Nguyễn Hoàng Văn: Mặt xanh, mặt đỏ
Nguyễn Hoàng Văn: Mặt xanh, mặt đỏ
Đâu cuối thập niên 1990 ở Melbourne, đến dự buổi thuyết trình của hai diễn giả Vũ Thư Hiên và Nguyễn Gia Kiểng, tôi chứng kiến mấy khuôn mặt đang đỏ gay, đằng đằng sát khí bỗng nghệch ra, xanh mét!
Mà trước đó mấy ngày, trong một tiệm phở tại Footscray, tôi đã mơ hồ hình dung ra thứ “sát khí” màu xanh tai tái ấy rồi. Cạnh bàn tôi là ba ông đứng tuổi, vừa húp phở sồn sột, vừa ầm ĩ hẹn nhau đi “nói chuyện phải quấy với hai thằng nằm vùng” mà, ở đời, từ việc lớn đến việc nhỏ thì, nếu sợ hay nể, chúng ta chỉ nể hay sợ những kẻ thâm trầm và kiệm lời, chẳng ai ngán mấy thứ chính trị gia chuyên phun nước bọt nơi quán sá loại này.
Nhà văn Vũ Thư Hiên là con trai ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên là bí thư riêng của Hồ Chí Minh, bất kể cả hai bố con đã bị tù đày như thế nào, những kẻ quá khích chỉ cần bám vào chuyện này để có lý do chống đối. Còn ông Nguyễn Gia Kiểng thì bị khó chịu với cụm từ “hòa hợp hòa giải”: bất kể rằng đây chỉ là “bình cũ rượu mới”, nó vẫn làm họ điên tiết nhớ lại những kẻ làm rối ren tình hình miền Nam trong thời chiến và cái cảnh lăng xăng như những con rối hay lũ hề vào trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Vì ông Nguyễn Gia Kiểng từng bị những kẻ cực đoan hành hung trong một buổi thuyết trình ở Tây Âu nên ban tổ chức đã bố trí một thanh niên giỏi võ đứng chắn ngay lối đi từ khán phòng đến bục diễn giả: nếu ai đó hung hãn xông lên thì sẽ bị vô hiệu hóa ngay rồi tống cổ ra ngoài. Tôi biết rõ vì “võ sĩ” này là con trai chị bạn của tôi, lúc đó là sinh viên Đại học Melbourne và là lính trừ bị của Quân đội Úc. May, không có ai làm liều, chỉ thấy áp lực bùng ra trong giờ chất vấn và giải đáp theo giọng điệu “nói chuyện phải quấy”, chủ yếu xoay quanh đường lối “hòa hợp hòa giải” của ông Kiểng.
Một ông tuổi trung niên, mặt đỏ gay, đuối lý sau một hồi lý sự, đã hùng hổ gầm lên như thể phát tối hậu thư: “Không có hòa hợp hòa giải gì cả, chỉ có một biện pháp duy nhất là giải tán ngay lập tức Đảng cộng sản Việt Nam!”.
Đảng kia “giải tán ngay” đâu chưa thấy, chỉ thấy một tràng pháo tay giòn giã, rôm rốp khiến người chất vấn được lên dây cót, cười mãn nguyện trong khi ở bên trên thì diễn giả lặng thinh, đợi tràng pháo tay và những âm thanh phụ họa lắng dần mới thủng thẳng trả lời, đại khái: “Tôi cũng muốn giải tán cái đảng đó ngay lập tức lắm chứ, nhưng tôi không biết phải làm sao để giải tán nó ngay, bởi vậy tôi mới tìm cách giải tán từ từ….”
Đến lúc này thì bậc anh hùng nghệch mặt ra, lặng lẽ ngồi xuống, tẽn tò hết nước nói!
Ông Nguyễn Gia Kiểng là người làm chính trị, muốn tạo tiếng nói chung đúng theo trường phái “hòa hợp hòa giải” nên mới hòa hoãn thế. Gặp một nhà chính trị đối đầu, ông ta cũng vỗ tay, ông cũng bày tỏ sự hớn hở vui mừng, đợi khi khán phòng im lặng, cử tọa vỗ tay và hú hoáy chán rồi mới nhỏ nhẹ mời đấng anh hùng kia bước lên, đề nghị anh có cây đũa thần hay câu thần chú gì đó hãy mang ra làm phép để “giải tán ngay” cái đảng kia cho dân tộc nhờ: làm được thì làm, còn như chỉ nói cho sướng mồm thì… shut up.
Gặp phải cảnh này,không biết bậc anh hùng sẽ còn nghệch mặt ra và tẽn tò đến mức nào nữa?
Rồi thì buổi thuyết trình kết thúc, tôi được ban điều hợp kéo đi ăn tối cùng hai diễn giả tại một nhà hàng ở Richmond, sau đó tất cả tập trung tại nhà của người điều hợp là anh Trần Như Hùng (Quốc Việt- SBS) để tâm tình, thảo luận, gọi là bàn bạc “chuyện nước non mình”. Tôi nhớ cảnh ở nhà hàng, ông Nguyễn Gia Kiểng nhấp một ngụm rượu vang rồi nói, nửa đùa nửa thật, sao mà ông phục bà “vô thượng sư” kia quá: ông nói hết lòng, vận dụng hết sở học ra nói mà người tin theo mình cứ lác đác như lá mùa thu, còn bà kia nói chuyện gì mà thiên hạ lại tin răm rắp. Nhiều người cười vui, thêm thắt những lời bông đùa còn tôi thì im lặng nghĩ đến hình ảnh đấng anh hùng khi chiều, rồi nhớ lại một chuyện vui vui ngày trẻ.
Một lần cùng người bạn ghé chơi ký túc xá của một trường sư phạm ở Đà Nẵng, tôi chứng kiến một giáo sinh trẻ, đâu ở vùng quê mới nhập học, lóng ngóng trên cây đàn guitar của một bạn học như thể chưa bao giờ được sờ vào cây đàn, mắt thì vồ vập từng chữ từng hình trên cuốn Bảy ngày biết đờn. Thấy cảnh này, một giáo sinh lớn tuổi nhìn với ánh mắt khinh khỉnh, buông một câu: “Thằng này thì phải tìm cho nó cuốn ‘Hai ngày biết đàn’!”
Đây, mấu chốt của vấn đề là đây!
Thời trẻ mới tập tành làm quen với từng nốt nhạc trên phím đàn mà nhìn người đi trước, chỉ một tay chơi đàn bình thường thôi chứ chẳng cần đến hạng diệu thủ, nhẹ tay “chuyển gam”, nhảy từ hợp âm này sang hợp âm kia, ai cũng có cảm tưởng là sao mà tài quá, giỏi quá, rồi ao ước là làm sao mình có thể làm ngay được như thế. Các nhà dạy đàn biết cái tâm trạng nôn nao này nên dốc sức khai thác về thương mại; đầu tiên thì thấy Ba mươi ngày biết đệm Tây Ban Cầm nhưng rồi 30 ngày cũng dài quá, ông Nam Phong tung ra Bảy ngày biết đờn. Vậy mà vẫn chưa đủ với cậu thầy giáo tương lai kia, phải có ai đó soạn cho cậu ta cuốn Hai ngày biết đàn.
Nhưng hai ngày thì cũng là dài so với đám đánh võ nước bọt “giải tán ngay”, cái lối nói chỉ để mà nói, chẳng hề làm lay động lấy nửa sợi lông chân của cái đối tượng mà họ đòi xóa sổ. May ra thì có một người có khả năng làm việc này, tuy nhiên ông ta cũng không thể làm thế chỉ trong một vài sát na, mà là nửa tháng.
Người này chính là Lê Đức Thọ.
Trong Đèn Cù, (Người Việt Books, 2014, trang 489-490) nhà văn Trần Đĩnh thuật lại lời của nhà văn Nguyễn Khải:
“Trưa ấy Khải kể chậm rãi: Tôi kể chuyện này chắc ông không thể nào ngờ. Người ta quyền thế lắm, người ta quen coi như mẻ, như rác hết cả rồi mà. Các đấng chí tôn làm mình co rúm lại, là Đảng ấy, cũng chả ra gì trong con mắt của người ta… Thế này, hôm ấy, mấy đứa nhà văn được ông Sáu Thọ gọi đến. Mình thấy một vị tướng bắt tay ông Thọ ở trên tam cấp xong là cứ thế giật lùi cho tới giữa sân mới quay lại đi bình thường, Ông biết ai không? Lê Đức Anh…. Tiếp bọn mình, ông Sáu Thọ cười kha kha nói luôn: Này, cái đảng của các cậu ấy mà. Ừ, nói cái đảng mà các cậu vẫn sinh hoạt, đóng nguyệt liễm và thi hành nghị quyết ấy. Này nói thật nhá, tớ chỉ bỏ ra nửa tháng là đánh tan đánh nát nó ra chẳng còn manh giáp thôi à. Khốn nạn còn gì nữa? Tư tưởng sập, lòng tin mất. Đổi mới thì phải từ từ chứ chưa chi đã ‘im lặng đáng sợ’ với ‘cởi trói’. À, thế nghĩa là ông ấy gọi đến để đe bọn nhà văn đừng có nghe tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.”
Không thể gọn gàng “giải tán ngay” mà mất nửa tháng nhưng thế cũng là giỏi và chuyện này không có gì khó hiểu bởi ông ta chính là… đảng. Trong Đêm giữa ban ngày, chương 18, nhà văn Vũ Thư Hiên kể:
“Một hôm Hoàng Minh Chính đến chơi nhà Lê Ðức Thọ gặp lúc Thọ đang nổi nóng vì một bà vụ trưởng. Bà ta đang vật nài thư ký riêng của Thọ xin gặp Thọ.
– Con mẹ ngu hết chỗ nói! – Thọ bực bội lớn tiếng trong khi tiếp Hoàng Minh Chính – Nó lải nhải suốt, một xin Ðảng xét, hai xin Ðảng xét. Mẹ kiếp, tao chưa có thời giờ xem lại nhân sự các Bộ, nó đã đâm đơn hết cửa này đến cửa khác. Tao chưa duyệt thì đừng có hòng. Nó phải hiểu Ðảng là tao, là tao đây này! Còn đi xin ở chỗ nào nữa?
Bà này, tất nhiên, đã tính sai. Rồi bà ta cũng được làm thứ trưởng “Ba đảm đang”, Hoàng Minh Chính cho biết, sau một cuộc tạ tội đầy nước mắt với “Anh Sáu”.”
Thọ là đảng. Làm đảng “không còn manh giáp” thì có nghĩa là Thọ tự kết liễu mình nhưng, trong cái nhìn hậu nghiệm, nếu ngày đó Thọ dám làm, có lẽ “âm vận” của y sẽ khá hơn, không phải là con ma không hộ khẩu như hiện tại, chết rồi cũng phải tỵ nạn, trốn chui, trốn nhũi.
“Sống khôn, thác thiêng”, cha ông ta dạy thế nhưng Thọ đã đi trái quy luật này. Sống thì y không chỉ khôn mà là rất cơ mưu và rất… thiêng. Có “thiêng” thì Lê Đức Anh mới đi giật lùi, cái dáng đi của những con nhang trước điện thờ của bọn đồng cốt, không dám đưa mông vào mặt bát nhang. Nhưng về thế giới bên kia rồi thì Thọ bị khinh nhờn đến mức vô cùng tận, không dám an nghỉ tại mộ phần cao cấp mà thể chế đã dành riêng cho mình ở Mai Dịch do con cháu của những nạn nhân ngày cũ rửa hờn, bao nhiêu đồ xú uế mang vứt hết vào. Nơi an nghỉ của Thọ đã bị biến thành bãi chứa những thứ dơ bẩn và tanh tưởi nhất khiến con cháu chịu không nổi, phải lén lút cải táng, đưa y đến một nhà mồ bí mật, không có bia mộ!
Số phận Thọ làm tôi nghĩ đến một nhân vật lịch sử khác, cũng rất cơ mưu.
Trong Kiến Văn Tiểu Lục, chương “Linh Tích”, Lê Qúy Đôn thuật lại câu chuyện Trần Thủ Độ hiện hồn tại miếu thờ của mình, yêu cầu những kẻ thờ cúng loại bỏ chính cái miếu thờ này:
“Trong địa phận mộ có miếu thờ, hằng năm cứ mồng 7 tháng 7 làm lễ cúng giỗ, lễ phẩm rất hậu. Sau đó, thần thường phụ đồng vào người trong thôn, nói rằng ‘Ta đã tu hành rồi, dân nên làm cỗ chay, thờ cúng phụ vào nhà chùa, đứng có lập miếu bái, làm hại nhiều đến mạng súc vật’. Dân trong thôn theo lời, bèn bỏ miếu ấy đi. (Trần Thủ Độ ngấm ngầm dời ngôi vua nhà Lý vào tay nhà Trần, nào giết vua, nào hoang dâm với thái hậu, không việc gì là hắn không nhẫn tâm làm, sau khi chết mới tu hành, kể cũng đã muộn. Nhưng trải hơn 300 năm, không biết có phải từng qua địa ngục hay không, mà đến đây mới quay đầu tỉnh ngộ. Việc này cũng đáng răn bảo người đời.)”
Có thể nói, Trần Thủ Độ là người đi đến mức tận cùng ở cả hai khía cạnh tốt -xấu và Lê Qúy Đôn đã có phần bất công khi không nhìn nhận đủ góc cạnh của nhân vật lịch sử này. Trong chính trị hậu cung Trần Thủ Độ cực kỳ tàn độc nhưng trong cách trị nước ông là người cực kỳ nghiêm minh; đáng nói hơn, trước hiểm họa mất nước từ sự đe dọa của siêu cường độc tôn của thế giới thời ấy là đế quốc Nguyên Mông, ông không hề nao núng mà cực kỳ can đảm, cực kỳ anh hùng, không dựa dẫm vào ai, không hề mang xã tắc ra cầm cố cho bất cứ thế lực hay chủ thuyết ngoại lai nào: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”.
Sống thế nên thác mới thiêng.
Nhưng Thọ thì ngược lại. Sống thì “thiêng” mà chết rồi thì bị khinh nhờn hết lẽ, ra thân của một con ma không hộ khẩu. Nếu ngày đó Thọ chịu khó bỏ ra nửa tháng để tự tử, hẳn đời ông đã sang trang, hậu vận sẽ sáng sủa hơn, rất nhiều.
Thọ mà tự kết liễu mình kiểu đó thì có nghĩa là y đã đoái công chuộc tội và đất nước sẽ đi vào một con đường hoàn toàn khác. Chúng ta có thể hình dung nên rất nhiều ngã rẽ khác nhau của tổ quốc nếu ngày ấy Thọ chịu làm và, gì thì gì, trong những ngã đường ấy, một tên tướng mất tư cách đến độ phải giật lùi trước mặt lãnh tụ không thể nào ngồi vào những vị trí có thể mang da thịt tổ quốc ra cúng dường cho giặc như vụ Gạc Ma, hay lê thân sang tận Thành Đô khấu đầu như là một nguyên thủ quốc gia.
Trong The World Minute at Waterloo, viết về trận đánh chôn vùi số phận của Napoleon Bonaparte, Stefan Zweig nhận xét rằng định mệnh hay chiều chuộng kẻ có thế lực và táo bạo mà kẻ này, ở đây, chính là Thọ. Thọ đã vuột mất cơ hội hành động để đoái công chuộc tội và, thay vì được hậu thế vinh danh, ông ta lại chọn cái con đường để đời đời nguyền rủa.
Bởi vậy, nếu phải hình dung ra y, người hay ma, tôi vẫn hình dung nên một khuôn mặt tái xanh. Một kẻ thủ đoạn như y phải là một người như thế, không thể nào mặt đỏ. Mà một con ma trốn chui trốn nhủi như y, cũng phải là một con ma với khuôn mặt tái xanh.
Mà khuôn mặt này, nếu lên tuồng hát bội – thể loại sâu khấu chuyên về những sự tích anh hùng, tiết nghĩa chứ không phải nhân tình thế thái như chèo – nhất định phải cách điệu thành mặt trắng, mặt của bọn gian, bọn nịnh!
Nguyễn Hoàng Văn