Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ: Thơ phản ánh tâm hồn, trí tuệ, và nhân cách cao vời

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ: Thơ phản ánh tâm hồn, trí tuệ, và nhân cách cao vời

Chân dung Tuệ Sỹ. 
Tranh Đinh Trường Chinh.

Giáo hi Pht giáo Vit Nam Thng Nht, Ban Báo chí & Xut bn ca Hi đng Hong Pháp đang mi gTrí thc Pht t và văn ngh sĩ viết bài K Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tu S Đ tri ân nhng đóng góp ca mt bc cao Tăng thđc trong dòng sng ca Dân tc và Pht giáo Vit Nam sut hơn 60 năđy biến cva qua”. Nhân dp này, xin mi đc li mt s bài viết ca mt s trí thc Pht t cm nhn v Thơ và v nhân cách ca Thy Tu Sĩ.

 ***

Trn Trung Đo: Cng lau gy trĩu nng ánh tà dương.

Như một “cọng lau gầy” đang chịu đựng trong bão tố, tâm hồn Thầy vẫn theo chân hàng triệu đồng bào đang “xuôi ngược Thái Bình Dương” và nhiều triệu đồng bào khác đang rên xiết “trong bàn tay bạo chúa”.

 Một mình trong đêm khuya, ngồi “gõ nhịp xuống tường rêu” giữa “ngục tù thân bé bỏng”, Thầy vẫn không mất đi niềm hy vọng vào dòng “lịch sử”, nơi bao nhiêu “máu lệ quê cha” đã đổ xuống suốt mấy ngàn năm.

 Lịch sử hay như cách Thầy ví “ánh mắt tự ngàn xưa” sẽ soi sáng con đường dân tộc để vượt qua bao khốn khó và vươn lên cùng thời đại.

TÔI VĐI

Tôi vđi nhng đêm dài khc khoi

Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rng 

Trong bóng ti hn thù, tha thiết mã

Mt vì sao bên khóe ming rưng rưng.

Tôi vđi nhng đêđen lng gió

Màu đen tuyánh mt t ngàn xư

Nhìn hun hút cho dài thêm lch s

Dài con sông tràn máu l quê cha. 

Tôi vđi suđi quên sóng v

Quên nhng người xuôi ngược Thái bình dương 

Ngườ li gia vòng tay bo chú

Cng lau gy trĩu nng ánh tà dương 

Ri trước mt ngc tù thân bé bng 

Ngón tay nào gõ nhp xung tường rê

Ri nhm mt ta đi vào cõi mng 

Như sương mai, như ánh chp, mây chiu. 

 Tu S

 ***

Nguyên Siêu: Tu S – Thơ và Tư Tưởng Triết H

I. Mt Bóng Người Gy

 “Ngược xuôi nh na cung đàn

Ai đem quán tr mà ngăn no v

 Ấy là hai câu thơ đầu trong tập Giấc Mơ Trường Sơn đã tạo dựng hình ảnh cho một Phương Trời Viễn Mộng.

Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lýphiêu bồng từ Ðông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều. Dáng dấp đó với đôi bàn tay nhẹ lướt trên phím đàn cùng những nốt trắng đen, cung bậc cao thấp để tạo thành những âm thanh cao vút đến đỉnh núi chơi vơi hay trầm lặng vọng về biển khơi muối mặn. Dáng dấp đó, cặm cụi bên ngọn đèn khuya nơi cửa sổ, để nghe tiếng tàu đêm sình sịch lăn vào thành phố, mà mơ cho một chuyến viễn du làm thân lãng tử, làm người khai phá núi rừng, cho nương rẫy được tốt tươi từ vườn cà non đến luống khoai ngô sắn, vun xới tạo thành sức sống mãnh liệt từ miền núi đồi hoang vu, man dã. Dáng dấp đó, đêm đêm thao thức dưới mái chòi tranh lợp vụng để nghe tiếng côn trùng, dế mèn nỉ non dưới lòng đất mới, mà mơ về một tương lai tươi sáng cho quê hương. Dáng dấp đó, một thời đã hòa quyện với cỏ nội hoa ngàn, với bóng đêm soi đê nơi thôn dã để cùng hít thở không khí xóm làng, của đồng lúa vàng, lũy tre xanh của người nông dân cần cù hôm sớm, và cũng dáng dấp đó bên trong chắn song nhà tùđã ngồi làm thơ. Lời thơ người tù. Tâm thức người tù. Khí khái của người tù đã hiện hữu qua hai tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn và Ngục Trung Mị Ngữ.

 Dáng người soi trên bờ đê, trong núi rừng Vạn Giả, bên làng Hiền Lương, rẫy vườn nuôi sức sống cho người dân lao nhọc, dáng người đó là Thầy Tuệ Sỹ, là kẻ độc hành kỳ đạo của phương trời viễn mộng thi ca, mà sáng nay, trước Thiền đường dưới rặng bông sứ, trên đồi Trại Thủy, Nha Trang, Thầy thanh thản bách bộ như đếm từng bước chân đi, trên lớp sỏi đácủa ngọn đồi, tháng năm chuyên chở đời sống của bao lớp học Tăng Phật Học Viện Hải Ðức. Từng thời gian, âm thanh thi sắc kỳ hoạt, thản nhiên của Thầy, đưa chúng ta bước vào vườn thơ tâm thức.

 II. Gic Mơ Trường Sơn

 Ðá mòn phơi no tà dương

Nm nghe nước lũ khóc chng cuc chơi

Ngàn năm vang mt nđi

Gió đưa cuc l lên li vin phương

 (Mộng Trường Sinh – Tuệ Sỹ)

 Ðá mòn là vết tích bào gọt của thời gian, dạn dày theo gió sương năm tháng, như “nước chảy đá mòn”. Một sự kiên trì miên viễn, liên tục bất tận. Ðá mòn đó được phơi bày, hiển lộ chơvơ, hiu hắt, phong sương. Xa xa nhìn tảng đá mòn phơi thân dưới ánh tà dương, buổi chiều, hoàng hôn buông phủ, lại thấy cảnh đời hiển sinh gần như vụt tắt, trả lại cho mặt đất chìm dần trong đêm tối. Người đi trong cuộc lữ là tâm tư của Thầy trong núi rừng Soi Ðê giữa khuya u tịch nằm nghe tiếng nước thác ngàn đổ về đồng bằng, xuôi đi vạn dặm mà gào thét rầm rộ qua bao vách ghềnh, vực sâu, trong đục của cuộc lưu đày hòa nhập vào đại dương muôn trùng. Một cuộc viễn hành không dừng chân cát bụi. Một cuộc rong chơi vô tận, chẳng hẹn hò, không bến đậu, không có thời gian để qua và không có không gian để yên nghỉ. Người đi vào cuộc lữ như cánh chim trời mà Thầy đã tự ví mình như cánh hải âu nghìn trùng bạt gió:

 “Mtước hn đã chôn vùi tang tóc

Cánh chim tri xa mãi gia lòng sâu

Nghe mt ni hao mòn trong thoáng chc

Một mùa thu một vạn tiếng kêu gào”

 (Tuệ Sỹ)

 Trong cuộc tồn sinh này có nhiều ước hẹn, ước nguyện, ước mong, nhưng tất cả những nỗi niềm ước mơ đó dường như đã bị dập tắt trong Thầy, đã chôn vùi trong đau thương tang tóc. Chúng ta đã không biết Thầy đã có ước hẹn gì? Với ai? Trong trường hợp nào? Mà qua lời thơ Cánh Chim Trời thì ước hẹn đó “đã chôn vùi tang tóc”, gây xúc động cho người đọc: “một ước hẹn không thành”. Hãy thử lập lại: “Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc, Cánh chim trời xa mãi giữa lòng sâu”. Từ đây gây cảm xúc cho người đọc là một ước hẹn lên đường dựng lại quê hương, mà chí nguyện không thành? Hay ước hẹn làm người con dân của một quê hương không được trọn vẹn trong sự thanh bình, tự do, hạnh phúc? Tất cả những tâm tư đó, chínguyện đó đã chôn vùi trong tang tóc của một kẻ sĩ nung chí quật cường? Hay tấm lòng từ bi được trang trải đến những người dân cùng khốn nơi ven rừng hay phố thị?

Những chữ trong bài thơ: “… đã chôn vùi tang tóc… xa mãi giữa lòng sâu… hao mòn trong thoáng chốc… một vạn tiếng kêu gào…” Tất cả những hình ảnh và âm thanh tan vỡ, sụp đổ, tuyệt vọng trong khốn cùng.

Hầu hết những bài thơ trong tập Gic Mơ Trường Sơn của Thầy được sáng tác sau năm 75, do đó, những từ ngữ, biểu tượng được dựng nên nhằm mang nhiều ý nghĩa, ẩn hiện, hư thực cho một chặng đường lịch sử quê hương dân tộc lâm vào cảnh khốn cùng. Và cũng từ tâm trạng của một sỹ phu thời đại, của một người con dân nước Việt, chân tình của một bậc xuất gia thưthái đi trên con đường phụng hiến tâm nguyện cứu đời mà Thầy đã viết nên những lời thơ tâm thành khí phách đó, nhưng không thiếu phần xót xa, đoài đoạn như những lời thơ trên. Những lời thơ đã bật lên tiếng “thở hơi dài”. Vì sao Thầy phải “thở hơi dài” có lẽ “giấc chiêm bao” của Thầy đã không trọn, giấc chiêm bao đã bị cát bụi cuốn đi rồi. Giấc chiêm bao đó có thể là Thầy mong đem khả năng, trí tuệ của mình mà dựng xây, bồi đắp cho một quê hương dân tộc được thấm nhuần nền phong hóa thuần hậu của Tổ tiên mà suốt dòng lịch sử, tiền nhân đã hy sinh xương máu để gìn giữ giang sơn gấm vóc được phú cường, thịnh vượng? Và cũng có thểgiấc chiêm bao là sự hy vọng phát huy đạo Phật Việt, nền văn hóa giác ngộ cho tất cả mọi người, cho khắp nhân loại mà Phật giáo Việt Nam là một biểu tượng cụ thể? Giấc chiêm bao bịcát bụi cuốn đi, nên Thầy thở dài cho một vận nghiệp quê hương và Ðạo pháp hôm nay?

 Thế nhưng, dẫu cho giấc chiêm bao bị cát bụi cuốn đi, nhưng, “bên cửa sổ bên kia đồi sao mọc.” Người đọc có thể hiểu bên cửa sổ, nhìn qua phía bên kia núi đồi chập chùng còn có một điểm sáng. Ðiểm sáng trên quê hương, điểm sáng trong tâm thứcmọi người. Ðiểm sáng của sự hy vọng cho tương lai. Ðiểm sáng bừng dậy sau một ngày dài đen tối.

 Sao mọc cũng có nghĩa vì Sao Mai, biểu hiện ngày sắp sáng và đêm sẽ tàn. Dân tộc và Ðạo pháp Việt Nam trong kỳ vọng quang vinh bất diệt. Từ những tâm tư, trầm tịch, những nỗi niềm chôn sâu vào sự hưng khởi cho lý tưởng thực dụng, siêu thoát, nhưng khi nghĩ lại mình thì cát bụi đã đoanh vây, phủ kín. Từ những ý thức tận cùng tư tưởng, từ những lý giải, tra vấn tự thân để viết nên tâm tư hoài niệm. Nhớ về một ký ức xa xưa, hay ước mơ làm thân lãng tử vôđịnh nơi chân trời, góc biển, bên cội thông già hay đứng nắng giữa lòng sông.

Hoài niệm là tưởng nhớ những gì đã qua, về những suy tư, tâm thức. Trong bài thơ Hoài Niệm, Thầy dùng những từ ngữ nghe như buông thả, như bâng khuâng, như dật dờ sương khói. Nhưhình bóng người hóa thân vào cát bụi, bằng đôi chân trần, bàn tay khô.

Hoài niệm để thấy được ý nghĩ của mình muốn làm cuộc lữ, muốn đi khắp bốn phương trời, muốn rong chơi đây đó, bỏ lại sau lưng bụi đường thời gian phủ kín. Sự hóa thân cho cuộc lưu đày sinh tử, hiện thành lục phàm, từ thánh mà hóa độ chúng sanh. Có làm một cuộc lữ, một cuộc lên đường thì mới thấy được sự tàn phá, hoại diệt hay sinh thành vượt thoát.

 Chúng ta hãy nghe bài thơ Hoài Niệm như âm ba muôn trùng giữa lòng tử sinh:

 Mđêm thôi mt trm sâđáy bin

Hai bàn tay khói ph tóc tơ xa

Miđđó trăng đã gy vĩnh vin

T vu vơ bên gic ng mơ h

Mt ln đnh như sao ngàđã đnh

Li mt ln nông ni vết sa cơ

Tri vn vy vn mây chiu gió tnh

Vn mđi nghe k chuyn không như

Vn sng chết vi điêu tàn v vĩnh

Рmt mù nhìn li cõi không hư

Mt ln ngi trước thông già cung knh

Chng mt ln lm l không ư?

Ngày mai nhé ta ch mi mt chuyến

Hai bàn tay khói phủ tóc tơ xa.

 (Hoài Niệm – Tuệ Sỹ)

 Chúng ta hãy lắng tâm, thanh thản để nghe từng âm điệu hiu hắt chứa chan niềm mẫn cảm tuyệt cùng của ý thức. “Mắt trầm sâu đáy biển”, “Khói phủ tóc tơ xa”, “trăng đã gầy vĩnh viễn”, “giấc ngủ mơ hồ”, “như sao ngàn đã định”, “nông nổi vết sa cơ”, “mây chiều gió tỉnh”, “điêu tàn vờ vĩnh”.

 Qua những lời thơ ấy, chúng ta thấy tâm tư Thầy đã hóa hiện vào dòng luân hồi tử sinh, để cócái nhìn tổng thể, một tức là tất cả, tất cả tức là một. Tất cả những lời thơ ấy là thực tại của pháp giới, là vốn liếng của chúng sanh, là chất liệu của sự sống và sự chết của thế tục đế, mà Bồ Tát độ sinh không thể thiếu những gia tài của phàm tục.

 Cũng đôi mắt đó, cũng hai bàn tay đó. Cũng tóc tơ đó và cũng giấc ngủ đó, Thầy đã mang hành trang lên đường như câu: “Một lần định như sao ngàn đã định”, “Ngày mai nhé ta chờ mi một chuyến”. Dấn thân vào cuộc lữ tam giới để phụng sự hạnh nguyện cứu độ sinh linh vững chãi, quyết tâm “sao ngàn đã định”, và một chuyến ra đi là “vĩnh viễn con tàu”.

 Ðọc thơ Thầy Tuệ Sỹ, chúng ta thấy những lời thơ: “Ðá mòn, tà dương, nước lũ, viễn phương, cuộc lữ, tử sinh, đồng hoang, cát bụi, sương mù, gió lốc, tóc trắng, phiêu lưu, viễn mộng, đọa đày, kiêu hùng, trùng khơi, đồi hoang, khung trời hội cũ…” mà Thầy luôn đối diện với chính nó, với vách tường ủ rũ, với ngược nước xuôi ngàn, với trăng tàn núi lạnh, với hạt muối biển khơi… mà không là những chất liệu kiêu sa, hãnh tiến, không là gấm vóc lụa là, một chất liệu bình dị thường nhật mà bao con người thường có trong cuộc sống, từ cái ăn cái ở cho đến cái trang nghiêm tự thân. Thầy tự trang bị cho mình những ánh nắngvà bóng nước. Những chiều tà hay sao mai, những đá cuội, bụi đường hay bên gốc thông già giữa sườn núi cao. Ðó là hành trang của Thầy, cho người vào cuộc lữ, cho phương trời viễn mộng.

 Ðể thấy rõ hơn nữa những lời thơ khắc khoải ấy, trong những năm tháng ở tù, lần thứ hai tại Sài Gòn 1978, qua bài Dạ Khúc:

 Tiếng ai khóc trong đêm trườngut hn

Li ai ru trào máu l bi thương

Hn ai đó đôi tay gy s song

Là hn tôi tìm du cũ quê hương

Ai tóc trng đìu hiu trêđnh tuyết

Bước chp chn heo hút gia màn sương

Viên đá cui my ngàn năm cô qunh

Hn tôđâu trong du tích hoang đường?

 Dạ khúc là khúc nhạc, khúc hát về đêm. Khúc ca của ai đó? Hay là khúc dương cầm của Thầy được tấu lên trong chốn lao tù? Khúc dương cầm không phiếm? Khúc vĩ cầm không cầm? Khúc Tây ban cầm không dây? Khúc nhạc không lời, chỉ là đôi tay Thầy gõ nhịp xuống tường rêu, trên vách tường nhà tù của chế độ, để hòa quyện vào “tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận” để đi vào “lời ai ru trào máu lệ bi thương”. Khúc nhạc thống thiết, tâm cảm bi hoài để chia sẻ nỗi đau của nhân thế, của hồn ma bóng quế dật dờ, của đôi tay xương xẩu, gầy guộc mà sờsoạng, trong đêm đen tìm nhau dìu dắt. Nhưng chẳng ai xa lạ “trong đêm trường uất hận” chẳng ai “trào máu lệ bi thương”, chẳng ai có “đôi tay gầy sờ soạng” mà tất cả chính là “hồn tôi” đang đi “tìm dấu cũ quê hương”. Vậy “dấu cũ quê hương” theo Thầy là dấu cũ gì? và dấu cũ ấy ở nơi đâu? Người nghe qua “dấu cũ quê hương” có thể là con đường lịch sử hơn 4000 năm văn hiến. “Dấu cũ quê hương” là con đường của bao anh hùng liệt nữ đã đi qua còn in rõnhững dấu chân kỳ tích. Là con đường của các bậc tiền hiền tổ đức đã đi để gây dựng cơ đồ, giang sơn gấm vóc cho giống nòi Hồng Lạc Rồng Tiên. Dấu đi đó còn vang vọng theo hồn thiêng sông núi, theo tiếng gọi của quê Cha, theo lời ru của đất Mẹ. Và “dấu cũ quê hương” đó mãi mãi là di sản trân quý của dân tộc giống nòi. “Dấu cũ quê hương” trải qua các triều đại thăng trầm, vinh nhục, thịnh suy, nhưng dấu cũ ấy, con đường lịch sử ấy vẫn in đậm trên quê hương, là cái nôi nuôi lớn chủng tộc Ðại Việt, Ðại Cồ Việt. Người đọc được nghe “viên đácuội mấy nghìn năm cô quạnh, hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường”.

 Viên đá cuội có mấy nghìn năm tuổi thọ? Viên đá cuội anh linh giống nòi, viên đá tự tồn, độc lập từ thuở sơ khai đã lênh đênh thăng trầm cùng dòng sử Việt từ thủa dựng nước.

 Qua các bài thơ tù trong tập Gic Mơ Trường Sơn, với những ý thơ, lời thơ mang nặng tình quê hương dân tộc, mang nặng tính tự tồn, tự chủ mà tâm tư Thầy luôn cưu mang nặng trĩu vận mệnh của nước nhà, của khúc quanh lịch sử. Một biến cố tan hoang, xé nát da thịt của quê hương:

 Tôi vđi nhng đêđen lng gió

Màu đen huyánh mt t ngàn xưa

Nhìn hun hút cho đêm dài lch s

Dài con sông tràn máu l quê Cha

Tôi vđi suđi quên sóng v

Quên nhng người xuôi ngược Thái Bình Dương

Ngườ li gia lòng tay bo chúa

Cng lau gy trĩu nng ánh tà dương.

 (Tôi Vẫn Ðợi – Tuệ Sỹ)

 Thầy như người con của quê hương bị giam hãm trong ngục tù thời đại, nhưng cũng từ ngục tù đó Thầy vẫn đợi một đêm gió lặng, sóng êm. Một đêm tối trăng nhưng thanh bình an lạc đểtự mình nhìn sâu vào con đường lịch sử. Nhìn hun hút diệu vợi bằng đôi mắt đen huyền, bằng ánh mắt của tự ngàn xưa, để thấy trên con đường dài lịch sử ấy như một dòng sông tràn máu lệ quê Cha. Dòng sông lịch sử đó, từ đầu nguồn lịch sử cho đến hôm nay đã mang về bao phùsa màu mỡ làm tươi tốt ruộng đồng, dân sinh thịnh vượng. Dòng sông lịch sử chuyên chở bao máu xương, nước mắt của nhiều thế hệ tiền nhân, những người đã hy sinh lót đường cho hàng hậu tấn tiến tới, cho hàng con cháu tiếp nối xây dựng cơ đồ non sông. Và cũng trong tình tự sông núi quê hương, trong thân phận người con dân nước Việt, tâm tư Thầy như không phút nào nguôi ngoai, phai lãng cái nhớ, cái nghĩ, cái suy tư, ước vọng để tựu thành dòng sử mệnh quê hương, để tựu thành dòng máu anh linh của dân tộc và để tựu thành cái hùng, dũng, trường tồn tịnh lạc cho giá trị sống của dân mình. Do vậy, lời thơ và tâm thức Thầy hòa quyện vào nhau không thể phân ly con người và quê hương. Bằng tình tự đó, quê hương dân tộc là mình và mình là quê hương dân tộc:

 Tiếng tr khóc ngân vang livĩnh cu

T nguyên sơ sông máu thđng xanh

Tôi là c trôi theo dòng thiên c

Nghe li ru nh mãi bui bình mình

 (Bình Minh – Tuệ Sỹ)

 Tiếng trẻ khóc mà phải ngân vang lời vĩnh cửu, hay là lời thề nguyền xây dựng quê hương? Tiếng trẻ khóc đó là dân tộc Việt Nam? Là giống nòi Lạc Việt? Là tiếng nói đầu đời của con dân Hùng Vương? Từ tiếng khóc đó vang dội về thủa nguyên sơ, buổi ban đầu vào thời lập quốc, từ thuở hồng hoang Tổ tiên khai phóng đất nước đem máu xương mình tưới thắm ruộng đồng. Công đức ấy ngàn năm còn vang vọng, còn tồn tại vĩnh cửu trong lòng người dân Nam.

 Suốt một chiều dài lịch sử dân tộc, có lúc quanh co, khúc khuỷu, có lúc bằng phẳng, thênh thang nhưng Tổ tiên mình, anh hùng của quê hương mình, dân tộc yêu thương của mình đãtốn hao bao xương máu: có lúc chống giặc ngoại xâm để giữ yên sơn hà xã tắc, có lúc phải canh tân đất nước để theo kịp nền văn minh tiến bộ của loài người và cũng có lúc phải xây dựng nền hòa bình an lạc để khai mở, bảo tồn nền văn hóa dân tộc trong ý thức chống ngoại xâm. Bằng giá trị kiêu hùng của “sông máu thắm đồng xanh” thì Thầy là ngọn “cỏ trôi theo dòng thiên cổ” mà ngẩng đầu cao để nghe lời ru từ thủa bình minh.

 Ví mình như ngọn cỏ, sống trên mảnh đất quê hương, cùng nổi trôi theo vận nước dân tộc màkhông tách lìa khi đất nước điêu linh.

 Ðọc thơ Thầy Tuệ Sỹ, ta thấy rạt rào tình tự dân tộc, ngập tràn chí nguyện cho quê hương vàluôn giữ gìn kỷ cương giềng mối của Tổ tiên, làng nước, hầu như những bài thơ của Thầy đều thấp thoáng hình ảnh của cánh đồng, ruộng lúa, của nương khoai, luống cải, của đồi núi biển khơi, của sông tràn nước lũ và cát bụi mơ hồ khói sương tóc trắng.

Qua một số bài thơ tiêu biểu được trích dẫn trong tập Giấc Mơ Trường Sơn của Thầy TuệSỹ: chúng ta đã thấy được đôi phần nỗi niềm tâm sự của Thầy, của người dân đang sống giữa lòng quê hương, băn khoăn về vận mệnh đất nước.

 III. Ngc Trung M Ng

  Tiếp theo Gic Mơ Trường Sơn là Ngc Trung M Ng.Thơ trong tập Ngc Trung M Ng là thơ chữ Nho được làm trong thời gian ở tù – mang bản án tử hình – nghe nói khá nhiều, nhưng đến với người đọc chỉ khoảng đôi mươi bài. Trong đôi mươi bài thơ chữ Nho ấy chúng ta thấy cái tâm hồn an nhiên tự tại, thư thái xuất trần siêu thoát, trong khí khái của một người tù màkhông bị câu thúc giam hãm, qua bài Trách Lung:

 Trách lung do t ti

Tn b nhược nhàn du

Tiếu thođc cnh hưởng

Không tiêu vĩnh nht su

 Dịch:

 Lng cht vnt ti

Qua li như nhàn du

Nói cười chơi vi bóng

Tiêu sái tù thiên thu

 Ðây là tâm lượng của người tu, thân tù mà tâm không tù. Dù ở trong bốn vách lao lung màvẫn an nhiên tự tại qua lại nhàn du, vẫn nói cười với bóng hình của mình, được xem như người bạn cố tri luôn có mặt để nói, để chia sẻ có nhau. Tâm tư này dù có ở bất cứ nơi đâu cũng không bị duyên trần ràng buộc, không bị chi phối bởi ngoại cảnh nhân duyên, vì đã tựlàm chủ bản thânmà không bị hệ lụy, bị sự sai thù, chung biệt của thế gian, một khi tâm đã an thì ba cõi cũng được an. Chúng ta hãy nghe tâm an nơi cõi Thiền qua bài thơ Biệt Cấm Phòng của Thầy:

 Ngã cưkhông xnht trùng thiên

Ngã gii hư vô chân cá thin

Vô vt vô nhơn vô thm s

Ta quan thiên n tán hoa miên

 Dịch: Xà Lim

 Ta  tng Trikhông vô biên

Nơy tch nhiên Thin tht Thin

Không vt không người không đa s

Nhìn xem hoa vũ bi Tiên thiên.

 Ðọc qua những dòng thơ này, chúng ta không dám lạm bàn vì rằng đem cái tâm phàm tục, hữu hạn của mình mà luận giải cái tâm vô tâm, cái tướng phi tướng, thì làm sao dám bình luận, lý giải? Chỉ có điều là chúng ta hãy lắng tâm chiêm nghiệm một tâm thức siêu thoát, tùy theo chỗ ở thường an lạc của Thầy mà học mà tu, mà cầu mong thành đạt đôi phần như vậy. Và, chúng ta hãy theo Thầy tiến thêm bước nữa để thấy lòng Thầy thanh thản như làn mây giữa bầu trời vô tận, qua bài Tự Vấn:

 Vn dư hà c ta lao lung

Dư ch khinh yên bán ngc khung

Tâm cnh tương trì kinh l mng

Cố giao già tỏa diện hư ngung

 Dịch: Hỏi Mình

 Hi mình sao phi lao tù?

Song thưa ca ngc có tù được mây?

Kiên trì cuc l vàng bay

Li xưa còđó phút giây không sn.

 Rõ thật, tâm không ba ngàn thế giới đại đồng. Tâm đã không thì ai giam giữ được? Mây đãnhẹ bềnh bồng trôi thì cửa ngục song thưa nào nhốt được gì? 

Thầy như áng mây trôi giữa bầu trời vô định!

 IV. Nhng Ðip Khúc Cho Dương Cm

  Qua hai tập thơ Gic Mơ Trường Sơn và Ngc Trung M Ng đã chứa đựng những tâm tình chất ngất, có đủ mọi hình ảnh, tâm tư, tri thức hoặc vô thức, phân biệt hay vô phân biệt, được chuyển tải từ nơi đó. Giờ chỉ là Những Ðiệp Khúc Cho Dương Cầm:

 S 3:

 Trên du thăng

âm đàn trĩu nng

Khóe môi in du hn nghìn trùng

Âm đàn đó

chìm sâu o vng

Nhp tim ngng trng tri thi gian

Thi gian ngưng

mt tri vết bng

vn thi gian

si khói buông chùng

Anh đi mãi

thm rêu vơi mng

Bi nng mòn

c di ven sông

S 8:

 Công Nươngb quênchút hn trên du lng

Chui cadence ray rt ngón tay

n sâu xung ưu phin trên phím trng

Na phím cung chi nhp lưđày

 S 13:

 Ô hay, giây đàn chđt.

Bóng ma đêm như tht.

Cđu tay giá băng.

Ðip khúc lng trm trong mt.

Ri phíđàn lơi lng;

Chùm âm thanh ri, ngón tay rát bng

Cht nghe nguyt quế thoáng hương

Ðip khúc chm dn theo du lng.

S 18:

 Tiếng xe đùa qua ngõ

Cành nguyt quế rùng mình

Hương tan trên du lng

Giai điu tròn lung linh

 Bầu trời thơ của Thầy đầy hương sắc, có đủ hình hài dáng dấp chân thân, thoạt hiện, thoạt biến, người viết chẳng có thể dùng lời diễn đạt, chỉ như bâng quơ đâu đó một vài cảm xúc hoang sơ, thô lậu để đóng góp cho cái gọi là đọc thơ cho nghe giữa một giảng đường đông thính chúng. Chỉ đọc không thôi, chúng ta đã thấy có một cái gì đó dị thường được ẩn kín trong thơ, thì ta nào dám tỏ bày ngôn từ bình phẩm. Chúng ta hãy nghe triết gia Phạm Công Thiện đọc thơ Tuệ Sỹ: “Nói rằng thơ Tuệ Sỹ hay hoặc không hay thì lố bịch. Chỉ có thểnói rằng thơ Tuệ Sỹ đáng được chúng ta đọc đi đọc lại nhiều lần và suy nghĩ lan man hoặc cảm nhận tùy hứng, Ít nhất có một người làm thơ đáng cho ta đọc giữa “sống chết với điêu tàn vờvĩnh” để cho chúng ta còn có được “một buổi sáng nghe chim trời đổi giọng.” Ðặc tính thứ ba và cuối cùng của thơ Tuệ Sỹ chính là tiếng thơ đổi giọng của một loài chim đi từ cõi xa xưa của vô biên tế kiếp trong lòng sâu thẳm của tính mệnh quê hương.”

 Và nơi đây chúng ta cũng thử nghe lời nói của Bùi Giáng, khi đọc thơ Thầy: “Tuệ Sỹ là một vịsư, ông viết văn quá nghiêm túc, nhưng sở tri của ông về Phật Học quả thật quảng bác vôcùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u…” Và Bùi Giáng đã đi vào cõi thơ Tuệ Sỹ: “Mới đọc bốn câu thôi – trong bài thơ Khung Trời Hội Cũ, tôi cũng đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.”

 Rồi thi sĩ thảng thốt: 

 “Tôi hoảng vía đề nghị: Ðại sư nên gác bỏ viết sách đi và làm thơ tiếp nhiều cho, nếu không thìnền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.”

 Ðó là hai nhận xét của các bậc Triết gia, Thi sĩ của chúng ta, qua phạm trù thi ca, ngôn ngữ, triết lý của Thầy Tuệ Sỹ.

 V. Ðôi Dòng Tư TưởngTriết Hc

 Song hành với ý thơ lời nhạc, Thầy như một học giả hay đúng hơn là nhà khảo cứu Tưtưởng Phật Học qua các công trình tư duy triết lý Long Thọ và Biện Chứng Pháp, hay Cogito Bát Nhã – Dưới ánh sáng của hiện tượng luận để từ đó đưa đến sự so sánh các vấn đề Triết Học Ðông Tây Cogito trong Triết Học Phật giáo, như là Thiền: Con đường thể nghiệm Cogito của Ðức Phật.

 Thầy đã dành nhiều thời giờ nghiên cứu Triết Học Tánh Không hay dịch thuật Kinh Luật Tạng là yếu chỉ của sự tu tập, là kỷ cương giềng mối, là mạng mạch của Tăng già để cho thếhệ tân học Tỳ Kheo đọc tụng. Ấy là hoài bão của Thầy trên con đường phụng sự cho thế hệ kếthừa.

 Thầy xây dựng tư tưởng của mình trên nền tảng Triết học thực dụng và chính đó là tiêu đích để trao truyền cho nhiều thế hệmai sau. Tư tưởng thực dụng ấy, được thể hiện qua bài thơTiểu Khúc Phật Ðản của Thầy để thấy một Triết lý như thật. Một nhân sinh quan thực tại trong phạm trù thế gian và làm sao vượt thoát cái thực tại thế gian để có được một nền Triết học giác ngộ:

 “Thi gian v cánh ngang đu

Sinh, già, bnh, chết, tránh đâu vn cùng

 Kh đau là khi tình chung

Ai nâng cõi thế qua bùn t sinh”

 Thầy đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam những công trình khảo cứu, dịch thuật, thi văn, tư tưởng Triết học để khu vườn văn hóa Việt Nam thêm nhiều hương sắc. 

 Nguyên Siêu

(Ðêm Thơ Nhạc Tuệ Sỹ và Trần Trung Ðạo – Chicago – 21 tháng 10, 2006)

Trích: Tuệ Sỹ – Đạo Sư, Thơ, và Phương Trời Mộng (tập III) do Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang xuất bản tại Hoa Kỳ, năm 2013.

 Ngun: Bch X Ph

Bình luận về bài viết này