Lời Nói Và Nhân Cách Của Một Tổng Thống

Stephen B. Young: Kenneth Todd Young và Ngô Đình Diệm: Sự ra đời của Liên minh Việt-Mỹ   (01/04/2014)
Ngo_Dinh_Diem_-_Thumbnail_-_ARC_542189
Đầu năm 1954, ông  cụ của tôi, Kenneth Todd Young, đương làm việc cho Bộ Ngoại giao Mỹ với chức Chủ Sở Đông-Bắc Á Châu vụ.  Cụ tham gia cuộc thương lượng chắm dứt chiến tranh Triều tiên tại Pan Mun Jom. Sau khi Trung Quốc và Hoa Kỳ đồng ý ngưng chiến tại Triều tiên, và Chánh phủ Pháp quyết định không kéo dài chiến tranh kiểu xăm lăng thuộc địa tại Đông Dương nữa, các cường quốc đồng ý mở một hội nghị tai Genève để giải quyết hai vấn đề giữa thế giới tự do và khối cộng sản quốc tế.
Bố tôi đi Genève để phụ tá Ngoại trưởng John Foster Dulles trong nhiệm vụ chắm dứt chính thức chiến tranh Triều tiên.  Sau việc đó xong rồi, Ngoại trưởng Dulles giao cho ông trách nhiệm về Đông Nam á để giải quyết sự ra đi của Chánh phủ Pháp tại Đông Dương.
Ông  đã thăm viếng Việt nam và Cao Miên lúc còn thanh niên năm 1937 để xem cho biết Hà nội, Sài gòn và Angkor Wat. Ngoài ra, ông không biết nhiều về Việt nam. Nhưng ông đã học tiếng trung hoa tại Quảng Châu và Bắc Kinh năm 1936 và hiểu biết được sự tranh quyền giữa đảng cộng sản tàu và chánh phủ quốc gia tàu. Ông đã nghĩ chủ nghĩa cộng sản không hợp với người á châu vi các dân tộc á châu đã có sẳn dân tộc tính, nền văn hóa lâu đời va tiếng nói riêng từ mấy ngàn năm trước. Ông nghĩ rằng chủ nghĩa mác-lê là thứ xa lạ từ Tây phương du nhập qua Á châu sẽ khó tránh khỏi sự xung đột văn hóa, tư tưởng.
Vì vậy ông cũng nghĩ rằng chế độ thuộc địa âu châu của thể ký 19th cũng  không có nghĩa lý gì  nữa ở Đông Dương. Nó không thể tồn tại lâu dài. Các dân tộc á châu, theo ông, nên đi đến tự trị và chọn cho mình chế độ chánh trị độc lập như các dân tộc khác trên thế giới.
Tháng 7 năm 1954, Chánh phủ Mỹ phải lựa chọn một trong hai đường đối với Đông Dương. Một là theo Pháp để giúp duy trì  ảnh hưởng của Pháp tại Việt nam, Cao miên và Lào. Thứ hai là ủng hộ thành lập các chánh phủ độc lập tại ba nước đó để tránh áp lực của người Pháp theo đuổi tham vọng lâu đời nhằm tái lập chế độ thuộc địa.
Cụ Young lựa chọn con đường thứ hai. Vậy là Hoa kỳ phải một lúc làm ba việc: ủng hộ các chánh phủ mới tại Sài gòn, Nam Vang và Vientianne; chống sự phá hoại, xâm lăng, của Hà nội và đảng cộng sản việt nam và đảng cộng sản trung quốc đồng thời nhờ đó khuyến khích người pháp dẹp bỏ chủ trương và hành động kiểu đế quốc cũ.
Lúc Trung Quốc đề nghị chia Việt Nam làm hai quốc gia: một cho đảng cộng sản và một giao cho người pháp cai trị, dĩ nhiên người pháp đồng ý, nố tôi bàn với Ngoại trưởng Dulles rằng Hoa Kỳ phải chấp nhận như vậy nên phải dốc lòng, dốc sức ủng hộ một Miền nam Việt nam độc lập tự do, có khả năng  phòng thủ và chống lại cộng sản bắc việt.  Ông Dulles đồng ý và quyết định chánh sách của Hoa kỳ tại Việt nam là ủng hộ những người Việt nam  không cộng sản và đồng thời không ngã theo lập trường của Phap. Tức là chánh sách của Hoa Kỳ là đi tìm kiếm những người Việt nam “nationalist”, có tinh thần dân tộc mạnh.
Cụ Young cũng nghĩ rằng nếu chánh phủ mới không tranh đấu cho quyền lợi đích thực của quốc gia dân tộc mà cứ làm tay sai cho Paris, dân miền nam sẽ không ủng hộ và Hà nội sẽ dễ xâm chiếm trọn nước Việt nam từ Lạng sơn đến Cà mau.
Nếu người Việt nam có lòng ái quốc, biết rỏ các thủ đọan gian manh của cộng sản, muốn đẩy lui và thanh toán các nổ lực bạo động của cộng sản để bảo vệ phần đất cuối cùng của mình thì họ phải biết làm  cho mọi người thấy rỏ chánh nghĩa quốc gia, thấy rỏ rệt và toàn diện,  từ chánh trị tự do dân chủ đến kinh tế thật sự là nến kinh tế tư hữu lành mạnh và nền văn hóa giáo dục khoa học, khai phóng, nhơn bản áp dụng đồng đều từ thành thị đến xã ấp.
border=0 v:shapes=”_x0000_s1026″>
Lúc đó Cụ Ngô Đình Diệm là Thủ Tướng Chánh phủ Quốc gia Việt Nam do Hoàng đế Bảo Đại bổ nhiệm. Cụ Young tìm hiểu về Ông Diệm và nghe nói Ông Diệm có tiếng chống Pháp. Tại Genève Ngoại trưởng việt nam là Cụ Trần văn Đỗ. Cụ Young làm quen Ông Đỗ và hai người trở thành bạn lâu năm. Năm 1970 ông Cụ tôi bịnh, không qua Việt nam được để tham dự  lễ  cưới của tôi, con trai đích tôn của ông, nên Cụ Đỗ đã vui lòng nhận lời đứng ra đại diện họ đàn trai.
Ông Cụ tôi có lúc nói với tôi rằng Ông Diệm vừa có lập trường vững vàng, không theo Pháp và không nhượng  cộng sản và có được  một số người quốc gia chống cộng, nhứt là những người Bắc di cư công giáo tín nhiệm, ủng hộ. Nên Cụ quyết định cho Ông Diệm một cơ hội để xem Ông Diệm có khả năng thật sự xây dựng Miền nam trở thành một quốc gia dân chủ tự do và phát triển được  hay không.
Sau hội nghị Genève, người Pháp không thuận với chánh sách của Hoa kỳ. Hoa kỳ muốn người Pháp rút hết những viên chức của họ ra khỏi Việt nam và Mỹ sẽ đưa cố vấn tới thay thế. Hoa kỳ sẽ cho tiền và huấn luyện quân đội Miền nam Việt nam đủ sức ngăn chận quân đội bắc việt khi xâm nhập qua biên giới.  Sau mấy tháng thương lượng với Chánh phủ Pháp, Cụ Young thấy rằng họ không có thiện chí giúp Miền nam đứng vững theo nghĩa một quốc gia độc lập.
Vì vậy Cụ Young phải vận động  Chánh phủ Mỹ để Hoa kỳ sẽ thương lượng với Pháp để Hoa kỳ một mình ủng hộ Chánh phủ của Ông Diệm.
Tháng 10 năm 1954, Cụ Young soạn thảo một bức thơ để Tổng Thống Eisenhower gởi cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Trong thơ,  Hoa Ky hứa sẽ ủng hộ Việt nam nếu Việt nam áp dụng đường lối chánh trị theo lý thuyết quốc gia dân tộc (tức “nationalist”), tức ý muốn nói Việt nam phải xây dựng một chế độ dân chủ Tự do thật sự để có thể động viên được sức mạnh của toàn dân chống cộng sản xâm lược hà nội. Bức Thơ đó viết:
The purpose of this offer is to assist the Government of Vietnam in developing and maintaining a strong, viable state, capable of resisting attempted subversion or aggression through military means. The Government of the United States expects that this aid will be met by performance on the part of the Government of Vietnam in undertaking needed reforms. It hopes that … such a government (of Vietnam) would … be so responsive to the nationalist aspirations of its people, so enlightened in purpose and effective in performance, that it will be respected both at home and abroad and discourage any who might wish to impose a foreign ideology on your free people”.
Cuối năm 1954, Hoa kỳ bắt đầu gia tăng gởi viện trợ quân sự và kinh tế trực tiếp giúp chánh phủ Sài gòn, không thông qua chánh phủ pháp nữa. Dĩ nhiên chánh phủ pháp không vui lòng. Họ thấy Ông Diệm thật sự là người cứng rắn, có lập trường chống Pháp, không muốn nghe lời họ nữa. Vi vậy họ tìm cách hạ Ông Diệm để thay thế bằng người khác.
Tổng Tư lịnh pháp, Tướng Ely, vốn bạn khá thân với Tướng Collins của Mỹ, dành nhiều thì giờ thuyết phục ông bạn Tướng Collins, người Đại diện đặc biệt của Tổng Thống Eisenhower, rằng Ông Diệm bất tài, mưu sỉ, không thành thật, có tinh thần độc tài, không chịu lắng nghe ý kiến phải trái của ai hết cả, không có uy tín, không có quần chúng ủng hộ. Pháp xui Tướng Nguyễn văn Hinh chống lại Ông Diệm.Đến tháng 4 năm 1955 có biến loạn xảy ra.  Cuối cùng, Tướng Collins nghe theo Pháp và đi về Washington xin Tổng Thống Eisenhower không ủng hộ Ông Diệm nữa. Lúc Tướng Collins lên đường đi Washington, Ông Diệm ra lịnh cho Quân đội tấn công căn cứ của lực lực lượng võ trang của Bình xuyên ở Cầu Chữ Y. ( Lực lượng Bình xuyên, truớc tình hình mới, rủ áo giang hồ anh chị, nhiệt tình tham gia tham kháng chiến chống Pháp. Sau không chịu theo cộng sản hà nội, không chịu nổi áp lực của Tướng cộng sản Nguyễn Bình, chấp nhận thương lượng với Pháp rút về Chợ lớn, lập vùng Chợ lớn như khu tự trị để cán binh kháng chiến thuần túy, không cộng sản, có con đường trở về không bị mặc cảm về với Tây nhưng Pháp không giữ lới hứa để  cho “ khu tự trị thật sự được tự trị ”, mà “ thực dân hóa ” lực lượng võ trang này. Từ đây, lực lượng Bình xuyên bắt đầu mang nhiều tai tiếng xấu do nhóm cán binh gây ra trong dân chúng. Nhưng lực lượng Bình xuyên khi về Chợ lớn, kiểm soát an ninh được vùng này, đẩy lui Việt minh ra khỏi ven đô khá xa, đã làm cho Nguyễn Bình bị Hà nội khiển trách và sau đó, triệu hồi về Bắc ).
Về tới Washington, Tướng Collins họp với Tổng Thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles tại Tòa Bạch ốc. Tổng thống Eisenhower  nhân nhượng trước những lời yêu cầu thiết tha của Tướng Collins và đồng ý trở lại họp tác với chánh phủ pháp, cho ngưng chức Thủ tướng của Ông Diệm, thay thế bằng Ông Phan Huy Quát.
Ông Dulles về Bộ Ngoại giao chỉ thị cho Ông Cụ tôi gởi điện tín cho Tòa Đại sứ Hoa kỳ tại Sài gòn nói rằng Hoa kỳ không ủng hộ Ông Diệm nữa. Ông Cụ tôi rất buồn vì biết rằng nếu Pháp có quyền thực sự tại Miền nam nữa, thì chắc chắn Hà nội sẽ lại cướp luôn phần đất này. Đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Tuy nghĩ như thế nhưng  bố tôi vẫn phải làm theo chỉ thị của cấp trên.
Gởi điện tín xong,  ông về phòng làm việc. Bổng có cú điện thoại của chính ông Ngoại trưởng Foster Dulles. Ông báo tin : “T ại cơ quan CIA, Ông Allen Dulles (em ruột của Ngoại trưởng Foster Dulles, lúc đó làm Giám đốc CIA ) mới nhận được một điện tín của Ed Lansdale  gởi từ Sài gòn.  Lansdale nói rằng Ông Diệm ra lịnh dẹp Bình Xuyên, Quân đội Quốc gia nghe theo lịnh đang đánh Bình Xuyên, và dân chúng Sài gòn ra đường mừng và ủng hộ quân đội (?). Yêu cầu Allen cho biết quyết định phải làm thế nào bây giờ”.
Cụ Young lập tức gọi Ông Allen Dulles. Hai ngườii lấy quyết định không bỏ Ông Diệm vì nếu bỏ Ông Dìệm lúc này chỉ có lợi cho Pháp và sau đó, khó tránh sẽ bị Pháp buông ra cho cộng sản hà nội.
Sau đó, ông Cụ tôi phụ trách về “ Chánh sách liên hệ giữa Hoa kỳ và Việt nam Cộng hòa ”. Ông qua Việt nam mấy lần nghiên cứu tình hình. Ông đã gặp Cụ Diệm riêng mấy lần.  Cụ cũng có dịp gặp Ông Bà Ngô Đình Nhu, Giám mục Ngô Đình Thục, và nhiều người lớn trong chánh phủ nữa.
Sau này, ông Cụ tôi nói rằng Ông Diệm là người tốt, khá thông minh, lương thiện, tỏ ra có khả năng, có thể dám hy sinh cho quyền lơi của dân tộc, biết suy nghĩ, biết lo cho người làm ruộng, làm việc chăm chỉ, hết mình.  Nhưng ông Cụ tôi đã thấy sớm rằng Ông  Ngô Đình Nhu có ảnh hưởng bao trùm lên chế độ. Nhiều lúc Cụ gặp mặt Ông Diệm có Ông Nhu nữa. Nhiều khi, lúc Ông Diệm đương nói, Ông Nhu chen vào, dành nói hết, không để khách  nghe riêng lời nói của ông Tổng Thống. Có khi Ông Nhu cải với Ông Diệm hay cắt lời của Ông Diệm đang nói mà Ông Diệm vẫn im lặng.
Ông Cụ tôi trọng Ông Diệm là người đứng đắng và quí mến ông vì ông tỏ ra thành thật với ông Cụ tôi. Ông Diệm có vẻ tin ông Cụ tôi vì Cụ đã ủng hộ ông ấy vô điều kiện trong biến cố tháng 4 năm 1955.
Lần cuối cùng mà ông Cụ tôi gặp mặt Cụ Diệm là đầu năm 1963 tại phòng khách ở Dinh Gia long, Sài gòn. Phòng đó ở trên lầu hai cùa dinh Gia long. Ông Diệm lo lắng lắm về sự nhượng bộ của Hoa kỳ ở Lào, việc này do  Ông Averill Harriman phụ trách vì ông Harriman không thích chống cộng ở Đông Nam Á. Hiệp định Genève 1962 về Lào không bắt buộc Hà nội rút ra khỏi Lào. Như vậy, Ông Diệm biết Hà nội sẽ dùng đường mòn Hồ Chí Minh vượt qua Lào để đẩy mạnh sự xâm lăng ngầm Miền nam nhằm đánh lừa dư luận thế giới rằng cuộc chiến ở Miền nam chỉ là cuộc chiến tranh du kích do nhơn dân Miền nam bất mản nổi dậy chống Mỹ Ngụy cứu nước.
Nói chuyện xong rồi, Cụ Diệm đưa ông Cụ tôi ra khỏi phòng khach, tới đầu cầu thang đi xuống. Cụ Diệm bắt tay ông Cụ tôi và nói bằng tiếng pháp: “ Tôi sẽ tiếp tục tranh đấu cho tới khi họ …”. Và lúc đó, Cụ Diệm đưa tay mặt lên làm bộ cầm súng và bắn một viên đạn vào đầu ông.
Trên đây là những kỷ niệm đẹp của ông Cụ tôi giử riêng đối với Cụ Ngô Đình Diệm từ  những ngày đầu Cụ Diệm về lập chánh phủ do sự bổ nhiệm của Quốc trưởng Bảo Đại.
Không biết phải chăng vì ảnh hưởng bố tôi mà tôi năng duyên nợ với Việt nam, một đất nước xa xôi với quê hương của tôi? Sau này, trong những năm cuối 60 và đầu 70, tôi tới Việt nam làm việc cho chương trình CORDS – chương trình đặc biệt của Hoa kỳ về bình định và phát triển xã ấp. Trong chức vụ cố vấn an ninh và phát triển, tôi tiếp xúc, quen biết nhiều giới chức VNCH trong đó có các bạn của bố tôi như Bs Trần văn Đỗ, Bs Phan Huy Quát và những đảng viên Đại việt Quốc dân đảng, Việt nam Quốc dân đảng, những nhơn sĩ từng ủng hộ Cụ Diệm khi về chấp chánh. Tôi cũng để thì giờ tìm hiểu về các tôn giáo như Đạo Phật, Cao Đài và Hòa Hảo nữa. Qua sự quen biết này, tôi bắt đầu tìm hiểu về chế độ Đệ I Cộng hòa. Tôi cũng tìm đọc thêm nhiều thông tin liên quan đến Cụ Diệm và gia đình của Cụ. Tôi thấy bản thân Cụ là người trong sạch, không tham nhũng. Nhưng Cụ nặng tình gia đình, nặng tinh thần phân biệt đối xử, phán quyết độc đoán, nên đã để mất sự thuận lợi của tình hình lúc ban đầu cho thế đại đoàn kết dân tộc ; điều này chắc chắn đã không tránh khỏi góp phần tạo ra sự lớn mạnh nhanh chóng của việt cộng mà hậu quả vô cùng thảm hại sau này.
Riêng Đại việt, với Bs Nguyễn Tôn Hoàn và Ông Nguyễn Ngọc Huy liên lạc viên giữa hai người, đã từng hợp tác chặt chẻ với Ông Ngô Đình Nhu, Giám mục Ngô Đình Thục, …trong giải pháp Bảo Đại từ những năm 40.
Thế mà những người này và nhiều nhơn sĩ khác như  các  Ông Vũ Tam Anh, Nguyển Phan Châu, Nguyễn Bảo Toàn, Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân, …kẻ bị giết, người phải bỏ chạy trốn ra nước ngoài. Hai ông Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Ngọc Huy phải đi bán hủ tiếu ở đường Montagne Ste Geneviève, Paris, cho tới sau 1963 mới có cơ hội hồi hương.
Tôi nhớ lại năm 1967, lúc tôi đương học tiếng việt tại “ Việt nam Training Center ”, ở Arlington, Virginia, tôi được mấy lần gặp Ông Bà Trần văn Chương tại nhà riêng ở Chevy Chase, Washington, DC. Ông Chương là cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa kỳ. Ông Bà là bố mẹ của Bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của Ông Ngô Đình Nhu, Cố vần của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Một hôm, Ông Chương mời tôi uống trà với ông tại phòng ăn. Tôi hỏi Ông Chương tại sao Ông Diệm có vẻ không tin ai ngoài gia đình. Ông Chương cười và đáp: “Ông Diệm không tin chính ông thì thử hỏi làm sao tin người khác được? ”.
Một buổi khác nữa, Ông Chương tiết lộ một chuyện, tôi cho là rất quan trọng và rất đặc biệt. Trước cuộc đảo chánh 1/11/1963 độ 10 hôm hay một tuần, Ông Diệm nhận thấy ông không còn đủ uy tín  để tiếp tục chức Tổng thống.  Tình hình phức tạp quá, khó tìm người ủng hộ ông hết mình. Ông Diệm có ý từ chức và xuất ngoại để Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lên thay.  Lúc đó, Bà Nhu đang ở ngoại quốc vận động dư luận thế giới ủng hộ đường lối của  chánh phủ Sài gòn.  Sau khi Ông Diệm nói ra quyết định  từ chức, Ông Nhu gọi điện thoại cho Bà Nhu báo tin quan trọng này. Lúc đó Bà Nhu đang ở Nhựt bổn. Ông Nhu cho vợ biết rằng ông và Ông Diệm sẽ xuất ngoại và ông sẽ gặp bà ở Nhựt trong vài ngày nữa.
Bà trả lời với sự giận dử, lớn tiếng, chửi chồng nặng nề, nói rằng nếu hai người (Ông Nhu và Ông Diệm) hèn như thế, nhác như thế, thì bà sẽ không làm vợ Ông Nhu nữa. Bà nhắc Ông Nhu rằng lúc cuộc chỉnh lý 1960, cả hai người đều muốn chịu thua phe đảo chánh, chỉ có bà là không chịu thua và nhứt định giữ lập trường cứng rắng bảo vệ chế độ bằng cách đi kiếm các tướng lãnh trung thành  để cứu mình.  Bà nhấn mạnh với Ông Nhu rằng bà không bao giờ muốn làm vợ người không đủ can đảm, đủ tài trí đối phó với hoàn cảnh khó khăn. Bà chỉ làm vợ kẻ anh hùng chớ không thể làm vợ kẻ tiểu nhơn được.
Ông Nhu nghe những lời vợ nói như vậy và không cải lại được một lời nào hết.  Ông phải dẹp bỏ ý định đi ra nước ngoài lánh nạn với Ông Diệm, ở lại giử Dinh Gia long theo ý bà vợ muốn. Ông Diệm cũng nghe theo em.
Một chuyện khác về Ông Diệm và Ông Nhu. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, một lần cho tôi biết, thời gian1954/1955, chính Ông Diệm muốn có sự hợp tác của Bs Nguyễn Tôn Hoàn trong chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng. Ông Diệm nhờ Ông Nhu mời Ông Hoàn. Ông Nhu không liên lạc với Ông Hoàn, trái lại nói dối với Ông Diệm rằng Ông Hoàn từ chối, không muốn ủng hộ chánh phủ  của Ông Diệm. Nghe qua, Ông Diệm tức giận lắm. Vì sự hiểu lầm này mà Ông Diệm đã không ngăn cảng Ông Nhu khi đàn áp các đảng phái và cả Đại Việt.
Buồn, tiếc ! Nhưng tôi cũng hiểu, và hiểu rỏ, trong chánh trị có ai là bạn muôn thuở, có ai là kẻ thù muôn đời bao giờ đâu. Chánh trị chỉ là “mục tiêu” !
Nhưng theo nhà triết lý Hy- lạp thời xưa, số mạng được hiểu theo đức tính “character is destiny”. Đức tính của Ông Ngô Đình Diệm, như đức tính của mọi người, có phần thuận lợi và có phần bất lợi. Ông làm được một số việc lịch sử có giúp ích cho dân tộc của ông, nhưng có một số việc khác ông làm không đúng theo sự mong đợi của dân.
Thi hào việt nam Nguyễn Du đã viết:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua những cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ”.

Sau 50 năm, từ sự ra đi của Cụ Ngô Đình Diệm, tôi cảm thấy đời người dường như không khỏi bị hệ lụy theo số mạng do Trời Đất xếp đặt sẳn, như Cụ Nguyễn Du  đã để lại cho chúng ta.

Stephen B. Young   St Paul, Minnesota, Oct 27, 2013ve Young
HAI BỨC THƯ ĐI VÀO LỊCH SỬ CỦA
NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NGÔ ĐÌNH THỤC
1.     THƯ CỦA THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
GỬI QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI
Năm tháng sau khi được Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ Tướng, ngày 10-11-1954, ông Diệm gửi cho Quốc trưởng Bảo Đại một lá thư tái xác nhận “lòng trung thành của dòng họ chúng tôi” với Quốc Trưởng.
Dưới đây là bản dịch tiếng Việt của lá thư đó:
Kính gởi Hoàng thượng Bảo Đại Quốc trưởng Việt Nam .
 Kính thưa Ngài,
Tôi thật vô cùng cảm kích trước những lời tin cậy và khích lệ đầy thương mến mà Ngài đã chỉ thị cho bào đệ Ngô đình Luyện truyền lại cho tôi.
Ngài đã biết rõ sự bất vụ lợi và lòng trung thành của dòng họ chúng tôi, trong quá khứ, đã phục vụ Tổ quốc và Hoàng triều như thế nào. Xin Ngài hãy tin tưởng rằng đến lượt tôi, tôi sẽ cố gắng tiếp tục phục vụ với tất cà sức lực và tâm hồn để xứng đáng với lòng tin cậy thân yêu mà Ngài đã dành cho.  
Trong lúc có những giải thích đầy xuyên tạc của dư luận về sự mở rộng thành phần Nội các đã gây cho tôi quá nhiều phiền muộn, tôi muốn nói lên đây lòng tri ân của tôi về sự tín nhiệm của Ngài vẫn dành cho tôi.
Thật ra hoài bảo thân thiết nhất của tôi là nhận được sự chấp thuận của Quốc trưởngtrong các đại sự của Quốc gia, về Binh bị, Ngoại giao, Xã hội, Tài chánh hay Hành chánh.
Chỉ có sự chỉ đạo khôn khéo và chỗ dựa vững chắc ở Quốc trưởng, tôi mới có thể thực thi được những quyền lực đầy đủ để giải quyết tất cả vấn đề có tầm vóc liên quan đến sự sống còn và tương lai của đất nước.
Những cải cách về Hiến pháp và Dân chủ phải được nhanh chóng thực thi theo đúng những lời tuyên bố của Ngài khi Ngài trở về sau chuyến lưu vong.
Nhưng quyền lực của Hoàng triều phải thật sự cứng rắn để bảo đảm trật tự và công bằng xã hội, kỷ luật quân đội, tôn trọng quyền lợi và tự do của dân.
Trình Ngài, chính trong tinh thần nầy mà tôi đã nhờ bào đệ Luyện thỉnh cầu Ngài hồi loan càng sớm càng tốt, miễn là không trở ngại đến việc chữa bệnh của Ngài ở Pháp.
Tiếc thay khi được tin nầy thì những xáo trộn những âm mưu chính trị không tránh được khi đất nước bị chia cắt, đã tăng lên gấp bội, vì những tham vọng và quyền lợi riêng tư đó đã lo sợ sự hiện diện của Hoàng thượng và sự củng cố chánh quyền của Ngài.
Là người chủ xướng sự hồi loan nhanh chóng của Ngài, thế mà tôi phải đau lòng thỉnh cầu ngài dời hoãn ngày về nước để cho tôi có đủ thời gian cần thiết để san bằng những trở ngại khó khăn và đánh tan một vài thái độ mâu thuẫn.
Sự mong đợi chuyến về của Hoàng thượng càng lớn khi tôi cần dựa vào sự minh triết của Hoàng thượng để giúp tôi, ngoài những việc khác, tái tổ chức và phát triển Hoàng Triều Cương Thổ mà Hoàng thượng đã tức thời quyết định cho sát nhập về với Việt Nam. Việc nầy đã được sự tán thành của toàn dân.
Tôi nghỉ rằng, thật ra các miền Cao nguyên đó, từ lâu đã được sự chăm lo ưu ái của Hoàng thượng, rồi đây sẽ được hưởng những lợi ích to lớn về một tổ chức xã hội, kinh tế và quân sự mà các ngành Hành chánh cao cấp sẽ được chính phủ bổ nhiệm sau khi được sự chấp thuận của Ngài.
Để kết thúc, tôi xin đươc phép nhắc lại sự cảm tạ của tôi về sự tiếp tục tín nhiệm mà Ngài đã dành cho.
Tình trạng đất nước, bị xâu xé và tàn phá bởi cuộc chiến lâu ngày nầy đã gây quá nhiều lo âu cho tôi, vì vậy những bằng chứng về lòng tin tưởng thương yêu của Hoàng thượng sẽ là một niềm khích lệ vô giá đối với tôi.
Xin được phép nhắc Ngài rằng khi nhận chức Thủ Tướng chính phủ, tôi đã có xin Ngài hứa cho là trong trường hợp chính sách của tôi, nếu xét có bằng chứng có thể phương hại cho Tổ quốc, thì Hoàng thượng sẽ không để những tình cảm tốt đẹp dành cho tôi chi phối, mà sẽ cương quyết chối từ chính sách đó để cứu quốc dân.
Xin phép Ngài cho tôi được tin vào lời hứa đó, vì tôi phải có một chính sách cứng rắn và dũng cảm để đối phó với các sự xáo trộn chính trị và các liên hệ chằng chịt quá phức tạp của những quyền lợi lớn của cá nhân hay ngoại quốc gây ra.
Tôi sẽ làm chuyện nầy với lương tâm thanh thản vì tôi biết trước, nếu trường hợp gặp thất bại, Ngài sẽ sẵn sàng điều chỉnh tay lái khi cần.
Tôi trao thư nầy cho bào đệ Luyện để đệ trình lên Ngài với lòng trung thành tôn kính và thâm sâu của tôi.
Sài gòn, ngày 10 tháng 11 năm 1954 .  Ngô Đình Diệm”
Mười một tháng sau Lá thư bày tỏ “lòng trung thành tôn kính và thâm sâu” nói trên, ông Diệm dùng phương tiện chính phủ tiến hành một chiến dịch lăng nhục vua Bảo Đại và tổ chức Trưng cầu Dân ý gian lận để truất phế vua Bảo Đại và tự phong mình làm Quốc Trưởng với … 98.2% số phiếu !
2.     THƯ CỦA GIÁM MỤC PIERRE MARTIN NGÔ ĐÌNH THỤC,GIÁM QUẢN TÔNG TÒA GIÁO PHẬN VĨNH LONG, GỬI ĐÔ ĐỐC PHÁP JEAN DECOUXTOÀN QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG
Tài liệu do Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu phát hiện còn lưu giữ tại
Trung tâm các Văn khố Hải ngoại (CAOM, Aix-en-Provence) của nước Pháp.
BẢN DỊCH:    Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long ngày 21/8/1944
Thưa Đô Đốc,
Một linh mục từ bổn Tòa được phái đi Sài Gòn để lo việc cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. Vì đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi vừa được báo cáo có đúng sự thực hay không.
Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc là Đô Đốc đã cảm thấy – nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này.
Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con củamột gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận [hoạt động của các em tôi].
Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi vì nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo [Thiên Chúa], tôi sẽ vui vẻ rời khỏi Tông Tòa Giáo phận nầy ngay.
Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin tưởng trìu mến của Đô Đốc [đối với tôi] đã không bị đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn.
Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đã xa Huế như thế nầy. Giá có mặt ở đấy thì tôi đã có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy đến tôi đã có thể chống lại các chủ đích của các em tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho quyền lợi nước Pháp.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, cho đến khi được chứng minh ngược lại, tôi xin thú thực là không tin rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi.
Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp, trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa kiều Chợ Lớn được phái đến Phan-rang với mục đích hại Diệm, Phan-rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An-nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái đến.
Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn nầy được chứng tỏ là điều đã gây nên tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.
Thưa Đô Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ nầy, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi.
NGÔ ĐÌNH THỤC
Lời thú nhận của Giám mục Ngô Đình Thục về truyền thống  làm tay sai cho giặc ngoại xâm:
“… thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp …”
và “… một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu …”.
NGUYÊN VĂN:
Vicariat Apostolique de Vinh Long   (Cochinchine)
Vinh Long, le 21 Aout 1944
Amiral,
Je viens d’apprendre par un prêtre de ma Mission, envoyé à Saigon pour les affaires du séminaire, que deux de mes frères ont été l’objet de poursuites judiciaires à Hué. N’ayant recu de Hué depuis longtemps aucune nouvelle, je ne sais si ce qu’on m’a rapporté corespondait à la vérité.
Mais, en pensant a la peine immense et à la juste indignation que vous avez du éprouvées, si ce qu’on leur imposait était fondé, je m’empresse de vous écrire, pour vous exprimer, Amiral, ma grande douleur en l’occurence.
S’il était prouvé que leur activité a pu nuire aux intérêts de la France, je la désapprouve du fond du coeur, comme évêque, comme annamite, et comme membre d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions memées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng à Nghệ An et Hà Tịnh.
Cette déclaration n’a pas pour but, Amiral, de sauvegarder ma situation personnelle: car ce sera avec joie que je quitterai mon évêché si tôt qu’il sera constaté que mon humble personne pourrait porter préjudice aux intérêts de la Religion.
Elle n’a pour objet que de vous montrer que vous n’avez pas accordé votre bienveillante confiance à un indigne ou à un ingrat. Amiral, je n’ai jamais tant regretté mon éloignement de Hué. Là j’aurais pu mieux conseiller mes frères et, à, l’occasion, m’opposer à leur desseins, si vraiment ils en ont concu de nuisibles aux intérêts de la France .
Je puis hélas me tromper, mais je vous confesse, Amiral, que je ne puis croire, jusqu’à preuve du contraire, qu’ils se sont montrés si rebelles aux traditions de notre famille, qui s’était attachée à la France dès le début, tandis que les aieux et les pères des mandarins actuels, presque tous, combattaient contre elle, et ne s’étaient décidés pour elle que lorsqu’il n’avait plus que profit à le faire.
Mes frères eux-mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d’un chinois de Cholon envoyé à cet effet à Phan Rang où Diệm défendait énergiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyés de la Cochinchine.
Certes, leur dévouement dans le passé n’est pas l’excuse de leur imprudences actuelles; s’il est prouvé qu’elle est coupable. Mais je crois ne pas faire en vain appel à votre miséricordieuse clémence en leur faveur, qui juge du présent sans pourtant oublier le passé. Celà en considération des services que mon père Ngô Đình Khả a eu l’honneur de rendre à la France au péril de sa vie, et de la longue conduite de mes frères faite d’un dévouement sans bornes à la France , sans peur de sacrifier leur vie pour elle.
En vous exprimant de nouveau, Amiral, toute la douleur que je ressens dans cette affaire, je vous prie d’agréer mes hommages les plus respectueux.
NGO DINH THUC
Phật Giáo Hòa Hảo Bị Nhà Ngô Đàn Áp Ra Sao? 
Các trích đoạn sau là từ tập biên khảo “Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc” của tác giảNguyễn Long Thành Nam. Từ Chương 14: PGHH Dưới Chế Độ VNCH 1956-1963.
Các dấu ba chấm (…) là cắt bớt. Độc giả có thể đọc toàn văn ở: http://www.hoahao.org/D_1-2_2-188_4-4170_5-50_6-1_17-9_14-2_15-2.
(Vài nét về tác giả: Ông Nguyễn Long tự Thành Nam sanh năm 1922 tại Bắc Việt, từ trần 1989 ở Calfornia. Vào Nam lúc còn trẻ, ông đã sớm trở thành một tín đồ trung kiên của Ðức Giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo và đã hoạt động đấu tranh không ngừng để phụng sự Ðạo pháp và Dân tộc.
Từ 1946-1955: Tuần tự giữ nhiều chức vụ trong Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Ðảng, chủ biên tờ báoChiến Ðấu, tiếng nói của Quân đội Phật Giáo Hòa Hảo; Ðại diện Phật Giáo Hòa Hảo trong Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc Gia.
● 1956-1963: Lưu vong sang Cao Miên, về nước sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ.
● 1963-1975: Giữ các chức vụ cao cấp trong Giáo hội Phật Giáo Hoà Hảo. Bên cạnh chức Chánh thư ký Ban Trị sự Trung ương nhiệm kỳ IV, ông cũng phụ trách nhiều chức vụ khác. Được chánh quyền mời tham dự Hội đồng Kinh tế Xã hội Quốc gia với chức vụ Chủ tịch Ủy ban Canh nông.
● 30/04/1975- 1989: Lưu vong sang Hoa kỳ, giúp lập Văn phòng Phật Giáo Hòa Hảo Hải ngoại, lậpViệt Nam Dân Chủ Xã hội Ðảng Hải Ngoại. Cùng một số thân hữu đã nghiên cứu, xuất bản một số tác phẩm nghiên cứu Anh ngữ về đề tài VN và Phật Giáo Hòa Hảo.
● Ông Nguyễn Long Thành Nam từ trần 28/12/1989, sau 1 cơn bạo bệnh tại California.
Ông Nguyễn Long Thành Nam lập gia đình với bà Nguyễn Hòa An và có sáu người con. Tất cả đều thành nhân. Bà Nguyễn Hòa An, trước kia trong thời kháng chiến, là liên lạc viên của Ðức Huỳnh Giáo Chủ.)
 CHƯƠNG 14: PGHH DƯỚI CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HOÀ 1956-1963
 …Từ thời điểm 1956, Phật Giáo Hòa Hảo bước vào một giai đoạn mới, gọi là “nằm im chịu đựng”, dù không biểu lộ thái độ hay có hành động chống đối ra mặt, nhưng rõ ràng là bất hợp tác với chế độ Ngô Đình Diệm…
 …tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đã cảm thấy bị uy hiếp, đàn áp về tinh thần, bị miệt thị, bị đẩy vào vị trí thất thế trong một chế độ mà họ không còn phương tiện để đối phó…
… Nói theo ngôn ngữ tôn giáo, đây là thời kỳ pháp nạn mà Phật Giáo Hòa Hảo phải chịu đựng, khá lâu dài.
 Phương thức chịu đựng của Phật Giáo Hòa Hảo ở giai đoạn này là phương pháp “chân không”, tạo ra một tình huống trống rỗng, không tổ chức, không giáo hội, không lãnh đạo, không sinh hoạt…
 … Năm 1955, để nối tiếp các hoạt động Dân Xã, ông Phan Bá Cầm và Nguyễn Bảo Toàn đứng đơn xin hợp thức hóa Đảng trở lại, nhưng chỉ ít lâu sau đó cũng bị chánh quyền Ngô Đình Diệm khủng bố, và phải rút vào bí mật, các lãnh tụ kẻ bị giết, người bị đày ra Côn Đảo.
 Ông Nguyễn Bảo Toàn, Tổng Bí thơ Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội, là Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Cách mạng thành hình ngày 28-4-1955 để cứu nguy ông Ngô Đình Diệm, giúp ông có thế lực đối phó với Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Lực Quốc Gia trong cuộc tranh chấp gay go năm 1955. Ngay bữa xảy ra giao tranh giữa quân đội quốc gia và quân lực Bình Xuyên, Hội đồng Nhân dân Cách mạng ra đời, với thành phần:
 Nguyễn Bảo Toàn, Chủ tịch; Hồ Hán Sơn, Phó Chủ tịch; Nhị Lang, Tổng Thơ ký; và một số nhân vật khác.
 Hội đồng này quả đã cứu ông Ngô Đình Diệm trong một tình thế hiểm nghèo. Nhưng chỉ ít lâu sau,Hội đồng này lại là nạn nhân bị chế độ ông Diệm khủng bố. Ba nhân vật chính yếu của Hội đồng nói trên, thì ông Nguyễn Bảo Toàn phải lưu vong sang Mỹ, ông Nhị Lang lưu vong sang Cao Miên, cònông Hồ Hán Sơn ở lại bị giết trong một trường hợp mờ ám rất đau lòng…
 …  ông Toàn cũng bị mật vụ của ông Diệm bắt giam và thủ tiêu bằng cách bỏ vào bao bố cột lại quăng xuống sông, mất xác, không biết đâu mà tìm nữa…
 … Một vụ thảm sát khác đã làm cho Phật Giáo Hòa Hảo mất đi năm cán bộ cao cấp, và cũng là một vụ điển hình rõ ràng nhứt của chánh sách tiêu diệt cán bộ Phật Giáo Hòa Hảo bởi mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm. Tầm quan trọng của vụ thảm sát này rất lớn, làm cho tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mất hết chút cảm tình mong manh còn sót lại đối với chế độ.
 Đây là một cuộc tấn công táo bạo vào Tổ Đình Phật Giáo Hòa Hảo, và vào cá nhân Đức Ông Huỳnh Công Bộ thân sinh của Huỳnh Giáo Chủ. Bốn người bị giết là các cán bộ cao cấp, cộng sự viên thân tín của Đức Ông, và được mặc nhiên xem như bộ tham mưu của Tổ đình Phật Giáo Hòa Hảo.
Vào khoảng giữa năm 1962, bốn cán bộ: Trần Văn Tập, Lê Hoài Nam, Huỳnh Thiện Tứ, Huỳnh Hữu Thiện, và một người lái xe, cùng đi trên một chiếc xe nhà của Đức Ông, từ Thánh Địa Hòa Hảo lên Saigon. Họ bị bắt đem đi mất tích.
 Từ đó về sau, không có tin tức nào của họ, cũng không biết ai bắt, vì tội gì, giam giữ tại đâu. Trong không khí nặng nề của khủng bố, và trong màn lưới khủng khiếp của mật vụ, các trại giam mọc thêm rất nhiều, và bí mật, cho nên các nỗ lực tìm kiếm tung tích những người bị bắt đều vô hiệu quả.
 Chỉ sau khi chế độ nhà Ngô sụp đổ vào ngày 1-11-1963, các tin tức bưng bít trong các trại giam, nhà tù, khám đường, và cơ sở mật vụ, được lọt ra ngoài, do chính những người đã bị bắt giam, bị tra tấn. Nhờ phối kiểm các nguồn tin tức cá nhân này, phía Phật Giáo Hòa Hảo mới khám phá ra được manh mối và diễn tiến sự mất tích của chiếc xe hơi và năm người trong đó…
 … Trên bình diện pháp lý, đạo Dụ số 10 là một văn kiện pháp lý thể hiện sự bất công tôn giáo. Theo đạo Dụ số 10, các tôn giáo Việt Nam bị xem như hiệp hội, với quy chế sinh hoạt giới hạn của hiệp hội, ngoại trừ Thiên Chúa Giáo. Tinh thần điều 44 miễn trừ Giáo hội Thiên Chúa Giáo, không bị chi phối bởi Dụ số 10, và ghi rằng sẽ có “chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô”. Như thế, Thiên Chúa Giáo được xem là giáo hội (một tôn giáo), còn các tổ chức tín ngưỡng khác ở Việt Nam chỉ là những hiệp hội, ngang hàng với các loại hội hè tương tế…
 … Trên bình diện quyền lực, chánh sách của chế độ biệt đãi người có theo đạo Thiên Chúa. Thí dụ điển hình là trong tổng số chín sư đoàn của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, thì bảy sư đoàn trưởng là tín đồ Thiên Chúa Giáo, trong số 47 tỉnh trưởng ở Miền Nam, thì 36 vị là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Nhiều sĩ quan đã xin theo đạo để có thêm điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đời mình.
 Trên bình diện tài sản và phương tiện, Thiên Chúa Giáo thủ đắc những tài sản khá quan trọng nên có nhiều phương tiện để thiết lập các cơ sở giáo dục, đào tạo cán bộ và truyền đạo: Các tiểu Chủng viện, đại Chủng viện, cơ sở xã hội văn hóa, các hệ thống trường tư thục Taberd, Lasan tiểu, trung và đại học, về số lượng cũng như phẩm chất vượt xa các tôn giáo khác.
Luật cải cách ruộng đất ban hành năm 1957 đã có một khoản đặc biệt rằng “tài Sản của Giáo hội Công Giáo không bị chi phối bởi luật này”’, có nghĩa là: trong khi các điền Chủ phải bị truất hữu ruộng đất để bán lại cho quốc gia dùng cấp phát cho người cày có ruộng, thì những đất ruộng của Thiên Chúa Giáo không bị truất hữu, vẫn là tài Sản nguyên vẹn của Giáo hội Thiên Chúa Giáo…
 … Trong một hoàn cảnh như thế, Phật Giáo Hòa Hảo suốt chín năm dưới chế độ Đệ nhất Cộng Hòa, ở một ví trí thất thế, thiệt thòi về mọi mặt, trên các bình diện và lãnh vực.
ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM – CHÍ SĨ VÀ TỔNG THỐNG   *Nguyễn Văn Trần
     Năm nay, 2011, Cộng đồng Người Việt nam Hải ngoại có nhiều nơi tổ chức lễ tưởng niệm Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu. Các năm trước, ở Âu châu , chỉ có Paris tổ chức lễ tưởng niệm vì nhờ có Cựu Bộ trưởng Trương Công Cừu (người có thành tích từ giã TT Diệm, đi thụt lùi làm bể chậu kiểng – nhiều người biết chuyện kể lại ), và tiếp theo, Cựu Bộ trưởng Huỳnh Hữu Nghĩa, (người duy nhứt thân cận Cố vần Ngô Đình Nhu nhờ tài tiêm thuốc phiện cho ông Cố vấn – chính ông khoe một cách hãnh diện với nhiều người quen biết, nhứt là ông NVT, người giúp chở ông đi khám bịnh). Những người này đã lần lượt ra đi nên ở Paris, từ mấy năm nay, không còn người thân cận với gia đình Ngô Đình đứng ra tổ chức lễ. Tuy nhiên, ở giáo xứ Paris, tới ngày 1-11, vẫn có lễ cầu hồn cho người quá cố.
     Đặc biệt năm nay, Giáo sư Hồ Nam Trân, quê Quảng Bình (dạy Hóa học tại Đại Học Thụy sĩ) dựng tượng Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm trong vườn nhà ở Thụy sĩ, cạnh Hòn non bộ, và tổ chức lễ tưởng niệm với lối ba bốn mươi người từ nhiều nơi tới tham dự vào buổi trưa.
     Hằng năm, trước và sau tháng 11, nhiều phát biểu về Cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu dưới những cái nhìn khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau gay gắt tuy sự việc đã xảy ra từ nửa thế kỷ qua.
     Hôm nay, nhơn dịp cuối năm, rảnh rang để nhắc lại chuyện xưa, chúng tôi nhắc lại vài chuyện về Cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm với ý chí làm Tổng thống, chín năm cai trị Miền nam, không với lòng riêng tư thương ghét. Và cũng không nhằm phản bác những ý kiến suy tôn vì trong những người suy tôn, có khá nhiều những bạn vong niên mà chúng tôi hằng kính trọng.
Ai bao năm từng lê gót …
     Việc trao quyền cai trị Việt nam từ Cựu Hoàng Bảo Đại qua ông Ngô Đình Diệm là điều dễ dàng vì áp lực chánh trị của Huê kỳ ở Sài Gòn lúc bấy giờ khá mạnh . Cưụ Hoàng Bảo Đại đã thấy quyền lực quốc gia ngày càng rời khỏi tay ông theo đà Pháp bị mất ảnh hưởng. Nhiều lần, Cựu Hoàng muốn về Sài Gòn nhưng mỗi lần như thế, ông đều bị ngăn cản, có khi ông bị ngăn cản ngay tại phi trường Orly của Paris.
     Tình hình việt nam đã biến chuyển sâu xa theo chìêu hướng mới. Sau khi Điện Biên Phủ thất thủ tháng 6/54, TT Eisenhower lên tiếng cảnh giác hiểm họa cộng sản nhuộm đỏ Á châu bằng thuyết ”Domino”. Vatican thấy ngăn chặn Hà Nội với sự ủng hộ hùng mạnh của khối cộng sản quốc tế không có ai bằng Huê kỳ. Ở ngay tại chỗ, Hồng Y Francis Spellman vận động cho ông Kennedy, người công giáo, đắc cử Tổng thống Mỹ và ủng hộ ông Ngô Đình Diệm về cầm quyền ở Việt Nam để giữ Việt Nam không rơi vào tay cộng sản. Hồng Y Spellman chọn ông Ngô Đình Diệm vì ông Diệm là người công giáo, mê say quyền lực và chống cộng quyết liệt để trả thù nhà. Vatican lo sợ mất Việt Nam vào tay cộng sản là mất đi bao nhiêu công lao truyền giáo từ thời Alexandre de Rhode.
     Ông Ngô Đình Diệm được Hồng Y Spellman chọn cầm quyền ở Việt Nam còn vì một lý do tình cảm sâu xa. Năm 1948, nhân dịp ghé qua Sài gòn trên đường về Mỹ, Hồng Y Spellman được Giám mục người Pháp Cassaigne cùng với Giám mục Ngô Đình Thục đón tiếp niềm nở. Năm 1951, đang ở New York, Lm Trần Văn Kiệm, được điện tín từ Âu châu ra đón Tổng giám mục Ngô Đình Thục và em là Ngô ĐìnhDiệm taị phi trường Idlewild (phi trường Kennedy bây giờ). Sau đó Hồng Y Spellman gởi ông Diệm ngụ taị nhà dòng các linh mục Maryknoll, New Jersey. Tuy đuợc Hồng Y Spellman bảo trợ, ông Diệm chỉ được Lm. Trần văn Kiệm thăm viếng, đài thọ mọi chi phí cá nhơn, từ việc di chuyển, kể cả thuê khách sạn cho ông tiếp khách vì biết ông rất thanh bạch.
     Cho đến tháng 6/1953, ông từ giã Hoa Kỳ qua Pháp gặp Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lãnh chức vụ Thủ tướng và về Việt Nam lập Chánh phủ thay thế Chánh phủ Bữu Lộc. Ngoài ra, ông Diệm còn là con nuôi của Hồng Y Spellman cùng với hai Linh mục Trần văn Kiệm và Nguyễn Đức Quý.
Lúc bấy giờ, nhiều người Mỹ cho rằng nếu không có Hồng Y Spellman nhiệt tình ủng hộ ông Ngô Đình Diệm thì đã không có chánh phủ Miền nam Việt Nam (John Cooney, The American Pope; The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, Times Book, New York 1984).
     Về phía Pháp, Tướng Paul Ély, có tiếng là thân Mỹ, sau khi ông Diệm về Sài Gòn, hợp tác với TướngLawton Collins của Mỹ yểm trợ ông Diệm tại chức và cả về vật chất. Sự yểm trợ quân sự của Pháp chấm dứt tháng 6/1955. Vậy mà dư luận ở Việt Nam lúc bấy giờ không ngớt công kích “thực dân cấu kết với cộng sản ” chống lại Chánh phủ Quốc gia Việt Nam. Sự công kích này kéo dài dẫn tới cắt đứt bang giao giữa Sài gòn và Paris (Bernard Fall, Les Deux Vietnam, Payot, Paris, 1967, tg.295).
     Riêng Cựu Hoàng Bảo Đại chẳng những đề cử ông Diệm làm Thủ tướng với toàn quyền, tức cả về quân sự, điều mà xưa nay Cựu Hoàng chưa từng làm, ông còn chấp thuận yêu cầu của ông Diệm được quyền sử dụng ba Tiểu đoàn ưu tú của Ngự Lâm Quân để thanh toán lực lượng võ trang của “Giáo phái”. Báo chí cũng không ngớt công kích Cựu Hoàng dung túng Giáo phái để có tiền bạc tiêu xài hoang phí và dựa vào đó giữ chiếc ghế Quốc trưởng. Ông chấp thuận lời yêu cầu của ông Diệm bị các công sự viên của ông phản đối, ông giải thích bằng mấy dòng ngắn tự tay viết gởi cho một vị phụ tá: “Tôi không muốn sau này người ta nói Bảo Đại đã chọn quyền lợi riêng tư trước quyền lợi đất nước” (Bernard Fall, sđd, tg 294) .
Tổng thống bằng suy tôn
     Các lực lượng võ trang của Giáo phái Miền Nam chống Tây và cộng sản từ 1945, giữ được Miền Đông và Miền Tây yên ổn, nay bị ông Diệm thanh toán bằng giải pháp quân sự thay vì hòa giải như đã thỏa thuận (Cụ Trần văn Ân kể). Ông Ngô Đình Diệm bắt đầu chuẩn bị thế cầm quyền tương lai, tổ chức như một phong trào quần chúng chống Cựu Hoàng Bảo Đại. Ngày 30 – 04 – 1955, một “Ủy Ban Cách mạng” được thành lập tập họp đông đảo Đại biểu của 18 đảng phái và nhiều phe nhóm nhỏ họp Đại hội. Trong số Đại biểu, nổi bật hai TướngCao Đài, Nguyễn Thành Phương và Trình Minh Thế, đưọc chuộc với giá khá đắt, hai cựu cán bộ cộng sản của Mặt trận Việt minh, hai nguời thuộc phe Đệ tam và Đệ tứ và hai người Bắc Quốc gia cực đoan (Le Monde, 4/5/1955, Bernard Fall trich dẫn, sđd, tg 295 – trong 2 người Bắc quốc gia cực đoan, có lẽ 1 người là ông Nguyễn Bảo Toàn, chú thích riêng của NVT). Nhiệm vụ của Ủy Ban rất rõ ràng chỉ nhằm thuyết phục Đại hội truất phế Cựu Hoàng Bảo Đại, đưa ông Ngô Đình Diệm lên thay thế và đuổi Tây rút hết về xứ.
     Năm 1945, Hồ Chí Minh yêu cầu Bảo Đại thoái vị với nghi lễ để chấm dứt thật sự chế độ Nhà Nguyễn. Nay ông Ngô Đình Diệm cũng muốn Cựu Hoàng bị truất phế với đầy đủ tính chánh thống, nên ở Huế ông Ngô Đình Cẩn, em của ông Diệm, triệu tập cánh Hoàng thân tuyên bố bất tín nhiệm Cựu hoàng trong vai trò Quốc trưởng ngày 15/06/1955 và đồng thời tuyên bố ông Ngô Đình Diệm mới là người “Thề tranh đấu cho tự do”. Giờ chót có nhắc lại lời hứa giử ngôi Hoàng tử Bảo Long để duy trì nguyên tắc quân chủ nhưng bị bác bỏ mặc dầu đó là lời hứa của Ông Diệm với Bảo Đại trước Thánh giá (G. NguyễnCao Đức, JJRS 65, Impératrice Nam Phương, Internet).
     Con đường dẫn Việt Nam tới một Chánh thể Cộng Hòa như vậy đã được vạch rõ.
Ngày 7/7/1955 kỷ niệm một năm ông Ngô Đình Diệm chấp chánh, Chánh phủ loan báo sẽ tổ chức cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23/10 để toàn dân quyết định số phận Việt nam theo chế độ Quân chủ hay chế độ Cộng hòa.
     Trong lúc động viên dân chúng Miền nam tham gia bỏ phiếu trưng cầu dân ý, Cựu Hoàng chẳng những không được có tiếng nói với cử tri mà còn bị bộ máy thông tin tuyên truyền của Chánh phủ cực lực “đấu tố”. Ông Donald Lancaster, Cố vấn Chánh trị của Tòa Đại sứ Anh ở Sài Gòn, phải lên tiếng phê phán “Cuộc vận động trưng cầu dân ý diển ra quá coi thường những nguyên tắc lương thiện và dân chủ đến nỗi Việt Minh còn phải lấy làm khó chịu khi theo dõi ” (Donald Lancaster, Giải phóng Đông Dương Pháp, Oxford University Press, 1961, tg 398). Việt Minh thấy bị “khó chịu” phải chăng vì ông Diệm đã áp dụng rập khuôn phương pháp tuyên truyền áp đảo đối phương của họ để đạt được kết quả như họ?
     Kết quả trưng cầu dân ý dĩ nhiên đã biết trước :ông Ngô Đình Diệm nhận được gần như trọn vẹn số phiếu của cử tri, 98,2%, Cựu Hoàng chỉ có 1,1% số phiếu. Miền Nam Việt Nam trở thành Việt Nam Cộng Hòa.
     Năm 1946, Chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa của ông Hồ Chí Minh tổ chức bầu cử Quốc Hội đầu tiên và ông Hồ chí Minh thắng cử Dân biểu với 98% số phiếu. Cố vần Mỹ, trước khi bỏ phiếu, nghĩ ông Diệm có được 60% số phiếu bầu đã quá đủ để chánh thức xác định tư cách cai trị Miền Nam nhưng ông Diệm không đồng ý, mà muốn phải được 98%. Trong các cuộc bầu cử, kết quả trên 90% thường chỉ có ở chế độ độc tài mà thôi.
     Một Chánh phủ được 60 % dân chúng tín nhiệm là Chánh phủ bình thường, Dân chủ vì được bầu hợp pháp, lương thiện. Còn Chánh phủ được bầu với 90% cử tri phải là Chánh phủ “Cách mạng”!
Huy động bộ máy chính quyền để bôi nhọ đối thủ, và bằng gian lận trong thủ tục bầu cử, ông Diệm đã truất phế Bảo Đại và suy tôn mình lên làm Tổng Thống Đệ nhứt Cọng hoà với … 98,2% số phiếu !!!
     Nhưng trong quan hệ quốc tế, Chánh phủ có đắc cử với 100% số phiếu cũng không phải là một trở ngại và bị LHQ tẩy chay vì ngay trong tổ chức quốc tế này, có không ít chánh phủ thành viên đắc cử nhờ gian lận không thua Chánh phủ Ngô Đình Diệm. Chỉ có điều, khi nhận lãnh trách nhiệm, ông Ngô ĐìnhDiệm luôn luôn hô hào là người giữ “tiết trực tâm hư” và lấy quốc hiệu là cây trúc! Cái khó là mình phản bội chính con tim của mình. Thế mà con người ta vẫn làm được!
Hoàn thành nhiệm vụ công cụ, “Ủy Ban Cách mạng” được giải tán ngày 15/01/56. Một số lớn thành viên lần lượt bị “vắng mặt”. Một số ít thoát ra được ngoại quốc và tố cáo những bí ẩn của biến cố trong năm 55-56 (Le Monde, 17/01/56 ).
     Chánh phủ tổ chức Quốc Hội Lập hiến với 123 vị Dân biểu của 5 “đảng phái” và vài người độc lập. Dĩ nhiên không thể có Dân biểu thật sự đối lập. Ở những đơn vị di cư, các linh mục hướng dẫn cử tri đi bầu và giới thiệu ứng cử viên với cử tri.
     Sau 75, ở Việt Nam, Việt cộng bắt chước cách hướng dẫn bầu cử này áp dụng thành chánh sách “đảng cử, dân bầu” rất thành công. Bà Ngô Đình Nhu đắc cử trong trường hợp này.

[Thư đã được cắt bớt]  Xem toàn bộ thư

Nhấp vào đây để Trả lời hoặc Chuyển tiếp

Bình luận về bài viết này