Kế hoạch xây cầu tiêu thất bại thảm hại. Hóa ra xin đất xây trường học thời Việt Nam Cộng Hòa còn dễ dàng hơn xin đất xây cầu tiêu thời Việt Nam Cộng Sản. Nhưng Nguyễn Liệu không bỏ cuộc, ông chờ một cơ hội khác. Lần sau, với lời hứa chỉ một mình ông tự lo để không ảnh hưởng tới năng suất cả đội, Nguyễn Liệu đã thực hiện được ước mơ “đổi đời”: xây một cầu tiêu. Làm xong cầu tiêu, Nguyễn Liệu “thừa thắng xông lên” đòi đào giếng. Chưa xong, ông còn nghĩ tới làm hệ thống lọc nước để không uống phải nước độc trong rừng. Rồi tiếp theo làm những chỗ để tiểu, đổ tro vào rồi lấy tro trộn nước tiểu làm phân bón rau. Các vồng rau, cải, bí, cà chua, mọc lên xanh om giúp cải thiện bữa ăn héo hắt trong tù.Thế nhưng, dù cuộc sống trong trại có vẻ ổn định, Nguyễn Liệu biết rằng nguy hiểm vẫn luôn luôn rình rập, một số cán bộ muốn đẩy ông ra khỏi đội lò gạch để chúng dễ bề mua bán đổi chác hòng thủ lợi riêng. Sau cùng, Nguyễn Liệu bị đổi qua trại Xuân Phước.
Người tù thứ hai tôi nhớ tới là Cung Trầm Tưởng.
Trước đây, nếu có ai nói có ngày tôi được gặp tác giả câu hát trữ tình “Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế…” tôi sẽ cười, cho là ăn ốc nói mò, không ngờ tôi có được cái may mắn ấy thật. Mùa thu vừa rồi, Cung Trầm Tưởng ghé thăm Virginia, bị kẹt bão Sandy cả tuần lễ, nhờ thế tôi có dịp gặp nhà thơ.
Giữa những tách café bốc khói và những chiếc bánh ngọt, Cung Trầm Tưởng kể về những lúc trong tù. Ngạc nhiên thay, Cung Trầm Tưởng – người được đào tạo ở Pháp, có cả bạn gái là đầm Pháp chính gốc – lại có những giòng thơ thân thiết với các thi sĩ thời Đường. Cung Trầm Tưởng bật mí rằng ông học thơ Đường chính từ trong tù! Một người bạn tù, một đàn anh, thông thạo cả Tây học lẫn Hán học đã dạy ông những bài thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị. Trong tù ngày dài tháng rộng, có dịp học, cớ sao không học?
Cung Trầm Tưởng cũng không quên làm thơ, hết làm thơ tình thì làm thơ tù vậy. Không bút, không giấy, vẫn có thơ, đó là những “Lời Viết Hai Tay”, hai tay bị cùm chặt, hai tay bị cấm viết, nhưng chính vì bị cùm bị cấm mới ra thơ tù, để rồi trọn vẹn “Một hành trình thơ Cung Trầm Tưởng” (tên tác phẩm thơ vừa được phát hành).
 |
Kẽm gai
Nguồn ảnh: OntheNet
|
Hệ thống tù lao động cải tạo là cách thâm độc của cộng sản nhằm triệt hạ ý chí và sức sống của quân nhân miền Nam hòng biến họ thành hèn nhát, sợ sệt. Ngờ đâu, những hiểm nguy đời tù lại giúp cho Cung Trầm Tưởng tìm ra những ý tưởng mới lạ. “Những dấu chân ngang trên một triền phiếm định(2)”, cái tựa này sẽ rất khó hiểu cho những ai không từng đi tù cộng sản, phải là người đã từng vác trên vai một bó vầu vừa dài vừa nặng rồi đi xuống trên triền dốc thẳng đứng, trơn trượt. Hai người tù, mỗi người một đầu, vác không khéo, trượt chân, bạn mình cũng té nhào theo. Để không té ngã thì không được đi thẳng mà phải đi ngang, nên thành “Những Dấu Chân Ngang”. Chính vì đi ngang – thật ra đi xéo xéo – nên có thể thấy được cả hai phía, phía trước mặt và phía sau lưng, như thể thấy cả quá khứ và tương lai; và thi sĩ chợt bừng hiểu: tất cả chỉ là hư ảo, tất cả chỉ là “Một Triền Phiếm Định”.
Tôi xin ký thác ngân hàng
Gian truân còn lại chút vàng châu thân.
Sách đời dày nghĩa nhân luân,
Văn hay ý đẹp đánh vần dạy tôi.
Ước gì những cán bộ quản giáo, giám thị cộng sản có dịp đọc bài thơ “Chuyến Chót” của Cung Trầm Tưởng. Ít ra, một lần, dù chỉ thoáng qua, họ có dịp thấy được bao nhiều mưu đồ của họ cuối cùng đã thất bại, họ dễ dàng lấy đi mạng sống của người tù nhưng không bao giờ tước đoạt được khả năng cảm ứng với cái đẹp của người thơ.
Người tù thứ ba, không chỉ riêng tôi, mà còn được nhiều người tưởng nhớ, đó là Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
Năm 1975, nhà nước Việt Nam Cộng Sản đã bắt Giám Mục (Gm) Nguyễn Văn Thuận mà không qua một phiên tòa xét xử tội danh nào. Không chỉ bắt bớ vô cớ, cộng sản còn buộc ông 9 năm biệt giam, không bạn tù, không được cả ra ngoài lao động. Cuộc sống bức bối cô đơn khiến nhiều lúc làm Gm Thuận muốn phát điên, nhưng nỗi dày vò lớn hơn cả là cảm thấy mình vô dụng, ở tuổi 48, tuổi tràn đầy sinh lực và khả năng làm việc vậy mà phải bỏ phí thời gian giữa bốn bức tường ngục tù, thật quá oan uổng. Thế nhưng, trong tận cùng u tối, Gm Thuận đã tìm được ánh sáng, ông hiểu ra thế nào là “Chúa” và thế nào là “Việc của Chúa” .
“Việc của Chúa” là những công việc một tu sĩ Thiên Chúa Giáo được giao phó tùy chức vụ và khả năng, như trường hợp một giám mục thì đó là kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu sĩ, giáo dân, thanh niên; kiến thiết thánh đường, cư xá sinh viên; mở mang các thí điểm truyền giáo, v.v. Còn “Chúa” hay “Thánh Ý Chúa” là cách sống, cách hành xử như những lời Đức Ki-Tô đã dạy, như lời Kinh Hòa Bình: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.”
Và GM Nguyễn Văn Thuận đã tuân theo tiếng gọi thiêng liêng ấy, ông không còn coi mình như một giám mục xông xáo năng động và thành công nữa; kể từ bấy giờ, ông chấp nhận một sứ mạng mới: sứ mạng tông đồ truyền giáo giữa chốn lao tù, một thứ “khí cụ bình an của Chúa” để “đem tin kính vào nơi nghi nan, đem trông cậy vào nơi thất vọng…” Nhờ ở tâm tình khiêm tốn và hiến dâng ấy, Gm Thuận đã trải qua 13 năm lao tù với sự bình an, thanh thản.
Trên đây là 3 người tù của nước Việt Nam Cộng Hòa, 3 người có nghề nghiệp khác nhau, người dạy học, người làm lính, người đi tu. Cả 3 đều là cái gai của chế độ Cộng Sản, đều phải bị hạ nhục, bị bẻ gãy, và ghê gớm hơn, bị làm cho tha hóa để không còn có thể giữ được trí tuệ, phẩm cách và nhân tính nữa. Thế nhưng…
Cả 3 đều đã ra tù, đều sống bình yên vui vẻ bên sự nể trọng và thương yêu của gia đình, bạn bè, đồng đội. Nguyễn Liệu vẫn sung sức, hàng ngày chăm sóc mảnh vườn Quảng Ngãi Nghĩa Thục, chuyển lửa về trong nước. Cung Trầm Tưởng dù nhất định không đụng tới cái computơ vẫn bận rộn với các bài thơ của ông. Và Hồng y Nguyễn Văn Thuận, nay không còn nữa, nhưng trước khi ra đi ông đã để lại tác phẩm “Đường Hy Vọng” – kinh nghiệm sống của một người bị đày ải nhưng không hề tuyệt vọng.
Tôi nghĩ tới những người đấu tranh đang bị Cộng Sản giam cầm: Việt Khang, Paulus Lê Sơn, Tạ Phong Tần,… tôi lại nghĩ tới 3 người tù kia. Tôi biết mỗi người là một hoàn cảnh, không ai giống ai; nhưng mong sao tất cả những anh em trong tù sẽ tìm được phương cách riêng cho mình, Việt Khang vẫn viết nhạc, Lê Sơn vẫn rao giảng lời Chúa, Phong Tần vẫn viết văn. Biết đâu chừng, khi những người ấy ra tù, chúng ta sẽ có thêm những tác phẩm mới – những sáng tác đánh dấu một vận hội mới của một Việt Nam mới.
© DCVOnline