HÀ NỘI- LẮNG “HỒN THU THẢO” HOÀI “BÓNG TỊCH DƯƠNG”. – Bùi Hoàng Linh
HÀ NỘI- LẮNG “HỒN THU THẢO” HOÀI “BÓNG TỊCH DƯƠNG”.
Hà Nội là khúc tráng ca bốn ngàn năm vui buồn cùng mệnh nước, là cuốn sách lịch
sử để chậm rãi lần giở những trang hoài cổ mà tìm về bản ngã của dân tộc mình.
- Ngay từ ngày bé tôi đã nghe mẹ nói” Hà Nội là cái nôi văn hóa của dân Việt
mình con ạ, bởi nhân chứng đầy đủ nhất của lịch sử nước mình là Hà Nội. Khởi tự
từ chiếu dời đô với cái tên Thăng Long của vua Lý Thái Tổ đi qua con đường hơn
một ngàn năm đến cái tên Hà Nội của vua Minh Mạng với ý nghĩa là dòng sông
ôm trọn thành phố vào bên trong đã ghi dấu biết bao biến thiên thăng trầm của
mảnh đất Hà Thành, Kẻ Chợ để rồi vượt lên cái định danh mà mang ý nghĩa khái
quát hơn là nơi gắn liền với nền văn minh sông Hồng và cội nguồn dân tộc.
Đến với Hà Nội bao lần mà trong tôi vẫn bồi hồi kì lạ. Phải chăng mỗi ngõ phố tên
đường đều mang hồn xưa cũ, mỗi đền đài đều gánh nỗi hoài cảm xa xăm. Hà Nội
đưa mỗi chúng ta hành trình từ phố cổ với 36 phường nghề thủ công đặc sắc ẩn sau
từng tên gọi băng qua những phố cũ già nua cùng mái ngói để trở về với những phố
mới mang hơi thở của thời đại như khẳng định thêm rằng ngoài “cái nôi” văn hóa
thì Hà Nội còn là trung tâm kinh tế của cả một vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những nơi
chốn, những ngõ nhỏ, phố nhỏ dường như được dung dưỡng bằng tâm hồn của
người Hà Nội từ ngày xưa đến hôm nay vẫn không mấy phai phôi. Đó là nét thanh
lịch của người Tràng An trong giao tiếp và hành xử đến người Hà Nội hôm nay vẫn
cư xử rất ý nhị tinh tế nhưng vẫn lãng đãng, đầy chất “đời” lẫn chút bụi bặm của
hồn phố với những gánh hàng rong bình dị chở tiếng rao mộc mạc, với những chiếc
xe chở hoa lẫn chở sương rong ruổi, là những quán nước vỉa hè giản dị lặng lẽ làm
quán đợi cho những ai đã lỡ xa nơi này mà luôn khắc khoải ngày trở về dù chỉ để
chạm vào năm bóng cửa Ô trong dòng sương sớm mong manh. Ngồi bên quán
nước giữa sáng mùa thu se lạnh trong hương cốm non xanh lẫn mùi hương hoa sữa
tháng Mười mà ngẫm ngợi mới hay: Hà Nội là trung tâm kinh tế mà trong tâm là
tinh tế. - Hà Nội trong tôi luôn là nỗi mặc tưởng xa xăm, mỗi lần lang thang qua từng con
phố lại bâng khuâng” phố của bây giờ hay phố của ngày xưa?”. Bởi dường như mỗi
nơi chốn của Hà Nội đều gắn liền với truyền thuyết với dấu tích lịch sử từ ngàn
xưa. Từ Hồ Gươm nơi rùa thiêng trao ấn kiếm như trao cái sĩ khí ngút trời của dân
Việt trước ngoại xâm, nơi thành Cổ Loa đã phai bóng chiều vẫn khắc khoải nỗi bi
tráng cùng vận nước. Là Văn Miếu Quốc Tử Giám, trường đại học lâu đời nhất của
Việt Nam biểu tượng của lòng hiếu học, là nơi chắp cánh cho bao kẻ sĩ luôn đau
đáu “phải có danh gì với núi sông”. Để rồi đã sản sinh ra những người con làm
rạng danh đất nước; đó là Lý Thường Kiệt để đời với bản tuyên ngôn đầu tiên
“Nam Quốc Sơn Hà”, là người thầy lỗi lạc Chu Văn An với huyết tâm “Thất trảm
sớ”, là Nguyễn Du đã nâng tầm tiếng Việt với Truyện Kiều, là Nguyễn Tri Phương,
Hoàng Diệu quyết tử bảo vệ thành Hà Nội, là Văn Cao trầm hùng và thiêng liêng
với “Tiến Quân Ca”, là Nguyễn Đình Thi lắng hồn sông núi trong “Người Hà
Nội”…
Để rồi mỗi địa danh đều mang dáng hình đất nước, mỗi tên người cũng thuộc về số
phận non sông.
- Hà Nội có bốn mùa rõ rệt nhưng dường như chỉ có chung một tên gọi là mùa
“hoài”. Là nỗi hoài cảm cùng non nước của bao Sĩ phu Bắc Hà hào kiệt, là nỗi hoài
niệm ngày cũ với thành quách trong tiếng gọi loa xưa của những người con Hà
Thành, là nỗi hoài hương của những thân phận viễn xứ vẫn luôn hướng về cố quận.
Chính hồn đất và tình người nơi đây đã phác hoạ chân dung người Thăng Long Hà
Nội mang những sắc thái khác nhau ứng với từng thời kỳ và từng nơi chốn mà
người ta nương náu. Đó là một Hà Nội phố cổ sang trọng kiêu sa để mà mơ “dáng
Kiều”, là Hà Nội ngoại ô tất tả ngược xuôi, là Hà Nội xô bồ của phố xá thương mại
song hành với Hà Nội lặng lẽ khiêm nhường trong ngõ ngách đơn sơ. Nét độc đáo
rất riêng là sự đan cài giữa làng và phố, trong phố vẫn mang mảnh hồn làng là mái
đình, làng nghề, bao món ăn mang vị quê nhà. Từ đó mà tựu chung trong tâm hồn
con người Hà Nội mang đậm căn tính của người Việt Nam là lòng tự hào dân tộc,
là cần mẫn trong lao động, sống trọn nghĩa vẹn tình nhưng vẫn có nét riêng đầy địa
phương tính là gìn giữ nếp nhà truyền thống, là nội tâm đầy suy tư, cầu kỳ trong
hưởng thụ ẩm thực, tinh tế trong cảm thụ nghệ thuật và lãng mạn hào hoa xen lẫn
tính ngẫu hứng kiêu bạc rất đời…
Có người bạn Hà Nội trầm tư với tôi rằng “Văn hoá Thủ đô nói riêng và bản sắc
dân tộc Việt Nam nói chung đang có nguy cơ bị xâm hại, bị “đồng hóa” nghiêm
trọng trước làn sóng hội nhập ồ ạt từ văn hoá ngoại lai”. Tôi thì vẫn tin rằng với địa
vị lịch sử và kinh đô văn hoá của Thăng Long không những định hình mà còn cất
giữ nét đặc trưng thanh lịch trong đời sống của con người nơi đây. Để từ trong cốt
cách, khí phách đó vẫn hoà nhập kịp nhịp thở của thời đại mà vẫn gìn giữ nếp cũ lề
xưa, hình thành một mạch nguồn chuyển biến liên tục trong dòng chảy thăng trầm
cùng thời gian để xứng danh thiên mệnh là trái tim của hồn thiêng sông núi… - Trên con đường một chiều không khứ hồi của những sự kiện lịch sử đồng hành
cùng mệnh nước, Hà Nội như một bảo chứng cho hào khí dân tộc cùng hồn núi tên
sông. Nên dẫu thời gian đã làm lối cũ thành xưa thì vẫn mang đậm “hồn thu thảo”,
dù chỉ còn trơ lại góc nền của những lâu đài đã hoang rêu thì vẫn hoài “bóng tịch
dương”. Để rồi trên dặm dài thiên lý “từ thuở mang gươm đi mở cõi”, đến hành
trình tha hương để xây ước mơ đời mình thì mỗi người con Việt vẫn luôn ngoái lại
ngày cũ trong nỗi thương nhớ Thăng Long không dứt. Bởi bản ngã của dân tộc đã
hóa trầm tích trong hồn Hà Nội, thì tình yêu với Hà Nội như khởi nguồn cho giai
điệu trầm thiêng của đất trời hoà thanh cùng nỗi nhớ nước thương nhà trong mỗi
một tâm hồn Việt.
Saigon, ngày 01/11/2020
Bùi Hoàng Linh