch sử mà Hoa Kỳ phải làm như thế.

BR: Đúng, vì lý do sưởi ấm của dân chúng.

WB: Ngay bấy giờ, biện pháp ấy có là một quyết định đúng?

BR: Đúng chứ, vì giá cả đã tụt xuống, và biện pháp ấy đã ngăn chặn được mưu toan của các nước sản xuất dầu lửa nhằm làm giá. Điều mà các nước OPEC cần làm để giá cả sụt xuống là tăng sản lượng. Khi chúng ta ngăn chặn như thế, chúng ta đã gởi một tín hiệu tới các thị trường rằng giá đã quá cao. Và đúng là giá đã quá cao. Con số người sử dụng xe hơi ở Mỹ và khắp nơi trên địa cầu là một vấn nạn. Cho nên tôi cho là cần rút dầu dự trữ, và rút tới mức cần thiết, cũng như rút ngay tức thì.

WB: Thống đốc Richardson, xin cảm ơn ông nhiều vì sự hiện diện của ông với chúng tôi.

BR: Cảm ơn anh. Cảm ơn đã mời tôi lên đài.

oOo

Qua bài phỏng vấn, và qua tất cả tin tức chính trường và chiến sự, chúng ta thấy mọi người tập trung bàn tán hai vấn đề lớn có liên quan ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp tới nỗi quan tâm mà mỗi chúng ta không thể né tránh mỗi khi mang xe ra cây xăng để đổ thêm xăng: đó là lệnh cấm bay và “đập heo đất”, mang dầu dự trữ ra dùng, để ứng phó với quyết tâm tham quyền cố vị của Muammar Qadhafi vì ngài đại tá tiếp tục tàn sát và đàn áp phong trào kháng chiến Libya.

Thiết lập Vùng Cấm Bay

Dù do phe kháng chiến nổi lên đòi lật đổ chính quyền độc tài kéo dài 41 năm của Qadhafi, hay vì nỗi lo sợ sẽ không đủ xăng để dùng làm giá dầu xăng tăng vọt, chung quy cũng bởi chính quyền Libya sử dụng không quân để ném bom vào dân quân kháng chiến. Để ngăn chặn việc giết dân như thế, lệnh cấm vận của Liên Hiệp Quốc đã ban hành không đủ để trói tay Qadhafi, làm người ta nghĩ ngay đến việc tuyên bố một vùng cấm bay, nhằm vô hiệu hóa không quân Libya. Nhưng muốn thiết lập một vùng cấm bay, tướng Mỹ James Mattis giải thích với quốc hội rằng trước tiên HK phải nhổ những ổ phòng không Libya, trong đó có những giàn hỏa tiễn địa không ngụy trang rất kín khó lòng phát hiện.

Mặc dù không quân Libya không khủng khiếp như Luftwaffe của Đức Quốc Xã dạo Thế Chiến Thứ Nhì, nhưng họ cũng có hệ thống phòng không, và cũng có phản lực chiến đấu để lên nghênh chiến với máy bay quốc tế can thiệp sâu trong không phận của họ. Ngược lại, nếu cần phía Mỹ chỉ việc ném dăm ba trái bom nặng ký để dào vài cái hố rải rác dọc trên phi đạo của địch, là máy bay của Qadhafi chỉ còn nước nằm ụ. Vấn đề then chốt là Qadhafi sẽ không chỉ dùng các phi đoàn phản lực của mình, mà tập trung mang trực thăng ra để nả rocket xuống dân dưới đất. Trực thăng là loại vũ khí bay chậm, bay thấp, ẩn hiện bất thường, ma ma phật phật, làm loại máy bay tuần tiểu hiện đại E-3 Sentry khó lòng lần tìm dấu vết.

E-3 Sentry còn được gọi là AWACS, do chữ Airborne Warning and Control System (hệ thống kiểm soát và cảnh báo trên không) –  là loại máy bay do một bộ phận chuyên trách về quốc phòng và không gian của hảng Boeing đảm trách thiết kế và sản xuất theo đơn đặt hàng quân sự. Dùng bản vẽ kiểu máy bay dân dụng 707 làm chuẩn, hảng Boeing gắn thêm cái tháp mái vòm với đường kính 9 mét trên lưng chứa bộ phận ra-đa xoay vòng, có thể hoạt động dưới tất cả các điều kiện thời tiết và khí tượng. Vòm mái nằm bên ngoài thân tàu chứa một bộ phận ra-đa cho phép thực hiện quan sát từ bề mặt trái đất lên hạ tầng không gian, trên biển hay trên bộ, trong phạm vi hơn 250 dặm (375.5 km). Tàu E-3 do một phi hành đoàn 4 người cầm lái, chở theo toán chuyên viên 19 người lo việc sử dụng tất cả các trang thiết bị thông tin và điện toán trên tàu. Tàu dài 46.61 m, sải cánh 44.42 m, cao 12.6 m, trọng lượng riêng con tàu 73 tấn rưỡi, trọng lượng khi cất cánh kể cả nhiên liệu và trang thiết bị là 156.5 tấn, hoạt động ở tầm cao 12.500 mét, bay liên tục 10 giờ hoặc 8.000 km trước khi phải trở về căn cứ lấy thêm xăng nếu không được tiếp xăng khi đang bay. Bản thiết kế máy bay được thí nghiệm, lượng định và chuẩn thuận vào tháng 10/1975, nhưng mãi tới tháng 03/1977 Phi đoàn 552 Kiểm soát và Cảnh báo Mỹ mới nhận được chiếc đầu tiên, giao hàng tại Căn cứ Không quân Tinker, Oklahoma. Khi ngừng sản xuất vào năm 1992, Boeing chỉ cho xuất xưởng tới chiếc thứ 68: hiện Không lực Mỹ sở hữu 32 chiếc, gồm 27 chiếc đóng tại căn cứ Tinker, 2 chiếc biệt phái cho Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương tại căn cứ Kadena bên Okinawa và 2 chiếc tại căn cứ Elmendorf ở Alaska. Chiếc sau cùng được BQP giao cho hảng Boeing quản lý để dùng vào việc thí nghiệm và phát triễn các phát minh mới. Cùng với Hoa Kỳ, nước Anh mua 7 chiếc, Pháp 4, Ả-rập Saudi 5 và Nhật 4 chiếc. Phần còn lại nằm trong tay khối Nato, đặt căn cứ tại Geilenkirchen bên Đức.

Khi đang bay, hệ thống điện toán và ra-đa trên tàu có thể thu thập các dữ kiện chiến trường đang xảy ra với đầy đủ các chi tiết, gồm cả vị trí di động của máy bay và tàu chiến đối phương, cũng như tình trạng của máy bay và hạm đội bạn bên dưới. Các thông tin nầy được xử lý ngay trên tàu, hoặc chuyển ngay về Trung tâm Hành quân ở Mỹ. Được xử lý tại chỗ là loại thông tin chiến thuật để yểm trợ tác xạ bằng phi cơ cho quân bạn dưới đất, hay các thông tin để can thiệp, tình báo, không vận. Thông tin cũng được chuyển tới cho các tư lệnh chiến trường để họ dễ điều khiển các trận không chiến.

Là hệ thống phòng thủ trên không, máy bay E-3 có thể phát hiện, xác minh hay theo dõi các hoạt động không quân của lực lượng đối phương, ở tầm rất xa bên ngoài biên giới lãnh thổ Mỹ và lãnh thổ các nước trong khối Nato. Từ trên tàu, các sĩ quan chuyên viên có thể quyết định để ra lệnh cho máy bay chiến đấu phe bạn xung trận hay ném bom các mục tiêu địch. Lịch sử chiến trường cho thấy tầm hữu hiệu của loại máy bay E-3 nầy trong công tác xử lý tại chỗ các tình huống hành quân ngay tức khắc, thay vì bị trì chậm qua hệ thống quân giai và lệ thuộc các hậu cứ. Trong cuộc hành quân Bão Sa Mạc, tàu E-3 đã thực hiện hơn 400 phi vụ với trên 5 ngàn giờ bay, và kiểm soát trên 120.000 phi xuất oanh kích của không quân phe đồng minh, cũng như hướng dẫn 38 trận không chiến trong suốt cuộc chiến.

Tối tân, nhưng không phải tuyệt đối: trong quá khứ, tàu E-3 đã bị vài tai nạn lớn, làm thiệt mất 1 chiếc của Nato và 2 chiếc của Không quân Mỹ. 7g47 sáng ngày 22/09/1995, chiếc E-3 mang mật danh Yukla 27 (theo thổ ngữ dân Alaska có nghĩa là Phượng Hoàng 27) đã rớt và nổ tan tành ngay lúc cất cánh từ căn cứ Elmendorf, Alaska, vì bị mất sức đẩy sau khi cả hai động cơ phản lực bị trám nghẽn vì bầy ngỗng trời dày đặc. Máy bay đã lao xuống cánh rừng rậm cách phi đạo 3km về phía đông bắc, giết chết toàn thể 24 quân nhân vừa Mỹ vừa Canada trên tàu. Ngày 14/07 năm kế tiếp, chiếc E-3 của Nato mang số hiệu LX-N90457 khi cất cánh ở căn cứ Preveza bên Hi Lạp đã trượt khỏi đường băng và lao xuống biển. Thân tàu đã gảy làm đôi, chiếc máy bay bị phế thải hoàn toàn nhưng không ai trong số chuyên viên 16 người có mặt trên tàu thiệt mạng. Ngày 28/09/2009, một chiếc E-3 khác của Không lực Mỹ đã lâm nạn do phán đoán sai của phi công, làm gảy bánh trước khi đáp ở căn cứ Nellis. Chiếc tàu sau đó phải sửa chữa tốn hết 100 triệu, tức 37% giá chế tạo một chiếc mới trị giá 270 triệu. Ngày 8/10 năm ngoái, một chiếc E-3 khác của Không quân Mỹ mang số hiệu 77-0353 lâm nạn vì bánh trước bị kẹt không mở được khi đáp. Cũng may, tàu không bắt lửa cháy vì phi đạo lúc ấy còn ướt sau cơn mưa.
Mọi khi, Nhà Trắng muốn gì đều phải điều trần năn nỉ ỉ ôi bên lập pháp. Lần nầy, các nhà làm luật hối thúc hành pháp thiết lập vùng cấm bay lên Libya, tổng thống Obama lại lững lơ con cá vàng. Cũng chẳng phải là vì ông đã thừa hưởng 2 gánh nặng chiến tranh Iraq và Afghanistan do ông Bush để lại đã quá tải trên vai. Chính cái thận trọng của ông là một hình thức đối ngoại khôn khéo, nhất là khi cờ chưa đến tay để phất. Trên mặt trận ngoại giao, đại sứ Libya tại Washington đã đào ngũ, và Obama công khai tuyên bố Gadhafi bất xứng trong vai trò lãnh đạo đất nước, còn phe dân quân kháng chiến tỏ ra không những yếu kém về năng lực tổ chức; sức mạnh của họ chỉ là sự can trường và lòng thù ghét chính phủ Tripoli. Ngoài mặt trận, mỗi người dân quân đều hiên ngang đứng thẳng người cầm súng nhỏ bắn bừa lên trời, coi cái chết tựa lông hồng, và không buồn nhắm máy bay trong lỗ chiếu môn. Phương tiện chuyển quân và tác chiến là những chiếc truck cá nhân đủ kiểu, đủ màu, với các giàn phòng không mà họ tịch thu được thả lên thùng phía sau. Họ có trái tim, và lòng hi sinh vật chất cũng như tính mạng của họ thật đáng kính trọng, nhưng lề lối chiến đấu vô chính phủ và không bài bản quân sự khó dẫn họ tới chiến thắng. Trên diễn đàn chính trị, họ tuyên bố họ cần Mỹ giúp, cần quốc tế cấm không quân của Gadhafi bay, và cần vũ khí – nhưng không muốn bất cứ chiến binh ngoại quốc nào tới nước họ. Chưa tử thủ thành phố dầu lửa Ras Lanuf được bao nhiêu ngày đã để bị đánh bật ra, mà họ đã muốn Washington phải quì gối khi nói chuyện với họ, về một cuộc chiến mà họ coi như đang ngồi trước màn ảnh, với cái máy chơi game.

Trong thực tế, để tiến hành thiết lập một vùng cấm bay không đơn giản là một cú điện thoại gọi Gadhafi rồi bảo ông ấy rằng máy bay của ông không được phép cất cánh. Một cách khái quát, bước một khi phải thiết lập vùng cấm bay là triệt hạ tất cả những giàn cao xạ, các ổ hỏa tiễn phòng không, các giàn ra-đa, hay bất cứ những gì mà đối phương có thể dùng để bắn hạ chiếc máy bay của phe bạn tuần thám vùng cấm bay, mặc dù không nhất thiết là mọi tư lệnh chiến trường đều phải làm thế: máy bay của khối Nato trước kia đã không xóa sổ các ụ phòng không ở phía bắc và phía nam Iraq, hay vùng trước kia là Nam Tư, khi khởi sự các phi vụ tuần thám. Nhưng lần nầy Bộ trưởng Quốc phòng Gates nói rất cặn kẽ, rằng ông sẽ không cho máy bay xuất kích vào không phận Libya nếu như việc dọn dẹp mạng lưới phòng không diện địa chưa thi hành tới nơi tới chốn. Nếu kế hoạch của ông là điều tất yếu, Hoa Kỳ sẽ phải tiêu diệt lực lượng phòng ngự của Gadhafi, trước khi cho từng cặp phản lực chiến đấu vừa F-15 vừa F-16 tuần tra không phận Libya theo những trục bay không định trước suốt phi vụ kéo dài mỗi sáu tiếng đồng hồ. Nếu phi công bị hỏa lực dưới đất khiêu khích, họ sẽ xung trận ngay, nhào lộn và quần thảo mục tiêu để tìm điểm xuất phát hỏa lực địch và xạ thủ, trước khi xác định vị trí đối phương và dùng hỏa tiễn không địa để đáp lễ.

Phía đồng minh sẽ cần nhiều máy bay để áp đặt lệnh cấm bay. Ông Gates điều trần với quốc hội rằng chỉ một chiếc hàng không mẫu hạm sẽ không làm được việc. Mỗi hàng không mẫu hạm thường chỉ là căn cứ xuất phát cho khoảng 80 máy bay tiêm kích, chỉ vừa đủ để đảm đang công tác tuần thám trên không, nhưng Mỹ sẽ cần thêm nhiều loại máy bay khác để hỗ trợ cho giàn máy bay tiêm kích nầy. Trong các phi vụ cấm bay trước đây, Mỹ đưa vào tham chiến một chiếc E-3 Sentry làm công việc lùng tìm máy bay đối phương, một chiếc Hercule HC-130 đảm trách công tác tìm và cứu phi công lâm nạn, một chiếc KC-135 lo tiếp tế nhiên liệu trên không, và một chiếc RC-135 chịu trách nhiệm truy tìm hoạt động ra-đa của phía địch. Những máy bay nầy tương đối to lớn, kềnh càng, không thể cất cánh hạ cánh trên phi đạo ngắn của hàng không mẩu hạm. Có những loại máy bay khác nhỏ hơn có thể đảm trách các công tác ấy, nhưng những kiểu nầy lại không ở trên trời được lâu. Phi công có nhiệm vụ tuần tiểu vùng cấm bay cho đây là loại hành quân chán ngấy và buồn ngủ nhất vì họ biết rất ít cơ hội gặp đối phương trong những trận không chiến. Trong thập niên 1990, phi công Nato chỉ bắn hạ được một máy bay Iraq duy nhất, và chiếc máy bay nầy bị xử tử trước cả khi kịp dẫn xác vào vùng cấm bay. Sau trận nầy, Saddam Hussein và Slobodan Milosevic đều mang máy bay giấu thật kỹ dưới đất, mặc cho phi công Hoa Kỳ đơn thương độc mã, múa gậy vườn hoang trên trời.

Như thế, một vùng cấm bay có thể hiểu như một khu phi quân sự trên không, nhưng vấn đề là Mỹ sẽ không một mình nhảy vào cuộc. Chính phủ Mỹ tuyên bố rất cụ thể, rằng bạo loạn tại Libya và bất ổn tràn lan tại Bắc Phi và Trung Đông không làm tổn hại cho an ninh quốc gia Hoa Kỳ, nên Hoa Kỳ chỉ tham dự nếu cộng đồng quốc tế đồng thuận, cùng làm, và có sự tham gia của các nước Ả Rập. Nói cho dễ hiểu: chuyện rối loạn tại khu vực nầy không là chuyện của nước Mỹ và dân Mỹ, nên Mỹ không bỏ tiền tốn của để mang tiếng dòm ngó vào nguồn dầu lửa không đáy của xứ Libya; Mỹ chỉ làm nếu các quốc vương dầu lửa Ả Rập chịu chi trả chiến phí. Tới nay, chủ nhân các túi dầu Trung Đông đã hiểu ra: 22 bộ trưởng ngoại giao của họ kết thúc phiên họp ở Cairo hôm 12/03 với thông cáo chung kêu gọi Hội đồng Bảo an LHQ tuyên bố Gadhafi mất chủ quyền cai trị Libya, và khẩn thiết xin áp dụng vùng cấm bay để cứu thường dân vô tội. Hẳn là họ cũng đã kín đáo thỏa thuận với nhau mức độ và thể thức trả tiền cho Nato và Hoa Kỳ làm cảnh sát không gian.

Liệu một lệnh cấm bay ở Libya sẽ có hiệu quả?

Trong một cuộc họp báo tuần rồi, ông Ivo Daalder đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc nói với ký giả rằng dù có được áp đặt, vùng cấm bay ở Libya sẽ vô ích, vì các cuộc tấn công bằng không quân của Gadhafi nhằm vào dân quân kháng chiến sẽ được thực hiện bằng máy bay trực thăng. Để tìm hiểu thêm, các phóng viên đã tìm cách hội thoại với ông Andrew Brookes, một cựu phi công Không lực Hoàng gia Anh, kiêm phân tích gia không gian, vừa là giám đốc trang mạng Hội đồng Hàng không chuyên xúc tiến và vận động sự yểm trợ cho ngành hàng không nước Anh. Mời độc giả Thời báo theo dõi bài nói chuyện:

Ký giả: Định nghĩa đơn giản nhất cho một vùng cấm bay là gì?

Andrew Brookes: Đó là một chiến dịch nhằm ngăn không để một kẻ như Gadhafi dùng máy bay và trực thăng của ông ta để đàn áp nhân dân đứng lên phản đối chế độ của ông. Đây không là việc xóa bỏ hay tuyên chiến với quốc gia Libya. Đây cũng chẳng là kiểu cao bồi John Wayne rút súng trừ gian diệt bạo. Vấn đề nầy tế nhị hơn, và phức tạp hơn nhiều.
KG: Khái niệm về một vùng cấm bay đã phát sinh thế nào?

AB: Nó chào đời trong thập niên 1990 khi Cuộc Hành quân Bão Sa Mạc mở màn tại Iraq và Bosnia. Trước đó, ý niệm kỹ thuật về nó chưa hình thành. Cứ coi như chính cái kỹ thuật mang vi điện tử và sự tiếp nối các cơ phận khác nhau vào máy điện toán của bạn đã cách mạng hóa lãnh vực quân sự. Trước đó, mọi thứ đều phải ninh nhừ tán nhuyễn ra, vì quá cứng để giới quân sự có thể tiêu hóa món thức ăn gọi là vùng cấm bay mang tính quyết định chuyện gì sẽ xẩy ra.
KG: Thiết lập một chiến dịch như vậy nan giải tới mức nào?

AB: Xem nào, tất nhiên là khó hơn giao cho hai thằng bé hai cái máy chơi game. Đây là một chiến dịch có đòi hỏi rất cao về mặt hậu cần, vì thế mà quí vị cứ phải nghe thiên hạ bàn lui tính tới và các cuộc phân tích giữa các quốc gia.
KG
: Một khi các cường quốc phương tây bật đèn xanh, bước một sẽ là chuyện gì?
AB
: Vâng, về mặt quân sự, sập cánh cửa xuống là chuyện dễ như trở bàn tay rồi. Bạn có thể động binh trong vòng 24 tiếng. Cái khó là mặt ngoại giao phải bố trí trước. Bạn không muốn thế giới Ả Rập xa lánh bạn hay bạn bị sập vào cái bẫy tuyên truyền do Gadhafi giăng ra, để biến mình thành đám đế quốc kiểu cũ đang đội mồ sống lại.
KG: Xin dẫn đường cho tôi tới các bước kế tiếp.
AB: Cứ cho rằng bạn cần từ năm chục tới hai trăm cái máy bay chỉ để dùng vào chiến dịch nầy. Cứ cho là đất Ý, đảo Sicily, đảo Malta sẽ được họ gật đầu để chúng ta dùng làm căn cứ xuất phát. Các hàng không mẩu hạm sẽ sẵn sàng ở vị trí cách bờ biển từ 30 tới 40 dặm, trong Địa Trung Hải. Đấy là sơ khởi những gì cần thiết để các phản ứng khẩn có thể ứng chiến ngay trong tầm tay.
KG
: Còn những yêu cầu nào nữa phải chuẩn bị cho vùng cấm bay ra đời?
AB
: Có chứ. Trước tiên, Liên Hiệp Quốc phải chính thức cho Gadhafi biết luật chơi trong vùng cấm bay. Điển hình là, chúng ta phải đọc tên ví dụ bốn căn cứ không quân chủ chốt ở Libya, và nhắc nhở ông ta rằng bất cứ một máy bay nào cất cánh từ các căn cứ ấy sẽ bị bắn hạ. Tuy nhiên, để cho hợp pháp, nếu là tôi, tôi sẽ tính rằng bạn phải cho tôi một số cáo tri trước, từng bước một. Chúng tôi không muốn bạn bất thần đánh cái ào.
KG: Còn như các máy bay dân dụng bay tới hay ngang qua không phận Libya thì sao?

AB: Hàng không dân sự và máy bay của các nhà ngoại giao lui tới Libya vẫn bình thường. Sẽ không có lôi thôi gì cho máy bay dân sự. Chúng ta thừa biết một chiếc phản lực chiến đấu Mirage và một chiếc phi cơ vận tải 747 khác nhau thế nào chứ bộ.
KG: Thế loại máy bay AWACS và phận sự của nó trong vùng cấm bay?

AB: Chiếc AWACS to lớn ấy, là một chiếc Boeing 707 cải biên, trên lưng chở cái đĩa ra-đa xoay vòng to tổ tướng, có nhiệm vụ làm con mắt khổng lồ nhìn thấy mọi sự từ trên không. Loại tàu nầy thường chở từ 12 tới 15 chuyên viên kiểm soát. Máy điện toán trên tàu với kỹ thuật tinh vi sẽ khám phá những phản lực bay nhanh cách nó ngót 400 km. Máy móc cũng báo cho phi công biết ngay tức khắc nếu chiếc tàu đang cất cánh dưới kia là hợp pháp hay máy bay địch.
KG: Khi nhận được thông tin như thế, phi công sẽ làm gì?

AB: À, cần phải nhớ, mục tiêu của vùng cấm bay không phải để giết hại bất cứ ai. Bạn sẽ không bắn hạ chiếc tàu kia ngay đâu. Bạn phải nói chuyện với phi công ấy qua vô tuyến, và qua thông dịch viên nếu cần. Bạn sẽ nói đại loại thế nầy, “Ê, ông Mohammed ơi, thôi nhé! Nếu ông cứ bay nữa, kể như tính mạng ông không còn. Ông sẽ chết. Còn nếu ông sống sót, chúng tôi biết ông là ai, và ông sẽ phải vác chiếu đi Hà Lan hầu Tòa Án Quốc tế La Haye đó.”
KG: Rồi nếu ông phi công Libya coi phe ta như củ khoai, và cứ cất cánh?

AB: Thì bạn nói, “Tội nghiệp con, con ạ. Chúng bố có lực lượng chiến đấu tinh nhuệ nhất thế giới với những hỏa tiễn thượng đẳng, và chúng bố rất tiếc phải đưa con về chầu diêm vương”. Nói xong, bạn tháo dây cho lũ chó sổng chuồng.
KG: Tháo dây thế nào cho lũ chó sổng chuồng?

AB: Bạn định vị quân bạn gần nhất, và báo cho các phản lực tuần thám lệnh sát thủ, bằng các thông số kỹ thuật. Ngay khi phi công tiêm kích nói “Tôi thấy nó trên màn ra-đa rồi”, tay anh ta bấm nút, hỏa tiễn tầm nhiệt sẽ được phóng ra, tìm ống khói máy bay Mohammed để chui vào. Ngay giây phút mà phi công nhà mình thấy chiếc tàu kia trên màn ảnh, kể như ông phi công cứng đầu của đối phương đã tận số. Nhưng có thể anh phi công đồng minh không muốn bấm cò, chỉ nhấn thêm ga bay cặp kè bên hắn ta và nói, “Tôi đây nè. Bạn còn đủ thì giờ nếu muốn bay theo tôi, để tôi dẫn bạn đào thoát.”
KG: Mặt trái của việc duy trì một vùng cấm bay?

AB: Đoản kỳ, vùng cấm bay là chiến thuật tốt. Nhưng thực tình bạn có thể củng cố cái ý niệm làm vua chúa một cõi kiểu thực dân, nếu cứ kéo dài mãi như thế. Càng duy trì lâu bao nhiêu, ý niệm coi đó là một cuộc tấn công tàn bạo càng đúng bấy nhiêu. Có ai đó sẽ bị bắn hạ do lầm lỗi, và phía đối phương sẽ không bỏ lỡ cơ hội khua chiêng gióng trống tuyên truyền.
KG: Nếu thế, anh có cổ vũ việc áp dụng vùng cấm bay lên Libya?

AB: Đấy là câu hỏi dành cho các chính trị gia, để dùng như con dao hai lưỡi. Trong tư cách một người cầm lái máy bay, tôi không chắc nó sẽ làm lợi hay làm hại, khi đem dùng vào cuộc xung đột nầy.

KG: Tại sao lại không?

AB: Kỹ thuật tân tiến vẫn không hữu hiệu mấy trong việc phát hiện trực thăng, vì loại máy bay nầy chậm chạp, và có thể lẫn trốn. Trực thăng được chế tạo để vận tải nhân viên quân sự trên mặt đất, và chính đó là đặc tính mà Gadhafi sẽ khai thác tối đa để đánh lại phe kháng chiến.

KG: Nhưng chúng ta đã nhìn thấy tận mắt không quân của Gadhafi ném bom và giết dân một cách quá ư hiệu quả trong mặt trận đang mở rộng về phía đông…

AB: Cuộc tàn sát thật sự sẽ diễn ra trên bộ, bằng xe tăng nghiến xích sắt lên thường dân, và giết họ bằng lưỡi lê và bằng súng AK-47. Từ trên không, chúng ta sẽ chẳng làm gì được cho họ.

NgyThanh

13/03/2011

 

Bình luận về bài viết này