MẤY TÀI LIỆU VỀ ÂN QUANG HẦU TRẦN CÔNG HIẾN ( ? – 1816)
SƯU TẦM:
MẤY TÀI LIỆU VỀ
ÂN QUANG HẦU TRẦN CÔNG HIẾN ( ? – 1816)
Đôi lời bộc bạch:
Lần đầu tiên chúng tôi được đọc tiểu sử của Ân Quang hầu Trần Công Hiến, đó là bài viết của tác giả Đỗ Minh Tâm trong cuốn Từ điển Văn hóa Việt Nam (phần Nhân vật chí). Để kết luận, tác giả Đỗ Minh Tâm đã đưa ra nhận xét:“Có thể xem ông là một trong những trí thức miền Nam đầu tiên có đóng góp vào việc khuyến khích, phổ biến truyền thống văn học, sử học nước nhà”.
Được biết thêm một nhân vật người Quảng Ngãi đã có công đóng góp vào nền văn hóa nước nhà và đã được đánh giá cao như thế, chúng tôi cố gắng đi tìm thêm tài liệu về nhân vật này.
Sau đó, chúng tôi được đọc bộ Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trong cuốn này, phần tác phẩm của Trần Công Hiến được giới thiệu nhiều hơn. Tuy nhiên, tiểu sử của ông cũng vẫn hết sức sơ lược và có điểm còn hồ nghi.
Gần đây, chúng tôi lại được đọc vài bài viết ngắn trên trang mạng của tác giả Hoa Cúc Vàng và tác giả Hồ Quang.
Có một điều khiến chúng tôi hết sức phân vân, đó là hai tác phẩm được xem như hai cuốn địa phương chí viết về Quảng Ngãi gần đây nhất, đó là Non Nước Xứ Quảng của Phạm Trung Việt (bản mới nhất có sửa chữa và tăng bổ, được in tại Hoa Kỳ năm 1998) và Quảng Ngãi: Đất nước – Con người – Văn Hóa xuất bản tại Quảng Ngãi năm 2001 đều không nhắc đến tên tuổi của Ân Quang hầu Trần Công Hiến. Tại sao có sự thiếu sót này?
Chúng tôi thiển nghĩ, Ân Quang hầu Trần Công Hiến, dù xuất thân là một võ quan, nhưng đã có một số đóng góp thiết thực trong việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa của tổ tiên bằng việc thành lập một nhà tàng bản giống như một nhà xuất bản ngày nay lấy tên là Hải Học Đường và chính ông cũng đã sưu tập và biên soạn một số tác phẩm, thì tên tuổi của ông cũng nên được con dân Quảng Ngãi chúng ta tìm hiểu và ghi ơn.
Sau đây chúng tôi trích đăng những tài liệu chúng tôi đã sưu tầm được, và trong phần cuối, chúng tôi sẽ lạm bàn về những điểm còn thắc mắc về tiểu sử và các tác phẩm của Ân Quang hầu Trần Công Hiến.
Trích đăng tài liệu:
Tài liệu 1: ÂN QUANG HẦU ( ? – 1816)
Chính tên là Trần Công Hiến, người l. Trương Nghĩa, t. Quảng Ngãi. Có chí ham học, mặc dầu hoàn cảnh nghèo nàn và sống vào thời đại nhiều biến động. Theo giúp Nguyễn Ánh, chuyển sang ngành võ, đã tham gia nhiều chiến dịch, bắt đầu là trận Thị Nại (1793), dần dần lên đến chức cai cơ. Khi Gia Long lên ngôi, cho ông ra trấn thủ Hải Dương, phong tước Ân Quang hầu.
Có nhiều thành tích về võ, Trần Công Hiến vẫn say sưa với việc nghiên cứu và sáng tác. Điều đáng chú ý là, xuất thân từ vùng Nam Ngãi, ông rất quan tâm đến kho tàng văn chương truyền thống ở Đàng Ngoài. Ông đã lập Hải Học Đường ở Hải Dương, xuất bản nhiều loại sách như: Cố Lê tứ trường văn thể, Danh thi hợp tuyển, Bạch Vân Am thi biên tập. Ông cũng chú ý đến lịch sử, có cho khắc in cuốn Lịch đại sử toản yếu.
Trần Công Hiến cũng sở trường văn nôm. Ông đã soạn hai tập ký bằng văn lục bát, thiên về địa lý và phong tục học. Đó là cuốn Đại Việt thủy lục trình ký và cuốn Hải Dương phong vật ký. Có thể xem ông là một trong những trí thức miền Nam đầu tiên có đóng góp vào việc khuyến khích, phổ biến truyền thống văn học, sử học nước nhà.
ĐỖ MINH TÂM
Trích: Từ Điển Văn Hóa Việt Nam (phần nhân vật chí) của nhiều tác giả do Vũ Ngọc Khánh chủ biên, nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, ấn hành năm 1993 – trang 18.
Tài liệu 2: TRẦN CÔNG HIẾN ( ? – 1816)
Trần Công Hiến, người làng Trương Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi ; không biết ông sinh năm nào, chỉ biết mất năm Gia Long thứ 15 là năm bính tý (1816).
Thưở nhỏ, nhà nghèo theo Nho học, rồi mộ nghĩa sĩ giúp họ Nguyễn. Năm 1793, vào yết kiến Nguyễn Ánh ở Thị Nại, có quân công, được làm tổng nhung cai cơ, sau ra làm trấn thủ Hải Dương, phong tước Ân Quang hầu.
Ông tính thích văn học, ngoài việc công, có làm sách và có khuyến khích việc làm sách. Ông có mở nhà Hải Học Đường ở Hải Dương, xuất bản nhiều sách cũ và sách mới soạn.
Tác phẩm của ông có:
-Đại Việt thủy lục trình ký (có diễn ra Nôm, gọi tên là Hải Dương phong vật khúc) (sử, dân tộc học)
-Phong vật khúc (sử, địa)
-Hải Dương phong vật ký (có diễn ra Nôm) (sử, văn)
-Lịch đại sử toản yếu (sử)
-Cố Lê tứ trường văn thể (văn)
-Bạch Vân Am thi biên tập (văn) A. 296
-Danh phú hợp tuyển (A. 2802) 12 quyển, bản in đóng thành 4 tập, trong đó có những bài phú của một số nhà văn nổi tiếng, như: Đỗ Uông, Lê Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du, Đặng Trần Côn v.v…
-Danh thi hợp tuyển (văn) A. 212
-Lịch đại sách lược (văn) A. 632
Trích: Lược truyện các tác gia Việt Nam tập I, do Trần Văn Giáp chủ biên, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội ấn hành – 1971, trang 334.
Tài liệu 3: DANH THI HỢP TUYỂN, 12 quyển, Trần Công Hiến biên tập.
Sách in ván gỗ, giấy bản thường (23×13), hơn 400 tờ, tờ 2 trang, trang 8 dòng, dòng 21 chữ, khắc in rõ. Nhà Hải Học Đường in quyển đầu vào năm Gia Long thứ 13 (1814).
TVKHXH: VHv. 799/1 ; A. 1416
A.1352 ; VHv. 664/3
A.1455 ; A. 1350
TVQG: R. 1813, R. 2017, R. 1948
Danh thi hợp tuyển hay Hải Học Đường danh thi hợp tuyển là một bộ sách tập hợp thơ của các nhà thơ Việt Nam từ đời Gia Long trở về trước, nhiều nhất là của các nhà thơ thời cuối Lê, do Trần Công Hiến khi làm trấn thủ Hải Dương biên tập và xuất bản quyển đầu tiên vào năm Gia Long thứ 13 (1814). Một điều khó khăn cho ta là bộ sách có tính chất tùng thư ấy gồm 12 quyển, đánh số quyển liên tục, nhưng trong đó có nhiều quyển là phần tập hợp tác phẩm trọn vẹn của một tác giả, mang tên riêng của quyển đó, nhưng không nhắc lại tên chung của cả bộ là Danh thi hợp tuyển, cho nên xem tập nào cũng thấy hình như không đủ. Tất cả các quyển đều có in ở mép sách 3 chữ “Hải Học Đường”, nhưng điều đó cũng cứ làm cho người đọc phân vân về việc đã nói ở trên, bởi lẽ rằng Hải Học Đường chỉ là tên nhà tàng bản thôi. Chẳng hạn: quyển 8, dòng đầu tờ đầu ghi: Lập Trai thi tuyển quyển chi bát, làm nảy ra điều băn khoăn là: có một bộ Lập Trai thi tuyển in gỗ, không rõ bao nhiêu quyển, mà tập ta có đây chỉ có quyển 8 mà thôi? Tình trạng đó cũng xảy ra đối với quyển 9: Tinh Sà kỷ hành, quyển chi cửu (thi tập của Phan Huy Ích) ; quyển 11: Bạch Vân Am thi tập, quyển chi thập nhất (thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm) v.v…
Nay chọn loại sách in của nhà Hải Học Đường, lấy ra những quyển có kiểu đánh số như nói trên, sắp xếp lại mà nghiên cứu, thì thấy có đủ một bộ Danh thi hợp tuyển gồm 12 quyển, đó là điều khiến chúng ta phấn khởi!
Kể đủ 12 quyển như sau:
Bản VHv. 779/1: Quyển 1 (35 tờ), tờ mặt sách đề: Danh thi hợp tuyển. Phía phải đề: Đông khổn công dư thái tập (nguyên chữ khắc in là chữ “khổn”, người sau chữa là “đông các”, nét mực còn rõ, là sai nghĩa, khổn là nơi tướng đóng ở xa triều đình, cả câu nghĩa là: “lượm lặt sau khi làm việc công ở nơi đóng quân ở tỉnh Đông” (tức tỉnh Hải Dương mà Trần Công Hiến là trấn thủ). Phía trái: “Hải Học Đường tàng bản” (ván in chứa ở Hải Học Đường). Phần ngang đầu tên sách: “Gia Long thập tam niên tan6 thuyên” (khắc mới năm Gia Long thứ 13 – 1814). Đầu quyển 1 có đề tên người biên tập và người khảo đính như sau:
“Trung quân chính thống hậu đồn kiêm lý ngũ đồn, Tham quân sự, khâm sai chưởng cơ, hành Hải Dương trấn trấn thủ, Ân Quang hầu biên tập”.
“Đốc học Trung Chính bá, Trợ giáo Thời Binh nam khảo đính”.
(Thời Bình nam, có chỗ ghi là Thời Đức nam).
Ân Quang hầu tức là Trần Công Hiến, điều ấy đã rõ. Nhưng còn hai người khảo đính, Trung Chính bá (đốc học) và Thời Bình Nam (trợ giáo) là ai? Người trợ giáo có quan hệ làm sách với Trần Công Hiến thì ta đã biết, đó là Trần Huy Phác, tác giả Hải Dương phong vật chí (có bài tựa của Trần Công Hiến). Vậy còn đốc học Trung Chính bá là ai? Theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập (quyển 16, tờ 22b) trong thời gian làm trấn thủ Hải Dương, Trần Công Hiến từng có quan hệ làm sách với viên đốc học Nguyễn Thể Trung. Như thế có thể xác định được đốc học Trung Chính bá và đốc học Nguyễn Thể Trung là một người (cách đặt tên tước thường lấy tên thật rồi thêm vào một chữ nữa).
Sau đây trích một đoạn trong bài Tựa của Trần Công Hiến:
(Phiên âm)
…Ngã quốc tổ xưng văn hiến, kỳ thi chi năng thanh, hựu thường kiến trọng vu Bắc quốc giả. Đệ tích nhân chi ngâm vịnh phẩm đề, lược hữu công vu ấn bản, diệc cẩn đắc kỳ nhất nhị, chí nhược đại gia cơ trữ, tao nhân hãn mặc, dữ đông các ứng chế hợp cách, cập chư soạn tập danh tác, phàm quan ư cử nghiệp giả, hà hạn kỷ đa. Cầu kỳ công tương truyền thụ, cái diệc tiển hĩ.
Mỗ gia thế bản Nho, thiếu tòng nhung vụ, quả văn nhi diệc suất tính thị học, thời thường ngôn thi. Mỗi nhân công hạ, chu tuân vu thuộc nội phủ huyện chư viên, cập bản trấn tân cựu hương cống, sở hữu thi thể, di cảo, bất ngận công hành. Nhân nhân diệc hiếu ngã thị ngã. Đắc chi ký đa, hựu văn chi, đa hồ tai, bất đa dã. Tái chất chư đốc học Trung Chính bá, trợ giáo Thời Đức nam, đính hiệu toản tập, phó chư tẩm tử…”
(Dịch nghĩa)
…Nước ta vốn gọi là nước có văn hiến, thơ của nước ta có tiếng hay, lại thường được người Trung Quốc coi trọng. Hiềm vì những thơ để ngâm vịnh của người xưa có đem in cho mọi người xem, cũng chỉ được một hai phần. Đến như thơ văn gương mẫu của các đại gia, văn chương của các thi gia, cùng là các bài ứng chế hợp cách và các tập thơ biên soạn có tiếng, có quan hệ đến nghề thi cử, thật ra rất nhiều. Thế mà, những thơ văn được đem ra truyền lẫn cho nhau, thì thật cũng ít lắm.
Tôi vốn dòng dõi nhà Nho, lúc trẻ đi theo việc binh, ít được nghe thấy, nhưng vốn tính tôi ham học, thường nhiều lúc nói đến thơ. Mỗi khi rãnh việc công, hỏi khắp các quan phủ huyện trong hạt, và các vị hương cống mới hay cũ là người bản trấn, ai còn giữ được di cảo thơ văn thì đừng giữ riêng mà nên đưa công bố chung cho mọi người cùng xem. Ai nấy đều có ý mến tôi, đưa cho xem. Tuy đã lượm lặt được khá nhiều rồi, nhưng mà như lời người xưa đã nói “Nhiều rồi chăng? Chưa nhiều đâu”. Tôi lại đem hỏi quan đốc học là Trung Chính bá và quan trợ giáo là Thời Đức nam, nhờ hai vị ấy hiệu đính sắp xếp lại, đưa cho thợ khắc in…”
Thứ đến Mục lục, kê rõ 12 quyển gồm 1.669 bài luật thi. Tình hình các quyển như sau:
Bản A. 1416: Quyển 1 – 4 (124 tờ), quyển 1 mất cả tờ tên sách và bài tựa. Như vậy bản này chỉ đủ được quyển 2, 3, 4. ( Còn quyển 1 sẽ xem ở bản VHv. 799/1). Tất cả thơ phú trong các quyển từ 1 đến 4 đều không thấy tên người làm, có thể đó là thơ phú làm trong các kỳ thi.
Bản A. 1352: Quyển 5 – 6(67 tờ). Quyển 5 tình hình cũng như các quyển trên, các bài đều không ghi tên tác giả. Ở quyển 6, tờ 4 thấy đề Lịch khoa thi tuyển. Thơ phú trong tập này có ghi tác giả, đại khái mỗi người đều có một bài đường luật, một bài ngũ ngôn, một bài văn sách, bắt đầu từ Dương Bật Trạc, tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), rồi đến Đồng Doãn Giai, tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1756) v.v…
Bản VHv. 664/3: Quyển 6 – quyển 7 (96 tờ): quyển 6 đã nói trên ; quyển 7 tình hình cũng như quyển 6 và các quyển trên. Ở tờ đầu quyển 7 có ghi “Ứng chế Đông các dĩ hạ”.
Bản A. 1455: Quyển 8 – 10:
Quyển 8: Lập Trai thi tuyển, quyển chi bát: Hoa Đường xã Thiếu Tuấn Phạm công Quý Thích soạn tập (toàn quyển này là thơ tuyển của Phạm Quý Thích)
Quyển 9: Tinh Sà kỷ hành tập, quyển chi cửu: Thùy Nham hầu thi tập (toàn bộ quyển này là Tinh sà kỷ hành tập của Phan Huy Ích, tước Thụy Nham hầu).
Quyển 10: Độc sử si tưởng, quyển chi thập (toàn bộ quyển này là tập Độc sử si tưởng của Phạm Nguyễn Du).
Bản A. 1350: Quyển 11 – 12:
Quyển 11: Bạch Vân am thi tập, quyển chi thập nhất.
Quyển 12: Bạch Vân am thi tập, quyển chi thập nhị.
(Cả 2 quyển này là Bạch Vân am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Tiểu truyện Trần Công Hiến ( ? – 1817), người làng Trương Nghĩa, tỉnh Nghĩa Bình. Thuở nhỏ theo Nho học, sau ra giúp họ Nguyễn. Năm 1793, ông vào yết kiến Nguyễn Ánh ở Thị Nại, có quân công, được phong chức tổng nhung cai cơ, sau được bổ giữ chức trấn thủ Hải Dương, được phong chức Ân Quang hầu.
Trần Công Hiến tuy giữ chức quan võ, nhưng tính thích văn học. Trong thời gian làm trấn thủ Hải Dương, ông có chú ý biên soạn và cho khắc in một số sách (lấy tên nhà tàng bản là Hải Học Đường).
Tác phẩm:
-Đại Việt thủy lục trình ký.
-Lịch đại sử toản yếu.
-Cố Lê tứ trường văn tuyển.
-Danh thi hợp tuyển.(biên tập)
-Hải Dương phong vật chí (chủ trương biên soạn và đề tựa)
Trích từ “Tìm Hiểu kho sách Hán Nôm” tập II của Trần Văn Giáp, bản in lần 1, do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội ấn hành năm 1990, trang 51, 52, 53.
Tài liệu 4:TRẤN THỦ HẢI DƯƠNG: TRẦN CÔNG HIẾN
Trần Công Hiến người Quảng Ngãi, lúc nước nhà loạn ly, ông từng theo phò Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi (tức hoàng đế Gia Long – mở ra triều đại nhà Nguyễn) ông được triều đình ban cho nhiều bổng lộc, thăng quan tiến chức ngay cả với họ hàng gia đình ông.
Khi trấn nhậm ở Hải Dương, Trần Công Hiến luôn quan tâm đến đời sống nhân dân, cốt sao cho dân đồng thuận, yên ấm cuộc sống. Ông đã đề ra chủ trương đắp đê ngăn nước mặn qua đó tạo thêm được diện tích đất canh tác lên đến hơn 800 mẫu ruộng. Việc này được dân hưởng ứng. Nhờ đó mà dân có thêm phần lương thực, cuộc sống sung túc thêm. Người Hải Dương đã gọi con đê ngăn nước mặn ấy là đê Trần Công, để ghi nhớ công lao của ông cũng là mang tấm lòng tri ơn của dân đối với ông.
Cũng trong thời gian trấn nhậm Hải Dương, Trần Công Hiến đã tổ chức biên soạn nhiều bộ sách quí của các bậc tiền bối với hoài bão lưu giữ, bảo vệ và truyền bá cho đời sau. Việc làm này đã đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ kho tàng cổ thư của nước nhà.Ngoài ra, Trần Công Hiến còn cất công biên soạn “Hải Dương phong vật ký” có giá trị về lịch sử?
Sinh thời, ông là người học rộng tài cao lại nổi tiếng là vị quan thanh liêm chính trực. Ông luôn quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của dân chúng cùng giải quyết thấu đáo ý nguyện chính đáng của dân. Chính ông đã trực tiếp xét xử nhiều vụ kiện ứ đọng đã lâu qua đó trừ được mối họa cho dân.
Có vụ án mạng xảy ra đã lâu mà chưa tra xét được. Trần Công Hiến dốc sức suy tính với mong muốn tìm ra được kẻ gây án nhằm an lòng dân. Qua đó, ông đã truy bắt được kẻ giết người vì hơn thua cờ bạc mà phạm tội. Vụ này xử xong được dân chúng thêm phần nể phục và kính trọng Trần Công Hiến.
Người học rộng, tài cao làm quan để cho đời thêm ấm no yên bình là phúc cho dân.
Xưa nay lòng dân luôn mong đợi như thế đối với người làm quan.
HOA CÚC VÀNG
Nguồn: BinhDuong Daily, ngày 15-2-2008
Tài liệu 5: Trích “QUẢNG NGÃI THƯƠNG NHỚ”
“…Để thay cho phần kết luận người viết xin được viết về một nhân vật lịch sử vào giai đoạn cuối thế kỷ 18 đã được sinh ra tại lòng của hai ngọn núi linh thiêng: Ấn, Bút. Một con người bất khuất, không xu thời, bằng mọi giá phải thực hiện cho bằng được ý nguyện của mình – danh nhân Trần Công Hiến.
Trần Công Hiến người huyện Chương Nghĩa (Tư Nghĩa ngày nay), thuở nhỏ nhà nghèo, nhưng vẫn cố đeo đuổi việc học hành. Vì cha mất sớm, một mình vừa lo nuôi mẹ rất chí hiếu, vừa lo đèn sách. Vận mệnh một tài hoa không may gặp phải buổi xế chiều, Chúa Nguyễn đang trên đà suy vong. Tuy biết vậy, nhưng ông không chịu về cộng tác với Tây Sơn, quyết giữ trọn tiết tháo của một nhà Nho: “Trung thần bất sự nhị quân”, nên thường qua lại các vùng rừng núi miền Trung chiêu tập nghĩa binh chống lại Tây Sơn. Trước sức truy diệt hùng mạnh của binh đội Nguyễn Nhạc, nghĩa binh của ông phải thất bại rồi tan rã. Mãi đến năm 1793, Trần Công Hiến trốn vào Nam theo giúp Nguyễn Ánh. Năm 1802, sau khi thu phục lại giang sơn, Vua Gia Long giao cho ông làm trấn thủ Hải Dương. Năm 1803, ông lại được thăng lên chức Chưởng Cơ, rồi nhà vua phong làm Ân Quang Hầu. Ông là một đại quan thanh liêm, am hiểu sâu rộng cả hai mặt chính trị cũng như kinh tế, và rất được mọi người dân trong hạt kính trọng. Vốn là người hiếu học, ngoài việc quan, ông còn soạn sách “Đại Việt Thủy Lục Trình Ký” bằng quốc âm, trong đó ông ghi lại tất cả những điều chính mình đã tai nghe mắt thấy. Ông mất năm 1817, năm mà ông vẫn còn đang độ sung sức trên bước quan lộ.”
HỒ QUANG
Nguồn: SaiGonTimes/USA Online
Vài nhận xét và góp ý:
*Về tên làng Trương Nghĩa:Cả 3 tài liệu 1, 2 và 3 đều ghi Trần Công Hiến người làng Trương Nghĩa. Vào thời Gia Long (1802-1819), tại Quảng Ngãi có một làng tên là Trương Nghĩa chăng? Nếu không có một làng có tên TRƯƠNG NGHĨA, thì có thể do tình trạng phát âm không chuẩn của một số vùng ở miền Bắc (CHƯƠNG phát âm thành TRƯƠNG) nên CHƯƠNG NGHĨA đã phát âm thành TRƯƠNG NGHĨA và đã viết sai thành TRƯƠNG NGHĨA
Khi viết về tiểu sử Ân Quang hầu Trần Công Hiến, chắc hẳn ông Đỗ Minh Tâm đã căn cứ vào phần tiểu sử rút gọn trong Lược truyện các tác gia Việt Nam tập I do Trần Văn Giáp chủ biên, do đó đã xảy ra tình trạng 2 tác giả đều viết tên làng TRƯƠNG NGHĨA.
Trong tài liệu 5, tác giả Hồ Quang viết Trần Công Hiến người huyện Chương Nghĩa (tức huyện Tư Nghĩa ngày nay). Chúng tôi nghĩ “huyện Chương Nghĩa” đúng hơn là “làng Trương Nghĩa”, vì vào thời Gia Long huyện Tư Nghĩa ngày nay có tên là huyện Chương Nghĩa.
*Về tác phẩm của Trần Công Hiến:
Trần công Hiến là một nhà văn hóa và đã để lại một số tác phẩm, điều đó đã hẳn. Thế nhưng, như trong phần tiểu sử ở trên đã ghi, ta thấy tác phẩm của Trần Công Hiến đã không được giới thiệu đầy đủ hoặc có chỗ bất nhất.
Như ở trên đã trình bày, chắc hẳn là tác giả Đỗ Minh Tâm đã viết tiểu sử của Ân Quang hầu Trần Công Hiến căn cứ theo tài liệu của Thúc Ngọc Trần Văn Giáp (1902-1973). Và trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (tập 2), Thúc Ngọc Trần Văn Giáp đã đính chính nhưng sai lầm của mình trong Lược truyện các tác gia Việt Nam
Sau đây là những điều đã được Trần Văn Giáp đính chính về các tác phẩm của Ân Quang hầu Trần Công Hiến:
–Về tác phẩm Bạch Vân am thi biên tập: (tài liệu 1 và 2)
Như trong tài liệu 3 khi giới thiệu về tác phẩm Danh thi hợp tuyển, Trần Văn Giáp đã cho ta biết Bạch Vân am thi tập (chứ không phải là Bạch Vân am thi biên tập) là tập thứ 11 và 12 trong bộ Danh thi hợp tuyển chứ không phải là một tác phẩm đứng riêng một mình như Lịch đại sử toản yếu hay Cố Lê tứ trường văn tuyển.
-Về tác phẩm Hải Dương phong vật ký: (trong tài liệu 1, 2 và 4)
Tiểu truyện Trần Công Hiến trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, bản in lần thứ 2 năm 1971 ghi Hải Dương phong vật ký là tác phẩm của Trần Công Hiến, nhưng sau đó, trong tác phẩm Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập II bản in năm 1990, tác giả Trần Văn Giáp đã ghi lời đính chính như sau: “Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, T. 1 (tr.354), chúng tôi có ghi: Đại Việt thủy lục trình ký có diễn ca chữ Nôm, gọi là Hải Dương phong vật khúc. Sự thực thì Hải Dương phong vật khúc là bản diễn Nôm sách Hải Dương phong vật chí do Trần Huy Phác soạn (theo chủ trương của trấn thủ Hải Dương lúc bấy giờ là Trần Công Hiến) Tại đây xin đính chính lại.”
Như vậy, Hải Dương phong vật ký là tác phẩm của Trần Huy Phác, Trần Công Hiến đề tựa và diễn Nôm.
-Về tác phẩm Phong vật khúc (sử, địa): (trong tài liệu 2)
Như phần đính chính ở trên đã ghi, Phong vật khúc có lẽ là Hải Dương phong vật khúc là bản dịch ra thơ Nôm của Hải Dương phong vật chí của Trần Huy Phác và như vậy Phong vật khúc không phải là một tác phẩm riêng biệt.
Sau khi đính chính những sai lầm trong Lược truyện các tác gia Việt Nam (phần viết về tiểu sử Ân Quang hầu Trần Công Hiến, gồm 9 tác phẩm), trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tác phẩm của Trần Công Hiến chỉ còn lại 5 tác phẩm sau khi đã được loại bỏ 2 tác phẩm là Bạch Vân Am thi biên tập (là tập 11 và 12 trong Danh thi hợp tuyển) và Phong vật khúc tức Hải Dương phong vật ký chứ không phải là một tác phẩm riêng biệt. Như vậy vẫn còn vài thắc mắc:
-Về tên tác phẩm: Hải Dương phong vật ký (như trong tài liệu 2) hay Hải Dương phong vật chí (như trong tài liệu 3)?
-Ân Quang Hầu có phải là tác giả của Danh phú hợp tuyển và Lịch đại sách lược (như trong tài liệu 2 đã ghi, vì trong tài liệu 3 cũng của chính Trần Văn Giáp đã không ghi 2 tác phẩm này vào danh sách tác phẩm của Ân Quang hầu Trần Công Hiến) ?
Như vậy, ta chỉ có thể (tạm thời) xác định tác phẩm của Ân Quang hầu Trần Công Hiến, gồm có:
* Về Sử:
-Lịch đại sử toản yếu
* Về Văn:
-Cố Lê tứ trường văn tuyển
-Danh thi hợp tuyển (12 quyển)
-* Về địa lý và phong tục:
-Đại Việt thủy lục trình ký (diễn Nôm)
-Hải Dương phong vật khúc (diễn Nôm và đề tựa tác phẩm “Hải Dương phong vật ký (hay chí)” của Trần Huy Phác).
*Hai tác phẩm tồn nghi:
-Danh phú hợp tuyển.
-Lịch đại sách lược.
Trên đây chỉ là những tài liệu được sưu tầm và một số ý kiến của chúng tôi về các tác phẩm của Ân Quang hầu Trần Công Hiến.
Chúng tôi ước mong trong tương lai, chúng ta có thể biết thêm về sinh quán, hành trạng và sự nghiệp đầy đủ hơn của Ân Quang hầu Trần Công Hiến, một danh nhân văn hóa của Quảng Ngãi mà hầu như đã bị các nhà biên khảo địa phương chí Quảng Ngãi bỏ quên. ♦
TINH HUY(sưu tầm)