Sinh nhật lần thứ 69 của Kazuo Ishiguro, đọc lại bài diễn văn của ông khi nhận giải Nobel Văn chương năm 2017, Thiên Nhất Phương lược dịch

Sinh nhật lần thứ 69 của Kazuo Ishiguro, đọc lại bài diễn văn của ông khi nhận giải Nobel Văn chương năm 2017, Thiên Nhất Phương lược dịch

Kazuo Ishiguro trong cuộc họp báo của Viện Hàn Lâm Thụy Điển vào ngày 6 tháng 12 năm 2017.
Nhà văn Kazuo Ishiguro: (sinh ngày 8/11/1954)Cuộc đời:

Kazuo Ishiguro sinh ra tại Nagasaki, Nhật Bản. Khi ông 5 tuổi, gia đình dọn sang ở

Guildford, Surrey, Anh quốc, nơi cha ông, một chuyên viên hải dương học, được mời đến làm việc tại một viện nghiên cứu. Thuở thiếu thời, Kazuo Ishiguro muốn trở thành nhà soạn nhạc, nhưng rồi ông học Anh ngữ và môn Triết tại Đại Học East Anglia, nơi đây ông đã đậu bằng Cao học năm 1980. Kể từ đó ông lấy nghề viết văn làm chính. Kazuo Ishiguro kết hôn và sinh được một con gái.

Sự nghiệp:

Ký ức, thời gian và những trầm luân trong đời sống là chủ đề những tác phẩm của ông. Việc trưởng thành trong một gia đình Nhật Bản và lớn lên tại Anh quốc đã tô màu trên suy tư và viễn tượng của ông. Hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên lấy bối cảnh ở Nhật. Tác phẩm nổi danh nhất của ông, cuốn The Remains of the Day, in vào năm 1989, thuật chuyện một quản gia gốc Anh và những tình cảm dành cho một người nội trợ trong khoảng Thế Chiến thứ II. Trong những tác phẩm kế tiếp, Ishiguro đề cập đến nhiều thể loại khác nhau như viễn vọng hay khoa học không tưởng. Ngôn ngữ được hạn chế ngay cả khi những màn đầy kịch tính được miêu tả.

Một số tác phẩm của Kazuo Ishiguro: 

The Unconsoled, novel, 1995
The Remain of the Day, novel,1989
Klara and the Sun, novel, 2021

Never Let Me Go, novel, 2005

The Nobel Lecture, 2017

***

Bài diễn văn của Kazuo Ishiguro đọc nhân dịp nhận Giải Văn Chương Nobel năm 2017 tại Viện Hàn LâmThụy Điển, Stockholm.

Trong bài diễn văn của tôi, giọng nói duy nhất mà quí vị nhận ra được là của một người được nuôi dạy tại miền tây nam nước Anh, giọng nói có lúc nhừa nhựa, lơ lửng, trần tục của thời đại Híp pi. Nếu có dịp nói chuyện, có lẽ chúng ta sẽ bàn chuyện đội banh Hòa Lan hay tập nhạc mới nhất của Bob Dylan, và có lẽ khoảng thời gian tôi làm việc cho người vô gia cư ở Luân Đôn. Nếu bạn nói đến Nhật Bản, hỏi thăm về văn hóa xứ này có lẽ quí vị sẽ khám phá ra chút rụt rè trong thái độ khi tôi tuyên bố sự dốt nát vì tôi chưa hề đặt chân đến cái xứ đó – cả một ngày nghỉ cũng không có – từ khi tôi rời bỏ nó lúc mới 5 tuổi đầu. 

Mùa thu năm đó, tôi đã đến Buxton, Norfolk với túi đeo lưng, cây đàn guitare và máy đánh chữ xách tay. Đây là một ngôi làng nhỏ ở nước Anh với cối xay gió trong những nông trại bằng phẳng bao quanh. Tôi đã tới nơi này vì được nhận vào chương trình một năm hậu đại học về lớp dạy Viết Văn ở Đại học East Anglia. Đại học cách chỗ tôi ở khoảng 10 dậm, trong đô thị có nhà thờ Norwich, không có xe, và phương tiện đến Đại học là xe buýt, chỉ chạy 3 chuyến mỗi ngày: một chuyến buổi sáng, một buổi trưa và một vào buổi tối. Chẳng bao lâu, tôi khám phá ra điều này chẳng phải là trở ngại lớn lao: rất ít khi tôi cần có mặt tại đại học nhiều hơn hai lần một tuần. Tôi đã thuê một căn phòng trong căn nhà nhỏ. Chủ nhà khoảng 30 tuổi mà bà vợ mới bỏ ông ta. Đối với ông, tôi không còn nghi ngờ gì nữa là căn nhà đầy những bóng ma của giấc mơ tan vỡ – hoặc là ông ta tránh không muốn gặp tôi; dù sao, tôi cũng không giáp mặt ông trong nhiều ngày. Nói cách khác thì sau cuộc sống hỗn độn mà tôi đeo đuổi tại Luân Đôn và tại nơi đây, tôi phải đương đầu với cách sống rất ư cô tịch, rất bất thường, đã khiến tôi tự chuyển biến thành một văn sĩ.

Thực ra thì căn phòng nhỏ của tôi không phải là không giống tí nào với căn gác xép của một văn sĩ thuộc trường phái cổ điển. Trần nhà dốc một cách tù túng – nhón gót lên, từ  một khung cửa sổ đã trông thấy những thửa ruộng chạy dài đến tận chân trời xa tắp. Tôi có một chiếc bàn nhỏ vừa đủ diện tích để máy chữ và chiếc đèn. Trên sàn nhà, thay vì là chiếc giường thì lại là tấm nệm bấc, hình chữ nhật to xù khiến tôi đổ mồ hôi trong khi ngủ, kể cả những đêm buốt giá của vùng Norfolk. 

Chính trong căn phòng này mà tôi đã duyệt lại cẩn thận 2 truyện ngắn tôi đã sáng tác trong mùa hè, băn khoăn tự hỏi liệu chúng có khá tốt để đưa cho bạn mới cùng lớp đọc giúp. (Hồi đó, tôi biết là lớp có sáu người, hai tuần lễ gặp nhau một lần.) Trong thời gian đó của cuộc đời, tôi đã viết rất ít về thể văn xuôi, mặc dù tôi đã được nhận vào lớp học với vở kịch cho radio bị đài BBC khước từ. Thực ra, trước đó, tôi đã quyết tâm trở thành ngôi sao nhạc rock lúc còn 20 tuổi đời thì tham vọng văn chương đã đến thật thình lình. Hai truyện ngắn mà tôi đang lôi ra sửa đã được viết trong cơn bấn loạn, để đáp ứng với cái tin tôi được chấp nhận vào lớp của đại học. Một truyện liên hệ đến một thỏa thuận tự tử kinh hoàng; truyện khác liên hệ đến việc đánh lộn trong phố ở Scotland, nơi tôi đã ở một thời gian khi làm nhân viên cộng đồng. Truyện chẳng hay ho gì. Rồi tôi sáng tác một truyện khác về một thanh niên đầu độc con mèo của hắn. Cũng như những truyện khác, lấy Anh quốc hiện tại làm bối cảnh. Rồi một đêm, không hiểu là tuần lễ thứ ba hay thứ tư trong căn phòng nhỏ đó, với thôi thúc mới, tôi viết miệt mài về Nhật Bản – về Nagasaki, thành phố nơi tôi được sinh ra, trong những ngày chót của Thế Chiến thứ II. 

Phải nói là điều này đã tới như một sự kinh ngạc với tôi. Thời buổi này, không khí thịnh hành đến nỗi mà, một văn sĩ trẻ tuổi có triển vọng, cùng với gia tài văn hóa hỗn hợp để khám phá ‘cội nguồn’ của mình trong tác phẩm là điều theo lẽ tự nhiên. Còn lúc trước hoàn cảnh không giống như vậy. Chúng ta phải đợi vài năm nữa mới thấy sự bộc phát của văn chương ‘đa văn hóa’ ở Anh quốc. Ít người biết tới Salman Rushdie dù cuốn tiểu thuyết mang tên ông đã bán hết. Nếu được hỏi về tiểu thuyết gia trẻ tuổi, nổi tiếng của nước Anh thời đó, người ta có thể nêu ra tên Margaret Drabble; và một số lớn tuổi hơn như Irish Murdock, Kingsley Amis, William Golding, Anthony Burgess, John Fowles. Những tác giả ngoại quốc như Gabriel Garcia Márquez, Milan Kundera hay Borges thì chỉ có một ít người đọc còn tên tuổi những vị này không có ý nghĩa gì với những độc giả kén chọn. 

Đó là khung cảnh văn chương ngày mà tôi viết xong câu chuyện đầu tiên về Nhật Bản với cảm nghĩ là đã kiếm ra một hướng mới quan trọng; tôi bắt đầu ngay tức khắc băn khoăn tự hỏi nếu khởi đầu như thế không thể được coi như một đam mê thú vị, tôi sẽ mau chóng trở về với những “chủ đề” thông thường hơn. Sau những ngần ngại đáng kể, tôi bắt đầu chuyển những truyện đi quanh. Cho đến nay, tôi vẫn thâm cảm những bạn học, những vị cố vấn, Malcolm Bradbury và Angela Carter và tiểu thuyết gia Paul Bailey, năm đó là văn sĩ cư trú của đại học – về những lời hồi âm đầy khích lệ. Phải chi họ ít lạc quan hơn, có lẽ chẳng bao giờ tôi viết lại về Nhật Bản. Như quí vị thấy, tôi trở về căn phòng và miệt mài viết và viết. Qua hết mùa đông 1979-80, và mãi đến tận mùa xuân, tôi không nói chuyện với bất cứ ai, ngoại trừ năm người bạn cùng lớp, người bán chạp phô nơi tôi mua cereal để ăn sáng, những trái cật trừu giúp nuôi sống tôi và bạn gái tôi Lorna (nay là vợ tôi), người đến thăm tôi mỗi cuối tuần lễ thứ hai. Thật ra đó không phải là nếp sống cân bằng, nhưng trong 4,5 tháng tôi đã hoàn tất phân nửa cuốn tiểu thuyết đầu tiên, A Pale View of Hills, bối cảnh đặt tại Nagasaki, trong những năm hồi phục sau trái bom nguyên tử. Trong thời kỳ này, tôi có thể nhớ là thỉnh thoảng loay hoay với ý nghĩ viết một vài truyện ngắn không lấy khung tại Nhật, nhưng chỉ thấy là sự quan tâm tan biến mau chóng. 

Những ngày tháng đó quả là quan trọng với tôi, vì giả dụ không có chúng, có lẽ tôi chẳng bao giờ sẽ trở thành văn sĩ. Kể từ đó, tôi thường nhìn lại và tự hỏi: tôi đang làm gì với cuộc sống đây? Điều gì tạo nên năng lực đặc biệt này? Câu kết đã là đúng lúc đó trong cuộc đời của tôi, tôi đã lăn xả vào một hành vi cấp bách để bảo tồn hay duy trì quá khứ. Để giải thích điều này, tôi cần phải đi ngược thời gian một chút. 

Tôi đã tới nước Anh lúc mới 5 tuổi cùng với cha mẹ và người chị vào năm 1960, tới ở thành phố Guildford, vùng Surrey, trong khu vực sung túc gọi là “khu có máu mặt”, 30 dậm ở phía nam Luân Đôn. Cha tôi là khoa học gia nghiên cứu, một nhà hải dương học, tới làm việc cho chính phủ Anh. Bộ máy ông tiếp tục sáng chế, ngày hôm nay, tình cờ lại là thành phần trong bộ sưu tập vĩnh viễn, được trưng bày trong Bảo Tàng Viện Khoa Học tại Luân Đôn. 

Những tấm ảnh chụp khi chúng tôi vừa tới cho thấy một nước Anh trong kỷ nguyên đã qua. Đàn ông vẫn mặc áo khoác ngoài bằng len có hình chữ V ở cổ, đeo cà vạt, xe hơi vẫn có bậc lên và bánh xe thay thế đeo ở mé sau. Ban nhạc Beattles, cuộc cách mạng tính dục, những cuộc biểu tình phản đối của sinh viên, ‘phong trào đa văn hóa’ đang xảy ra ở chung quanh, nhưng thật là khó mà tin rằng gia đình chúng tôi đầu tiên đã phải chứng kiến. Gặp một người Pháp hay Ý là một chuyện đáng để ý – chứ đừng nói gì một kẻ đến từ nước Nhật. 

Gia đình chúng tôi sinh sống trong một khu hình vòng cung, gồm 12 căn nhà, đúng nơi con đường đã trải nhựa chấm dứt và khu vực nông trại khởi đầu. Thả bộ chưa đầy 5 phút là tới nông trại địa phương và một lối nhỏ đi xuống cho thấy từng đàn bò đang nặng nề làm việc hết ruộng này đến ruộng khác. Sữa được giao bằng xe đẩy hoặc bằng ngựa. Một cảnh thông thường rất linh động mà tôi nhớ được trong những ngày đầu tiên ở nước Anh là cảnh những con nhím – những con vật về đêm, lông dựng ngược, trông rất kháu, rất nhiều tại miền quê đó – bị bánh xe nghiền nát, nằm trên sương sớm, được quét gọn vào bên lề, đợi người đổ rác hốt đi. 

Mọi gia đình khu đó đều đi nhà thờ và khi chơi đùa cùng con cái họ, tôi nhận ra chúng đọc kinh ngắn gọn trước khi ăn. Tôi theo học Thánh kinh ngày Chủ Nhật, chẳng bao lâu tôi gia nhập ban hát nhà thờ, mới 10 tuổi dầu, một chú bé Nhật Bản, trở thành Trưởng Ban Hát tại Guilford. Đi học trường sơ cấp ở địa phương – nơi mà tôi có lẽ là đứa trẻ duy nhất không phải người Anh trong lịch sử toàn vùng đó –và khi được 11 tuổi thì tôi phải đi xe lửa tới trường tiểu học ở thị trấn lân cận, mỗi sáng ngồi xe chung với các vị quần áo chỉnh tề trên đường tới văn phòng làm việc tại Luân Đôn. 

Vào giai đoạn này thì tôi đã hoàn toàn thông thuộc cách cư xử của những thiếu niên Anh quốc lớp trung lưu thời đó. Khi thăm viếng nhà một người bạn, tôi đã biết phải đứng lên nghiêm chỉnh khi một người lớn đi vào phòng đó; tôi đã học được điều này là trong một bữa ăn phải xin phép trước khi ngồi xuống bàn ăn. Là đứa trẻ ngoại quốc duy nhất trong xóm, tôi khá nổi tiếng trong vùng. Những trẻ khác biết rõ tôi là ai trước khi tôi gặp chúng nó. Thỉnh thoảng những người lớn hoàn toàn xa lạ chào hỏi bằng tên tôi khi gặp họ ngoài đường hay tại cửa tiệm địa phương.

Nhìn lại khoảng thời gian này, và nhớ lại gần 20 năm khi cuộc chiến thế giới chấm dứt. Trong cuộc chiến đó, người Nhật là kẻ thù đáng nể của họ. Tôi kinh ngạc về sự cởi mở, tính tình độ lượng mà gia đình tôi được chấp nhận trong cộng đồng người Anh bình thường này. Lòng ưu ái, sự tôn trọng và tính tò mò tôi vẫn còn giữ được cho đến hôm nay về một thế hệ dân tộc Anh đã phải chịu đựng qua Đệ Nhị Thế Chiến, rồi đã xây dựng một cuộc sống an lành mới rất đáng lưu tâm sau thảm họa. Những điều nói trên quả là có ý nghĩa với những kinh nghiệm cá nhân của tôi. 

Nhưng toàn thời gian này tôi sống tại nhà cùng cha mẹ Nhật của tôi. Ý tưởng nguyên thủy của họ là chúng tôi sẽ trở về Nhật Bản trong vòng một năm, có lẽ là hai năm. Thực tế, trong 11 năm sống ở Anh quốc, chúng tôi luôn luôn ở tư thế trở về nhà vào ‘năm tới’. Kết cục, tình trạng của cha mẹ tôi vẫn là du khách chứ không phải là tình trạng thường trú. Họ thường trao đổi những nhận xét về tập tục kỳ lạ của dân địa phương, nhưng không có nhiệm vụ chấp nhận chúng. Trong khoảng thời gian khá dài, với chủ chương vẫn tồn tại là tôi sẽ trở về sống đời trưởng thành ở Nhật Bản, mọi nỗ lực đều dồn vào việc giữ tôi theo truyền thống giáo dục Nhật Bản. Mỗi tháng một kiện hàng được gửi từ Nhật qua, gồm những tạp chí hài hước, những sách về giáo dục, mà lạ thay, tôi vui thú đọc chúng. Những kiện hàng không tới nữa lúc tôi trở thành thiếu niên – có lẽ sau khi ông tôi từ trần – nhưng cha mẹ tôi vẫn nói chuyện với bạn bè, họ hàng về giai đoạn sống còn tồn đọng với những hình tượng được lưu trữ. Và tôi hồi đó luôn luôn có một kho tàng ký ức – đáng ngạc nhiên là chúng rất lớn , rõ ràng: ký ức về ông bà, về những đồ chơi tôi ưa thích tôi để lại ở nhà, căn nhà Nhật Bản cổ truyền mà chúng tôi đã từng sống ở đó (căn nhà mà tôi vẫn còn có thể tái tạo trong trí tưởng từng phòng), rồi vườn mẫu giáo, trạm ngừng xe điện địa phương, con chó hung dữ gần cây cầu, cái ghế của phòng cắt tóc, điều chỉnh đặc biệt cho trẻ em nhỏ với bánh xe chuyển động được gắn trước tấm kiếng lớn. 

Tất cả những điều đó dẫn tới đúng lúc mà tôi đang trưởng thành, thật lâu trước khi tôi chưa hề có ý tưởng tạo nên những thế giới hư cấu bằng văn xuôi. Tôi rất bận rộn tạo ra trong trí tưởng về một chốn nhiều chi tiết phong phú gọi là ‘Nhật Bản’, một nơi mà cách nào đó tôi đã được sống, cũng nơi đó tôi đã rút ra được ý niệm về căn cước cũng như sự tự tin. Sự kiện tôi chưa hề đặt chân trở lại Nhật trong khoảng thời gian đó cũng chỉ làm cho viễn ảnh của tôi về xứ này sống động và mang nhiều ý nghĩa riêng tư hơn. 

Do đó nảy sinh ra nhu cầu cần bảo tồn. Vào lúc tôi khoảng gần 30 tuổi – tôi chưa hề biểu lộ điều này lúc đó – tôi bắt đầu nhận ra vài sự kiện chắc chắn. Tôi bắt đầu chấp nhận là ‘cái nước Nhật Bản’ kia có lẽ không phù hợp với nơi chốn mà tôi muốn tới bằng máy bay; lối sống mà cha mẹ tôi nêu ra tôi nhớ lại từ lúc còn nhỏ dường như đã biến hẳn đi trong những năm 1960, 1970. Muốn nói gì thì nói chứ cái nước Nhật trong đầu óc tôi có lẽ luôn luôn là một mô thức tình cảm được sắp xếp với ký ức, sự tưởng tượng và suy diễn của một đứa trẻ. Có lẽ điều có ý nghĩa nhất mà tôi nhận ra, cứ mỗi năm tôi già hơn thì cái nước Nhật của tôi – nơi chốn quí hóa mà tôi trưởng thành – ngày càng mờ càng nhạt đi.

Bây giờ thì tôi chắc rằng cái tình cảm này và rằng cái nước Nhật Bản của tôi là duy nhất đồng thời rất mỏng manh – một thứ gì đó không thể kiểm chứng từ ngoại giới – một thứ tình cảm thôi thúc tôi làm việc trong căn phòng nhỏ đó tại Norfolk. Điều tôi đang làm là ghi trên giấy trắng mực đen những mầu sắc đặc biệt của thế giới đó với những phong tục, tập quán, những lễ nghi, tính tình, những thói hư tật xấu, mọi sự việc mà tôi suy nghĩ về nơi chốn cũ trước khi chúng biến mất hẳn trong óc tôi. Đó là niềm ao ước dựng lại nước Nhật Bản trong tiểu thuyết; chắc ăn hơn cho nên sau này tôi có thể chỉ tay vào cuốn sách mà nói: ‘ Đó là nước Nhật của tôi, ở trong đó.’ 

Ba năm rưỡi sau, vào mùa xuân 1983 thì Lorna và tôi đang ngụ ở Luân Đôn trong hai căn phòng của một căn nhà trên đỉnh đồi, mà lại là đỉnh đồi cao trong những điểm cao nhất của đô thành. Một trụ phát tuyến TV gần bên cạnh, và khi chúng tôi lắng nghe hát trên máy quay đĩa thì bị những tiếng nói như ma quấy rầy liên tục. Buồng khách của chúng tôi không có sô pha hay ghế bành, nhưng có hai tấm nệm trên sàn cùng khung lót. Chúng tôi còn có một chiếc bàn lớn mà ban ngày tôi dùng để viết, còn ban đêm thi dùng làm bàn ăn. Thực ra chẳng xa xỉ gì, nhưng chúng tôi thích sống tại đó. Năm trước, tôi in cuốn tiểu thuyết đầu tiên và cũng lại viết kịch bản cho một phim ngắn chẳng bao lâu sẽ được trình chiếu trên truyền hình nước Anh. 

Đã có một lúc tôi thấy khá tự hào về cuốn tiểu thuyết đầu tay, nhưng vào mùa xuân năm ấy, một ý tưởng lặt vặt lại chen vào. Vấn đề là: cuốn tiểu thuyết đầu tiên và kịch bản đầu tiên cho truyền hình quá giống nhau. Không phải là chủ đề nhưng ở phương pháp và cách hành văn. Càng nhìn kỹ bao nhiêu tôi lại càng thấy cuốn tiểu thuyết giống kịch bản bấy nhiêu. Điều này có thể chấp nhận được cho tới một mức độ nào đó mà thôi. Ý muốn của tôi khi đó là viết hư cấu chỉ thích hợp trên trang giấy. Tại sao lại viết cuốn tiểu thuyết nếu nó mang lại cho độc giả nhiều ít cùng một kinh nghiệm mà một kẻ nào khác cũng thâu lượm được bằng cách mở truyền hình ra coi? Ấn bản tiểu thuyết làm sao mà có thể sống sót, ganh đua với sức mạnh của màn ảnh cùng TV, nếu nó không đưa ra điểm đặc thù, điểm đặc thù mà những thể loại khác không thể nào cung ứng được? Tôi có thể đọc từ một đoạn văn này tới đoạn kế tiếp tùy theo sự liên hệ tư tưởng, ký ức nổi trôi của người kể chuyện. Tôi có thể tạo ra một cái gì tựa như một họa sĩ trừu tượng chọn hình thể và màu sắc trên giá vẽ. Tôi có thể đặt một phân cảnh hai ngày mới đây ngay cạnh một phân cảnh từ 20 năm trước và hỏi độc giả cân nhắc sự liên hệ giữa hai cảnh đó. Làm như vậy, tôi bắt đầu suy nghĩ, là tôi đã đưa ra nhiều lớp tự lừa dối, khước từ bao quanh quan điểm cá nhân của chính họ và quá khứ của họ nữa. 

Tháng ba 1988. Tôi 33 tuổi đời. Bây giờ chúng tôi có một cái sô pha và tôi có thể nằm ngang trên đó, lắng nghe đĩa hát của Tom Watts. Năm ngoái, Lorna và tôi mua được căn nhà không sang trọng nhưng dễ nhìn ở vùng phía Nam Luân Đôn, và lần đầu tiên trong căn nhà này, tôi có được phòng làm việc riêng biệt. Căn phòng nhỏ bé, không có cửa, nhưng tôi rất thích thú để giấy tờ khắp nơi mà không phải thu vén chúng vào cuối mỗi ngày. Cũng tại căn phòng này – tôi tin như vậy – tôi đã hoàn tất cuốn tiểu thuyết thứ ba. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên không lấy bối cảnh Nhật Bản – một nước Nhật riêng của tôi đã được tạo nên ít mong manh hơn là lúc tôi viết những truyện trước đó. Thực ra, truyện mới nhất của tôi, được đặt tên là The Remains of the Day, có vẻ theo dòng văn chương Anh tới mức tối đa – Tôi hy vọng là nó không theo khuôn thước của nhiều tác giả người Anh thuộc về thế hệ đi trước. Tôi cũng đã cẩn thận không giả thiết, như tôi cảm thấy những vị đó đã làm, là những độc giả của tôi toàn là người Anh, vốn thông thạo sẵn có để hiểu những sắc thái, khúc mắc của Anh ngữ. Vào lúc đó,những văn sĩ như Salman Rushdie, V.S. Naipaul đã vạch một lối cho văn chương Anh hướng ngoại có tính cách quốc tế hơn, một lối mà không đòi hỏi sự tập trung và tầm quan trọng dành cho Anh quốc. Cách viết của họ thiên về hậu chiến với ý nghĩa sâu rộng nhất. Tựa như họ, tôi cũng muốn viết tiểu thuyết ‘quốc tế’ mà có thể dễ dàng vượt qua những biên giới về văn hóa, ngôn ngữ, cả ngay khi viết về một câu truyện với bối cảnh được đặt ra tại một nơi dường như là thế giới kỳ lạ của nước Anh. Văn bản của tôi về Anh quốc sẽ là một văn bản như thần thoại mà đại lược tôi tin rằng đã có sẵn trong trí tưởng của nhiều người khắp thế giới, điều này gồm cả những vị chưa hề thăm viếng xứ này. 

Câu truyện mà tôi vừa viết xong thuật lại là việc một ông quản gia người Anh nhận ra lúc đã quá trễ là ông đã sống với những giá trị sai lầm trong suốt cuộc đời; là ông đã đem những năm tháng tốt đẹp nhất để phục vụ cho một cảm tình niên Đức quốc xã; là ông đã thất bại không chịu trách nhiệm chính trị, luân lý về đời sống, đã có cảm tưởng sâu đậm nào đó là đã hủy hoại cuộc sống của mình. Nhiều hơn nữa: là trong giao kèo được trở thành người đầy tớ hoàn hảo ông đã tự ngăn cấm mình không được luyến ái, hoặc được yêu, dù với người đàn bà mà ông luôn luôn chăm sóc. 

Tôi đã đọc đi đọc lại bản thảo vài lần, cảm thấy tương đối được thỏa mãn. Nhưng vẫn còn một cảm tưởng lặt vặt là có điều gì thiếu sót. 

Rồi, như tôi đã nói, lúc đó vào một buổi tối tại nhà, nằm khểnh trên sô pha, lắng nghe đĩa hát của Tom Waits. Tom Waits khởi đầu một bài gọi là ‘Ruby’s Arms’. Có lẽ một vài quí vị biết bài hát này. (Tôi nghĩ là nên hát cho quí vị nghe vào lúc này, tôi đã thay đổi ý kiến.) Đó là ca từ về một người đàn ông, có thể là một binh sĩ, đã để người yêu nằm ngủ trên giường. Đó là một sớm tinh sương, anh ta ra đường, lên xe lửa đi luôn. Không có gì là bất thường cả. Nhưng bài ca được hát bởi một giọng hơi thô của một anh Mỹ lang bạt hoàn toàn không quen trong việc tiết lộ nỗi xúc cảm sâu sắc hơn nữa. Rồi có một lúc, ở khúc giữa bài ca, ca sĩ cho chúng ta hay là tim anh ta nát tan. Lúc này dường như người nghe cảm động hết sức vì sự căng thẳng giữa chính cái tình cảm và sự dồn nén lớn lao đã hiển nhiên được vượt qua bằng lời nói. Tom Waits hát chỗ đó một cách nhẹ nhàng tuyệt hảo làm bạn cảm thấy sự chai đá khắc kỷ của cuộc đời bỗng nhiên bị đổ vỡ trước mặt một nỗi buồn thảm, tưởng như không cách gì thắng lướt được. Trong khi lắng nghe Tom Waits, tôi đã biết điều gì còn sót lại tôi phải làm. Khỏi suy nghĩ mông lung. Từ lâu tôi đã chọn ông quản gia người Anh nhất định phải giữ tuyến phòng thủ tình cảm, ông ta sẽ tìm cách ẩn mình sau những tình cảm này, đó là điều tốt cho cá nhân ông cũng như độc giả, cho tới lúc kết thúc hẳn câu truyện. Chỉ cần một chút xíu thôi cho đến đoạn chót câu truyện; một tí thôi, tôi đã phải lựa chọn hết sức cẩn thận, tôi đã phải làm cuộc xuyên phá này, tôi phải cho phép nỗi ước ao bi thảm to lớn được nhìn thoáng qua mà thôi.

Vào tháng 10, 1999 tôi được thi sĩ người Đức, ông Christoph Heubner, đại diện cho Ủy Ban Quốc Tế Auschwitz, mời đến thăm viếng trại tù tập trung cũ trong vài ngày. Chỗ ở là Trung Tâm Thanh Niên Auschwitz nằm trên con lộ giữa trại tù đầu tiên Auschwitz và trại tử thần Birkenau, đi mất hai dậm. Tôi được đi xem những cảnh này và được gặp gỡ, không chính thức, ba người còn sống sót. Tôi cảm thấy là tôi đã được tới gần, ít nhất là về địa danh, của bạo lực tăm tối mà cái bóng của nó thế hệ chúng tôi đã trưởng thành. Tại Birkenau, vào một buổi chiều ướt át, tôi đứng trước những đống gạch vụn của những phòng hơi ngạt – giờ đây bị bỏ hoang không ai coi sóc – mọi thứ đều bị bỏ lại cũng như lúc người Đức đã bỏ sau khi phá hoại chúng và họ chạy trốn Hồng Quân. Bây giờ những trại đó chỉ còn là đống đồ bỏ đi, đầy những mảnh vụn, được phơi bầy trước khí hậu khắc nghiệt của Ba Lan, ngày càng tệ hại năm này qua năm khác. Những vị mời tôi cho biết họ ở thế tiến thoái lưỡng nan. Có nên bảo vệ những tàn tích này không? Có nên tạo nên những vòm kiếng trên những phế tích này để cho những thế hệ sau thấy được? Hay là mặc kệ chúng, ngày qua ngày rồi theo lẽ tự nhiên chúng sẽ biến đi? Với tôi, dường như đó là cả một ẩn dụ mạnh mẽ cho nỗi tiến thoái lưỡng nan lớn lao hơn nữa. Bằng cách nào duy trì những ký ức đó? Liệu những vòm kiếng có thể biến những tàn tích xấu xa, những nỗi thống khổ thành những món trưng bầy bình thường trong viện bảo tàng? Chúng ta sẽ lựa chọn ghi nhớ những cái gì? Khi nào thì chúng ta cần quên đi và tiếp tục cuộc sống? 

Tôi đã 44 tuổi rồi. Cho đến lúc đó, tôi sẽ xem xét lại Thế Chiến Thứ Hai, những kinh hoàng, những chiến thắng kể như thuộc về thế hệ cha mẹ chúng tôi. Nhưng giờ đây, điều xảy ra cho tôi biết, chẳng chóng thì chày, nhiều người đã từng chứng kiến biết bao biến cố lớn lao sẽ không còn nữa. Rồi sao? Liệu gánh nặng ghi nhớ sẽ đùn lên vai thế hệ chúng tôi? Chúng tôi không kinh qua những năm chiến tranh, nhưng ít nhất cũng được nuôi dưỡng bởi những mẹ cha mà cuộc sống của họ chắc chắn bị ảnh hưởng nặng nề. Như tôi bây giờ là người thuật lại những chuyện này cho công chúng nghe, liệu tôi có bổn phận nêu ra là chuyện dài cũ tôi không cần để ý tới?

Hay phải truyền lại, bằng hết sức của mình, những ký ức và những bài học của thế hệ cha mẹ chúng tôi cho thế hệ kế tiếp?

Thời gian sau đó, tôi được mời nói chuyện tại Tokyo, một câu hỏi do khán giả từ dưới sàn nêu lên, đó là chuyện thông thường, là tôi sẽ viết tiếp những gì? Đặc biệt hơn, người đặt câu hỏi vạch rõ là tác phẩm của tôi thường quan tâm tới cá nhân sống qua những thời đại đầy đảo lộn chính trị, xã hội lớn lao, ai sẽ là người nhìn lại cuộc sống của họ để hòa nhịp với những ký ức đầy ăn năn tăm tối. Trong những tác phẩm kế tiếp, bà ta bồi thêm, liệu chừng tôi sẽ tiếp tục viết về lãnh vực tương tự?

Tôi thấy là tôi đã tự thốt ra câu trả lời không được chuẩn bị tí nào. Tôi đáp, ‘có chứ’, tôi đã thường viết về những cá nhân bị lôi cuốn giữa chuyện quên và nỗi nhớ. Trong tương lai, điều tôi thực sự muốn làm là viết về một quốc gia hay một cộng đồng phải đương đầu với những vấn đề tương tự. Liệu một quốc gia có nhớ và quên cũng tương tự như một cá nhân? Hay có những sự khác biệt quan trọng? Thực ra, ký ức của một quốc gia là gì? Chúng được lưu trữ nơi đâu? Chúng được hình thành và kiểm soát ra sao? Có những lúc khi quên đi là cách duy nhất để ngăn chặn bạo lực hoặc ngăn chặn sự tan rã xã hội khỏi biến thành hỗn loạn hoặc chiến tranh? Nói cách khác, liệu các quốc gia tự do, bền vững được thực sự xây dựng trên những nền móng của sự lãng quên cố ý hoặc một nền công lý vô vọng. Tự tôi nghe tôi trả lời người hỏi là tôi muốn tìm một cách nào để viết về những sự việc đó, nhưng ngay lúc này, thật không may, tôi chưa biết sẽ viết ra sao. 

Vào một buổi tối đầu năm 2001, trong căn phòng mặt tiền căn nhà chúng tôi ở vùng Bắc Luân Đôn ( nơi chúng tôi đã sống), Lorna và tôi cùng xem một phim của Howard Hawks, trên băng VHS khá tốt, tên là Twentieth Century, chúng tôi khám phá ra ngay, là phim không đả động gì tới thế kỷ mà chúng tôi vừa rời bỏ, nhưng lại đề cập tới một chuyến xe lửa sang trọng của kỷ nguyên nối liền New York – Chicago. Như vài quí vị sẽ rõ cuốn phim là một hài kịch khá nhanh được quay ngay trên xe lửa, liên hệ tới ông bầu Broadway, mà ông ta, với nỗi tuyệt vọng ngày càng gia tăng, đang cố tình ngăn cản nữ diễn viên không được đi Hollywood để trở thành tài tử điện ảnh. Cả cuốn phim xoay quanh sự diễn xuất hài hước tuyệt cú của danh hề John Barrymore, một trong nhũng tài tử nổi tiếng hồi đó. Những biểu lộ trên nét mặt, rồi dáng điệu, mỗi chữ thốt ra tràn đầy điểm khôi hài, mâu thuẫn của một con người ích kỷ, và tự bi thảm hóa. Dưới nhiều khía cạnh, đó là màn trình diễn khá xuất sắc. Vậy mà khi cuốn phim tiếp tục, tôi cảm thấy lạ kỳ không tha thiết nữa. Lúc đầu tôi hơi bối rối. Tôi thường thường thích Barrymore và là người rất ủng hộ những phim khác của Howard Hawks trong thời gian này. Chẳng hạn như phim His Girl Friday, Only Angels Have Wings. Rồi lúc xem được khoảng một giờ, một ý tưởng hấp dẫn đơn giản, nhập vào óc tôi. Lý do tại sao nhiều nhân vật rất hấp dẫn, linh động lại không tiếp xúc với những nhân vật khác trong mối đáng lưu tâm giữa con người với con người. Ngay tức thì ý nghĩ kế tiếp xảy ra liên quan đến công việc của tôi: Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không cần lo lắng về những nhân vật trong truyện mà thay vào đó, là băn khoăn về mối liên hệ của tôi? Trong khi xe lửa tiếp tục chạy xa hơn về hướng tây thì John Barrymore lại càng trở nên bấn loạn hơn, tôi nghĩ tới sự phân biệt nổi tiếng của E.M Foster những nhân vật có tầm kích hai và ba chiều. Một nhân vật có tầm kích ba chiều, Foster nói, là do sự kiện họ làm cho chúng ta ‘ngạc nhiên cách thích thú’. Làm được vậy, họ trở thành ‘toàn hảo.’ Giờ tôi mới băn khoăn, là điều gì sẽ xảy ra, nếu một nhân vật trở thành ba chiều, trong khi tất cả mối liên hệ của anh ta/cô ta lại không? Ở một khúc khác trong loạt bài diễn thuyết, Foster đã dùng một hình ảnh hài hước là lôi một hàng trong tiểu thuyết của ông bằng cái cặp pho xép rồi giơ lên cho khán giả coi tựa như gắp một con trùng, giãy dụa để xem xét dưới ánh sáng. Liệu tôi có thể trình diễn một bài tập tương tự, cũng như đưa ra ánh sáng những mối liên hệ đan chéo trong mỗi truyện tôi viết ? Liệu tôi có thể thực tập với tác phẩm của tôi – với những truyện đã viết và cả những truyện tôi sẽ viết. Có thể nói là tôi sẽ nhìn kỹ lưỡng mối liên hệ thày – trò này? Điều này liệu có nói lên được cái gì sâu xa, mới lạ? Bây giờ tôi đang chú tâm tới nó, liệu nó có thể trở thành một ấn tượng nhàm chán, như những ấn tượng nhan nhản trong hàng trăm những truyện tầm thường. Hay là sự liên hệ này giữa hai người bạn ganh đua với nhau: liệu nó có sống động? Liệu nó có âm vang xúc cảm? Liệu nó có làm cho ta ngạc nhiên thích thú? Liệu nó có ba chiều? Bỗng nhiên tôi cảm thấy là tôi đã hiểu rõ hơn tại sao trong quá khứ, một số khía cạnh trong tác phẩm của tôi thất bại, dù tôi đã tìm những biện pháp tuyệt vọng để chỉnh sửa. Ý tưởng đến với tôi – trong khi tôi tiếp tục nhìn chằm chặp vào John Barrymore – là tất cả những truyện hay – không cần để ý là cách thức kể lại ra sao, bảo thủ hay cấp tiến, là cần phải chứa đựng sự liên hệ quan trọng với chúng ta; là nó làm cho chúng ta cảm động, thích thú, giận dữ, ngạc nhiên. Có lẽ trong tương lai, nếu tôi lưu tâm nhiều đến sự liên hệ, những nhân vật của tôi sẽ tự họ lo toan lấy. 

Một chuyện xảy ra trong khi tôi nói điều này có lẽ là đã nêu ra một điều quá rõ ràng bình thường cùng quí vị. Nhưng tất cả tôi có thể nói ra đó là một ý nghĩ đến với tôi cách ngạc nhiên, nghĩa là nó đến trễ trong cuộc đời viết văn và giờ đây tôi coi nó là một khúc quanh, có thể so sánh với những khúc khác mà tôi đã mô tả hầu quí vị ngày hôm nay. Từ đó, tôi đã xây dựng những truyện của tôi bằng lối văn khác. Thí dụ khi tôi viết Never Let Me Go, tôi đã khởi sự bằng cách suy nghĩ về mối liên lạc ba chiều là trung điểm rồi đến những mối liên lạc khác từ đó lan ra. Đó là những khúc quành quan trọng sự nghiệp của một văn sĩ – có lẽ nó cũng xảy trong những nghề nhiệp khác – tương tự như vậy. Thường thường đó là những lúc rất nhỏ nhặt, có khi rợn tóc gáy. Đó là những tia soi rọi nhỏ bé, riêng tư. Chúng không phát hiện thường xuyên, và khi chúng hiện ra, chúng có thể đến không ầm ĩ, không do những thày dạy hay đồng nghiệp yểm trợ. Chúng thường cạnh tranh sự lưu tâm với những đòi hỏi dường như khẩn thiết, ồn ào hơn. Đôi khi những điều chúng lộ ra đi ngược lại chút khôn ngoan có sẵn. Nhưng khi chúng tới , điều quan trọng là cần phải nhìn nhận chúng là những việc cần phải làm. Nếu không, chúng tuột khỏi tay bạn. 

Ở đây tôi đang nhấn mạnh tới những cái nhỏ nhặt, những cái riêng tư vì điều cốt yếu là công việc tôi đang làm. Một người đang căm cụi viết trong căn phòng yên tĩnh, đang tìm cách móc nối với một con người khác, hay đang đọc trong một căn phòng yên tĩnh – hay không được yên tĩnh. 

Những câu truyện có thể giúp giải trí, hoặc đôi khi giảng giải, dạy dỗ một điểm gì đó. Nhưng với tôi, điều cốt yếu là những truyện đó truyền đạt tình cảm. Chúng kêu gọi những cái mà chúng ta chia xẻ giữa con người với con người, vượt qua mọi biên giới và chia cắt. Có những kỹ nghệ chói lòa lớn lao quanh những câu truyện; kỹ nghệ về sách báo, điện ảnh, chiếu bóng, truyền hình, kịch nghệ. Tựu chung, những truyện ký là truyện về một cá nhân nói với một người khác: Đây là cách nó làm cho tôi cảm thấy. Bạn có hiểu tôi muốn nói cái gì? Bạn có cảm thấy như vậy hay không? 

Bởi vậy chúng ta trở về với hiện tại. Mới đây tôi bừng tỉnh với nhận định là tôi đã sống một số năm trong ảo tưởng. Đó là điều tôi không nhìn thấy sự bất mãn và lo lắng của nhiều đồng loại quanh tôi. Tôi nhận ra rằng cái thế giới – một nơi đầy khích lệ, văn minh lại chật ních những người có ý chí tự do, châm biếm – lại thực sự nhỏ hơn tôi đã tưởng tượng, chưa hề nghĩ tới. 2016 quả là một năm đầy những ngạc nhiên, và đối với tôi, thật là xuống tinh thần vì biến cố chính trị ở Anh và Mỹ quốc cùng những hành động khủng bố đáng buồn xảy ra quanh thế giới, bắt buộc tôi phải nhìn nhận rằng sự phát triển không ngăn chặn được của những giá tri nhân bản tự do mà tôi đã ấp ủ từ lúc còn thơ có thể chỉ là ảo tưởng. 

Nhưng bây giờ nhìn ngược lại kỷ nguyên từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ thì lại là một kỷ nguyên của sự thỏa mãn, của những cơ hội bị bỏ lỡ. Những bất bình đẳng lớn lao – về sung túc và cơ hội – đã có dịp lớn mạnh giữa các quốc gia cũng như trong cùng một quốc gia với nhau. Đặc biệt cuộc xâm lăng bất hạnh vào Iraq năm 2003, rồi những năm với chính sách khắc khổ đã đè nặng lên dân thường, tiếp đến là sự suy sụp kinh tế lớn lao năm 2008, đã đưa chúng ta tới một thực tại mà những lý tưởng Cực Tả cùng những chủ nghĩa quốc gia địa phương phát triển mạnh mẽ. Kỳ thị chủng tộc – dù dưới dạng thức cổ điển hay canh tân, đã được chuyển đổi cho dễ thông hóa hơn – lại một lần nữa được ngấm ngầm thực hiện ở những nơi đường phố văn minh, chẳng khác gì một con quái vật bị chôn vùi nay vùng tỉnh dậy. Trong lúc này, có vẻ không có bất cứ nguyên lý cấp tiến nào để kết hợp. Thay vào đó chúng ta thấy là cả những nền dân chủ lành mạnh của Tây Phương đang phân rẽ thành những phe phái thù nghịch, do đó nẩy sinh cạnh tranh khốc liệt về tài nguyên và quyền lực. 

Rồi tới khúc quành – hoặc là chúng ta đã tới khúc này – với những thách thức do đột phá khoa học, kỹ thuật và y tế nằm sẵn. Kỹ thuật mới về chủng tính – như là kỹ thuật thay chủng tính CRISPER – và những tiến bộ về Trí Khôn Nhân Tạo, người máy (rô bô), đã đem lại những lợi ích lạ lùng, cứu nhân độ thế; nhưng chúng cũng có thể tạo ra những hệ thống thượng đẳng, tựa như sự tách biệt chủng tộc, và sự thất nghiệp lớn lao bao gồm cả những người thuộc thành phần ưu tú, chuyên nghiệp hiện tại. 

Bây giờ tôi là một lão ông đã 60 tuổi đời. Tôi đang dụi mắt, cố phân biệt những nét đại cương, bên ngoài mù mịt, của thế giới mà tôi không ngờ lại có thể có được cho tới ngày hôm qua. Liệu tôi có thể, vốn là một tác giả đã mệt mỏi, đến từ một thế hệ trí thức mệt mỏi, kiếm ra năng lực để chứng kiến nơi chốn không quen thuộc này. Liệu tôi có còn một chút gì lưu lại để cung cấp viễn kiến, đem lại những cảm xúc vào những cuộc tranh cãi, những cuộc đánh nhau, những cuộc chiến sẽ xảy ra trong khi xã hội nỗ lực để thích nghi với những đổi thay vĩ đại? 

Tôi sẽ phải tiếp tục và làm hết sức mình. Bởi vì tôi vẫn tin tưởng văn chương là quan trọng và sẽ đặc biệt vẫn là quan trọng khi chúng ta bước qua địa hạt khó khăn này. Tôi sẽ nhìn vào những văn sĩ thuộc thế hệ trẻ hơn để tìm cảm hứng và hướng dẫn chúng ta. Đây là kỷ nguyên của họ, họ sẽ có kiến thức, năng khiếu về kỷ nguyên mà tôi thiếu sót. Trong thế giới sách vở, chiếu bóng, truyền hình và sân khấu ngày nay tôi thấy được những tài năng khích lệ, mạo hiểm: nữ phái, nam phái trong tuổi bốn mươi, ba mươi, hai mươi. Bởi vậy, tôi rất lạc quan. Không lạc quan sao được? 

Xin quí vị cho tôi chấm dứt – xin hãy lắng nghe lời kêu gọi Hòa Bình của tôi. Tôi nghĩ thật là khó khăn đặt để cả thế giới vào việc làm những điều phải, nhưng chúng ta ít nhất cũng suy nghĩ được là làm cách nào mà chúng ta có thể chuẩn bị trong phạm vi nhỏ bé của chúng ta, phạm vi ‘văn chương’, nơi chốn mà chúng ta đọc, viết, in ấn, đề nghị, tố cáo, và trao giải thưởng cho những cuốn sách đã xuất bản. Nếu chúng ta phải đóng một vai trò quan trọng trong cái tương lai bấp bênh này, nếu chúng ta muốn có những văn sĩ thượng đẳng ngày nay, ngày mai, tôi tin chúng ta cần phải đa hóa hơn. Tôi muốn nói với hai ý tưởng đặc thù. 

Đầu tiên, chúng ta phải mở rộng thế giới văn chương thông thường vượt khỏi nhiều khu vực dễ chịu của những nền văn hóa ưu hạng đầu tiên trên thế giới. Chúng ta phải tốn công tìm kiếm nhiều hơn nữa để khám phá ra những hạt ngọc từ những nền văn hóa cho đến nay ít ai biết, hoặc là những văn sĩ sinh sống tại những nước xa xôi, hay ngay tại cộng đồng của chúng ta. Thứ đến: Chúng ta cần phải cẩn thận hết sức chớ có đặt ra những định nghĩa quá bảo thủ, quá hạn hẹp về cái gì tạo nên văn chương ưu hạng. Thế hệ kế tiếp sẽ tới với mọi thể loại mới, đôi khi là những đường lối kỳ quặc để kể ra những chuyện quan trọng, hấp dẫn. Chúng ta cần phải cởi mở tâm trí với họ, đặc biệt là về thể loại và hình thức, do đó chúng ta mới có thể nuôi dưỡng, ca ngợi những người trội nhất. Tại một thời điểm mà sự phân cực ngày càng gia tăng một cách nguy hiểm thì chúng ta cần phải lắng nghe. Văn hay, đọc tốt sẽ phá tan mọi rào cản. Chúng ta lại có thể khám phá ra một ý tưởng mới, một viễn ảnh nhân bản lớn lao, quanh đó mà quần tụ. 

Kính gởi lời chào tới Viện Hàn Lâm Thụy Điển, Cơ Sở Văn Chương Nobel và nhân dân Thụy Điển đã từ lâu làm cho giải Văn Chương Hòa thành một dấu hiệu sáng chói cho điều tốt lành mà nhân loại vươn tới. Tôi xin chân thành cảm ơn.

Kazuo Ishiguro
Thiên Nhất Phương lược dịch 04/09/2023. Sửa lại 10/02/2023.

Bình luận về bài viết này