Nắng chiều quê Nội – Truyện ngắn Duyên Anh
– Hai cháu đấy cô ạ ! Cháu Hữu, à đáng lẽ tên cháu…
– Cháu Hữu, cháu Mai cô ạ ! Hai con lạy cô đi.
Cô tôi xua tay dễ dãi:
– Các cháu còn lạ, chị ạ ! Thôi đừng bắt tội chúng.
– Đồ hư thân mất nết, lạy cô đi.
Cô tôi lại xua tay:
– Thôi chị ạ ! Các cháu còn dại, với lại các cháu còn lạ.
Mẹ tôi lấy ngón tay dí vào trán tôi, đe dọa:
– Chốc nữa thì chúng mày biết tao. Đồ mất dạy.
– Ông bà mong các cháu đấy, cả các cô các chú nữa, sang nhé Hữu, Mai nhé!
Tối hôm ấy, mẹ con tôi thức khuya sửa soạn mọi việc. Mẹ tôi đem mấy bộ quần áo mới nhất của anh em tôi, vuốt ve phẳng phiu rồi bắt anh em tôi mặc thử. May mắn cho tôi là bộ quần áo cắt năm ngoái mẹ tôi đã cẩn thận dặn bác phó may đo dài rộng để hòng lớn. Bởi vậy tôi mặc vừa vặn. Còn em Mai, bác Kỳ quên cắt phòng xa, thành thử, cái áo mỡ gà co lại. Em tôi lớn mau như thổi, mặc vào như bó lấy thân hình. Cái quần nái thâm thì ngắn cũn cỡn. Đã thế, mấy con dán khốn nạn lại cắn thêm vài lỗ nhỏ. Mẹ tôi bảo chả hề chi, đẹp chán. Em Mai buồn thiu, em biết mẹ nói dối. Tội nghiệp em tôi, thiệt thòi đủ thứ. Em phụng phịu hỏi mẹ:
– Mặc quần áo đẹp làm gì hở, mẹ?
– Về quê cha phải khăn áo chỉnh tề, ai cũng vậy.
– Nhưng quần áo của con chật thì sao?
– Chật đâu, hỏi anh con xem nào, vừa vặn ghê…
Bỗng nhiên, em tôi nói:
– Sao lúc trưa mẹ mắng anh em con là “chúng mày,” mẹ xưng “tao” hở, mẹ?
Mẹ tôi à à rồi quay mặt đi. Lát sau, tôi thấy mẹ tôi đưa vạt áo lên thấm mắt. Tôi sợ em Mai khơi nỗi buồn khiến mẹ tôi đau khổ, nên nhanh miệng khen em:
– Áo của em vừa lắm, quần hơi ngắn một tí thôi. Ngắn đỡ mất công xăn, dài chỉ tổ vấp ngã chứ ăn thua gì.
Mẹ tôi nhân dịp đó nói thêm:
– Đấy, con xem, anh con nói có đúng không?
Em Mai cười toe toét:
– Thật hở, mẹ?
– Ừ.
Mai nhảy vào lòng mẹ tôi, nũng nịu. mẹ tôi ôm ấp em tôi, mắng yêu:
– Bố mày, khéo vòi vĩnh là…
Mai vờ mếu máo, lải nhải:
– Bắt đền mẹ đấy, gọi con là “mày” nữa.
Mẹ tôi cười dỗ dành em:
– Thôi đứng dậy rồi mẹ đền. Mẹ đền cái tát nhé!
– Ứ, ừ.
– Chú Nghiêm ác lắm hở, mẹ?
– Chắc chú đổi tính rồi. Có vợ con, phải khác chứ.
– Con sợ!
– Sợ gì?
– Sợ chú ấy hất hủi mẹ con mình.
Mẹ tôi nín thinh. Tôi hỏi tiếp:
-Tại sao ông lại gọi sang?
– Ông ốm nặng mà.
– Trước kia ông không ốm nặng à?
– Không.
– Hay đừng sang mẹ ạ!
– Con sợ gì?
– Con sợ mình mồ côi cha, thiếu cha thì hay bị người bắt nạt.
Mẹ ngừng lại, suy nghĩ một lát, rồi nói tiếp:
– Mẹ con ta cứ sang thăm ông bà. Hễ sao, mình lại về bến đò bán hàng, mẹ con đùm bọc nhau, lo gì.
Em Mai tự nãy vẫn ngồi yên chăm chú nghe chuyện. Em khêu bấc đèn cho sáng thêm, đoạn em hỏi mẹ bằng giọng nói đầy lo lắng:
– Nhỡ ông nội bắt anh em con rồi đuổi mẹ đi, thì sao?
Mẹ tôi đưa tay níu em Mai, vuốt tóc em, âu yếm:
– Thì con ở với ông bà.
Mai ngúng nguẩy:
– Ứ ừ, con thèm vào.
– Hỗn con, ở với ông bà sung sướng hơn ở với mẹ.
– Nhưng con thích mẹ, con không thích sung sướng.
Mẹ tôi trêu em:
– Không thích, ông cũng bắt sang. Mẹ nghèo, hết gạo nuôi con rồi.
Em Mai tưởng thật, òa lên khóc. Mẹ tôi lại vỗ về em:
– Nín đi con ngoan của mẹ, mẹ nói đùa mà, ai dám bắt con của mẹ. Mất con thì mẹ chết.
Mẹ tôi lau mắt cho Mai. Em ghì chặt thân hình mẹ như sợ người ta cướp mất mẹ. Em thỏ thẻ:
– Mẹ đừng để ông bắt con nhé, mẹ nhé!
– Ừ, vậy đi ngủ đi.
– Vâng ạ …
Mẹ tôi dặn tôi:
– Mai sang ông, nhỡ chú Nghiêm mắng mỏ, con phải nín lặng nhá!
– Sao phải nín lặng hở, mẹ?
– Để chú nghĩ rằng con mồ côi không mất dậy.
Tôi chưa kịp trả lời. Mẹ tôi đứng dậy đi về phía bàn thờ cha tôi. Mẹ thắp hương, khấn vái thì thầm. Anh em tôi, phần cảm động, phần nhớ cha, ôm lấy nhau. Những con mắt non nớt rươm rướm lệ.
3
Con đường đất nhỏ nhô lên, thụt xuống, từng khúc ngắn như những bậc thang. Hai bên, cỏ dại mọc xanh um, hoa hèn đua nhau nở. Sương mùa thu vương mắc long lanh khiến hoa đã hèn càng hèn, cỏ đã dại lại càng dại chẳng khác chi mấy cô gái xấu son phấn tô điểm dung nhan. Mặt trời chắc đêm qua thức khuya, hôm nay dậy muộn. Gió thổi mát rượi mang theo hương lúa thơm ngon.
Em Mai chừng đã mỏi chân, bước đi uể oải. Một tay giữ chặt quai nón cho gió khỏi tung, một tay em xách đôi guốc. Anh em tôi nói chuyện huyên thuyên để quên đường dài. Thọat đầu là truyện Quốc-văn Giáo-khoa Thư. Mai hỏi tôi:
– Anh có nhớ những bài trong sách Quốc-văn không?
– Nhớ như in.
– Anh nói khoác.
– Chả tin em đố anh mà xem.
– Thật hở?
– Ừ.
– Em đọc một câu, anh phải trả lời ở quyển nào tên bài là gì nhé?
– Đọc đi.
Không cần ngẫm nghĩ, Mai đọc:
– “Một đêm, nằm mãi không ngủ được, tôi lắng tai nghe.”
– Bài Tiếng động ban đêm, lớp dự bị, vẽ hình người đàn ông nằm ngủ, tay vắt ngang trán, chân phải gác lên gối chân trái.
– Đúng. “Cơm nước xong xuôi, trời vừa tối…”
– “…Ngọn đèn treo ở giữa nhà.” Bài Tối ở nhà, lớp dự bị, vẽ hình…
– Thôi đừng nói hình nữa. “Thằng Sửu thấy ở trên cành cây có một tổ chim chích chòe…”
– Bài Không nên phá tổ chim, lớp sơ đẳng.
Mai lè lưỡi ngạc nhiên:
– Anh giỏi ghê.
– Bây giờ anh đố em nhé?
– Vâng.
– Anh chắc em thua.
– Thì anh cứ đọc xem nào.
– “Ba, ra ngoài sân cầm cái rổ vào đây cho tao. – Con sợ lắm. – Sợ cái gì? – Trời tối lắm, con sợ ma!”
Tôi đọc xong, nhìn em, mỉm cười. Em tôi có vẻ suy nghĩ. Rồi em tôi nói bừa:
– Bài Phải bạo dạn, lớp sơ đẳng.
– Sai.
– Thế lớp dự bị.
– Cũng sai. Em thua mà.
– Chắc anh lấy ở sách khác.
– Ừ.
– Thảo nào, chứ hai lớp sơ đẳng với lớp dự bị, em thuộc lòng.
– Anh biết thế nên anh đố em bài trong quyển Luân lý Giáo khoa Thư.
Anh em tôi cười vang. Quãng đường ngắn dần lại. Mẹ tôi bảo, hết quãng đường này, qua nhịp cầu mong manh vắt vẻo ngang con ngòi là vào tới đất làng Trường-an. Tôi nóng lòng muốn biết quê hương, quên cả mỏi mệt. tâm hồn tôi mỗi lúc một trải rộng. Mẹ tôi cũng thế. Tôi thấy nét mặt mẹ hớn hở vui tươi.
Rồi qua nhịp cầu tre, mẹ con tôi không ai bảo ai mà tim đánh thình thịch, bước chân run rẩy. Mối cảm xúc dần lên cùng với nỗi lo âu hồi hộp. Em Mai đã xỏ guốc vào chân. Em ngây thơ hỏi vớ vẩn khiến tôi bớt sợ hãi.
– Anh ơi, ông nội mình có râu không nhỉ?
– Chắc có.
– Có, thì ông hiền.
– Sao em biết.
– Em thấy sách vẽ “Ông tôi” râu dài, tóc bạc, ông ngoại mình không có râu, lại đầu trọc, nên ông ác, anh ạ!
Câu nói ngộ nghĩnh ấy, lúc khác thì tôi đã ôm bụng cười. Nhưng, bây giờ, chân tôi đang in vết trên lối ngõ quê cha, tâm hồn tôi đang xao xuyến, tôi không thể cười được. Mẹ tôi bước nhanh, mẹ bỏ rơi anh em tôi một khúc đường. Rồi mẹ đợi chúng tôi tới. Mẹ tôi chỉ tay về phía túp lều trống không bên bờ ngói, nói rằng đây là nơi cha mẹ tôi đã gặp nhau. Đi thêm vài chục thước nữa, thì rẽ sang tay phải. Mẹ tôi bảo: ông ngoại bắt mẹ đánh đập và gọt đầu bôi vôi ở khúc rẽ này. Mẹ tôi nhắc từng mẩu dĩ vãng đau buồn. Từ căn nhà lụp sụp mà cha tôi gửi gấm mẹ tôi hồi mẹ tôi bụng mang dạ chửa đến cái ao tù mà mẹ tôi đã phải ngoi ngóp dưới nước vớt bèo, kiếm rong nuôi lợn suốt cả mùa đông lạnh lẽo. Mắt mẹ tôi chớp mau rươm rướm lệ.
Kỷ niệm xa xưa không còn mơ hồ nữa. Quê nhà tôi, ai biết đâu lại chở chất bao nhiêu tình thương yêu, bao nhiêu niềm mong nhớ, bao nhiêu nỗi u sầu. Tôi tưởng tượng mỗi khóm cây, mỗi lối mòn đều để dành cho anh em tôi những cảm tình thắm thiết. Và, hôm nay, tôi trở về thu lượm dần những mối tình thắm thiết rơi rụng sau mười lăm năm xa vắng. Anh em tôi rón rén nép sau mẹ, nghĩ ngợi mông lung. Mẹ tôi dặn dò:
– Nhớ lời mẹ dạy chưa, các con?
– Thưa mẹ nhớ rồi ạ!
– Sắp đến nhà ông, Hữu sửa lại quần áo đi.
– Vâng.
4
Bây giờ anh em tôi bớt lo sợ. Nhưng sự uất ức đang nhóm lửa. Chú Nghiêm nhìn tôi chằm chằm. Chú hất hàm hỏi tôi:
– Mày học lớp mấy?
Mẹ tôi đưa mắt nhìn tôi, ngầm ý khuyên nhủ “hãy lễ phép.” Tôi đưa mắt nhìn mẹ tôi, nhìn em tôi, nhìn tất cả đám người họ nội đang quây lấy mẹ con tôi như thử thách, như bắt nạt. Nước mắt tôi muốn tuôn ra. Tôi chợt nhớ lời chú Nghị khuyên tôi phải luôn luôn can đảm, nên tôi dằn lòng, nghiến răng chịu nhục. Thím Nghiêm hằn học nói:
– Nó câm à?
Cô tôi (ba bốn cô song tôi chỉ biết mặt cô sang nhà tôi hôm trước) đỡ lời:
– Cháu nó nhát.
Cô tới gần tôi vỗ về:
– Cháu trả lời chú đi, cháu học lớp mấy?
Tôi ức quá, nói với cô tôi:
– Cháu không nhát. Mẹ cháu nghèo, cháu không đi học, nhưng mẹ cháu không gọi cháu là mày. Ai gọi cháu là mày, cháu không trả lời.
Chú Nghiêm ghét tôi, chẳng thèm hỏi nữa. Còn thím Nghiêm bĩu môi, mỉa mai:
– Mẹ con mày tưởng giỏi lắm đấy.
Tôi cãi lại:
– Cháu không giỏi nhưng cháu không mất dạy. Cháu mất dạy đã có mẹ cháu, cháu không thèm nhờ ai.
Mẹ tôi chắc giận tôi. Mẹ ngồi im lặng. Bà tôi kéo mẹ tôi xuống bếp nói chuyện gì không biết mà bà tôi và mẹ tôi khóc nức nở. Các cô tôi săn đón em Mai. Cô nào cũng nhận em tôi giống mình. Tôi bỏ rơi hiện tại để thăm quá khứ, bỗng tôi nghi ngờ tất cả. Giả dối hết. Mẹ con tôi chưa được thăm ông tôi. Điều đó tôi nghĩ chả cần vì, sự thực, cho tới lúc này, tôi đã thương ai ở bên nội đâu, trừ chú Nghị.
Tôi lén ra vườn sau nhưng không thấy túp lều mà chỉ thấy dăm bảy khóm chuối tiêu, trái đang chờ chín. Một nỗi buồn thoáng lọt trong tâm tưởng tôi. Tôi trở vào đúng lúc các cô tôi tìm tôi bảo là ông tôi vừa tỉnh giấc.
Các cô đưa tôi lên nhà trên. Ở đây đã tụ họp nhiều người. Mẹ tôi ngồi bên bà tôi. Em Mai chạy sang phía tôi. Bao nhiêu con mắt cùng đổ dồn vào một ông già đang thiêm thiếp ngủ trên giường nệm trải vải trắng toát. Ông tôi đấy. Qua bức màn lan tiêu, anh em tôi thấy ông tôi tóc bạc râu dài. Em Mai bấm tay tôi đưa mắt hỏi han. Tôi cúi thấp xuống. Em ghé miệng gần tai tôi thì thầm:
– Ông có râu dài.
Tôi nhăn mặt, bấm tay em, ra hiệu im mồm. Nhưng em tưởng tôi ăn ý nên kiểng chân lên nói tiếp:
– Tóc ông bạc, anh ạ!
Ngay lúc đó, ông tôi cựa mình và đôi mắt chơm chớp rồi mở to dần dần. Bà tôi đi lại chỗ ông nằm, chỉ tay về phía anh em tôi. Bà nói thong thả từng tiếng một:
– Hai cháu ông kia kìa…
Anh em tôi đứng ngây. Tôi nhớ rằng tôi có ông bà, song dường như hai tiếng thiêng liêng ấy đã bỏ anh em tôi chuỗi thời gian xa xôi quá nên giờ đây tôi chưa cảm thấy gì. Ông tôi khó nhọc nghiêng mình, nhìn anh em tôi. Ông tôi vừa thở vừa nói đứt khúc, mỏi mệt:
– Mẹ… chúng… nó… đâu…
Mẹ tôi không dám đứng dậy, mẹ lết người tới. Ông tôi đặt tay lên đầu mẹ tôi, ông nói:
– Con… dâu… tôi…
Mẹ tôi chỉ kịp nghe tới đấy đã vội òa khóc. Mười mấy năm rồi, mẹ tôi chờ đợi ngày hôm nay, ngày đứa con gái bỏ nhà theo giai được công nhận làm dâu họ Nguyễn.
Ông tôi bắt vén màn lên. Bà tôi đỡ mẹ tôi lui xa. Mẹ tôi khóc sướt mướt. Ông tôi nhìn anh em tôi bằng đôi mắt yếu đuối. Ông nâng cánh tay gầy đét, khẳng khiu một cách khó nhọc vẫy vẫy anh em tôi. Cô tôi giục tôi tới ông. Anh em tôi cứ đứng nhìn ông mãi, đến khi thấy hai dòng lệ ngắn ứa ra từ đôi mắt già nua của ông tôi thì tim tôi tự nhiên đập mạnh. Chỉ hai dòng lệ ngắn ấy cũng đủ rửa sạch mọi ý nghĩ hờn oán của anh em tôi suốt thời thơ ấu tối tăm dài đằng đẵng. Ông tôi bị bịnh xuyễn, ông muốn nói rất nhiều, rất nhiều với anh em tôi, nhưng đờm còn vướng ở cổ họng. Bộ mặt ông tôi lúc này thiểu não uất nghẹn. Cái thứ uất nghẹn của một người thèm nói mà không nói nên lời. Ông tôi cơ hồ cố thu góp hời thở thành tiếng, gọi anh em tôi:
– Cháu… cháu… đích tôn… của… ông…
Tiếng ông tôi thoang thoảng như một cung đàn gần đứt. Anh em tôi lắng nghe. Và nghe xong không đứa nào bảo đứa nào, nước mắt trào dâng, chạy xô lại ôm lấy ông tôi, nức nở. Tự nhiên, con đờm xuôi xuống, ông tôi khỏe mạnh lạ thường. Ông tôi vuốt ve anh em tôi. Ông tôi nhắc lại câu ban nãy:
– Cháu đích tôn của ông.
Tôi xoa ngực ông tôi, nói trong cơn thổn thức:
– Ông ơi…
Ông tôi khe khẽ gọi:
– Cháu ơi!
– Dạ.
Giọng ông tôi trở nên nghẹn ngào, trắc ẩn. Ông nắm chặt tay tôi:
– Cháu khổ sở nhiều, hả ?
– . . .
– Chẳng đứa nào ngó ngàng hai cháu của ông, hả ?
– . . .
– Không ai đền bù cho các cháu được đâu.
Nước mắt anh em tôi rơi rụng trên mình ông tôi thấm qua hai lần áo dầy, ươn ướt làn da nhăn nheo. Tôi nói:
– Ông đền bù chúng cháu rồi.
Em Mai vuốt râu ông, thủ thỉ:
– Ông khỏe ông kể chuyện cổ tích cho anh em cháu nghe, ông nhé?
Ông tôi nhếch miệng cười. Ông gọi chú Nghiêm dặn dò, rồi đuổi mọi người ra, trừ anh em tôi. Chúng tôi trèo lên giường, mỗi đứa nằm một bên ông, cố thu về hơi ấm mất mát từ lâu. Ông tôi ôm ấp anh em tôi. Chúng tôi nằm im, mặc cho tình thương len lỏi mạch máu, vào thớ thịt. Hơn nửa tiếng sau, tôi không nghe thấy hơi thở của ông tôi nữa. Chả biết khi con đờm vít kín cổ họng, ông tôi có đau đớn không. Chắc ông tôi chết trong nỗi niềm sung sướng. Tôi mới tin rằng ông tôi đã đền bù cho anh em tôi nụ cười cuối cùng trước khi sang bên kia thế giới.
Buổi chiều ở quê nội nhà tôi lung linh màu sắc. Anh em tôi tha thẩn ngoài ngõ nhìn nắng vàng rớt rơi trên nội cỏ ngàn cây. Nắng chiều mong manh thật. Bừng sáng rực rỡ rồi tắt đi vội vàng. Mẹ tôi thường hay nói:
– Nắng cứ sắp tắt thì lóe lên đẹp đẹp là…
Hôm nay trông rõ nắng sắp tắt, tôi chợt hiểu tại sao mẹ tôi mong đợi ngày về quê nội. Lòng tôi xốn xang, tôi cất tiếng hát đuổi theo bóng nắng đang lướt nhẹ bên bờ giậu: “Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm chạy dài trên khóm cây, đàn chim ríu rít ca…” Em tôi hòa điệu: “Bao người ra ngồi hay đứng bên thềm, chuyện trò vui với nhau, đời sống thần tiên…”