TRONG LÂU ĐÀI KỶ NIỆM truyện dài của Dư Thị Diễm Buồn
TRONG LÂU ĐÀI KỶ NIỆM
Chương 1
Ba tôi ôn tồn hỏi:
– Nhạn nè, con muốn câu ở bờ sông Ngã Ba Đình, hay câu ngoài ao?
Tôi trả lời ngay không cần đắn đo:
– Ngoài cầu ao, ba à. Câu ở Ngã Ba Đình có nhiều rau mác dễ vướng câu. Lại có nhiều xuồng ghe qua lại, cá không ăn câu đâu.
Ba tôi nhìn ra xa:
– Con đã sẵn sàng cần câu, mồi, thùng đựng cá chưa?
Tôi trả lời:
– Dạ đủ hết rồi, mồi hơi ít. Chú Ba đào cho được ít trùn thôi. Chú nói vì trời nắng gắt quá, trùn chun sâu xuống đất nên không có nhiều. Nhưng không sao đâu ba, nếu thiếu mồi con sẽ bắt cào cào cho ba câu.
Ba tôi quơ chiếc nón nỉ cũ rách bìa, đội lên đầu, bảo:
– Vậy cha con mình đi thôi.
Tôi cũng lấy chiếc nón lá bung vành, dính đơm dính quẹt đầy mủ cây, quai nhung màu hường, thâm những chấm đen li ti, để che nắng cho mái tóc giữ vóc óng ả:
– Dạ, con nước sắp ròng rồi đó ba.
Tôi chạy ra sau hè lấy hai cần câu dựng sẵn từ sáng sớm. Dây nhợ được quấn gọn gàng theo chiều dài từ ngọn đến thân của cần câu. Còn chừng một tấc đến chỗ tay cầm, nhợ câu được quấn hai vòng, còn lưỡi câu được móc vào đó, cho không vướng vì lưỡi dễ móc vào những vật khác. Lưỡi câu có ngạnh và rất bén nhọn. Ba tôi cầm hai cần câu đi trước, tôi xách thùng thiếc cắt lỡ dùng để đựng cá và cái mủng vùa để đựng mồi, chạy lúp xúp theo sau.
Hai cha con đi trên đường mòn ra ao ngoài bìa vườn. Có nhiều cỏ dại bò lan ra lối mòn. Những bụi chuối xiêm, chuối già, lá xanh mươn mướt rậm rạp. Có cây trổ quày chuối chín bói, chim ăn mấy trái, có cây quày chuối sắp già, có cây đang trổ bắp non. Cây cau hòn đơm bông trắng xóa, hương thơm dìu dịu dưới nắng trưa. Ba tôi chỉ về phía bờ xoài nói:
– Con coi, năm nay được mùa xoài thanh ca, bông vàng che lấn khuất hết cả lá.
Tôi chỉ tay về hướng đìa cá:
– Ba xem kìa, cây điều đỏ trái. Con biết cây điều nầy có trái đít nhọn, chín thâm đen, thịt mềm và ăn ngọt sớt. Ngọt hơn cây điều có trái sọc đít bằng phải không ba? Loại điều sọc giòn nhưng lại chua quá!
Gió trưa đưa phe phẩy, khua lập bập tàu lá chuối tơ non óng mượt. Đám cỏ tranh bên bờ mương, đọt xanh dờn cao nghệu, lá mỏng, rìa bén dễ làm đứt tay. Nước trong vắt thấy tận đáy mương. Những bầy cá bã trầu, cá sặc bướm, cá lòng tong lội nhởn nhơ trong gương nước.
Hai cha con tôi đi ra tới ao có cây da xà che bóng mát. Gần bụi tre gai và mấy cây dừa lão cao nghều nghệu. Cái ao nầy ba tôi nói không ai đào, nhưng nằm sau vườn và ruộng nhà nên mọi người làm ruộng gần đây coi như của cải trong ruộng đất nhà chúng tôi. Thông thường ở thôn quê, những ao như vậy chủ vườn mới có quyền câu cá. Còn những người khác câu mà không hỏi chủ vườn là câu lén, câu trộm. Còn ao nầy, ai muốn câu thì đến câu, ba má tôi không rầy la gì cả. Có lần má tôi kể ao nầy ở giáp ranh vườn và ruộng lúa, nhưng cây da xà ngày càng lớn che hết nắng, lúa èo uột không tốt, nên khi cấy lúa đến gần, người chủ ruộng tự động bỏ chỗ có bóng mát một khoảng xa. Hàng năm cứ thế, nên loại đưng, loại lác mọc lên, cá trên ruộng xuống đó ẩn náu. Nhà nông ở mấy đám ruộng gần đây đến bóng mát cây da xà nghỉ ăn trưa. Về sau họ xúm lại bắt cây cầu nhũi để rửa tay rửa chén. Rễ cây da xà thòng sâu xuống nước là nơi ẩn trốn an toàn cho bọn tôm, cá, ếch, lươn… Càng ngày cá tôm càng sanh sôi nẩy nở nên ao càng ngày càng nhiều loại thủy tộc. Nhưng cá ở đây rất ít ăn câu, có lẽ nhà nông ăn uống xong rửa chén bát nên chúng có thừa mồi để ăn.
Ra đến ao, ba tôi ngồi ở gốc cây dừa ta, còn tôi thì leo lên ngồi trên một nhánh lớn của cây da xà gie ra giữa mương và gần sát mặt nước. Tôi muốn vọc nước, chỉ cần thòng chân xuống sẽ đụng nước ngay. Cây da xà chiếm bóng mát rộng lớn. Mặc dù nắng trưa gay gắt, nhưng nơi đây mát rượi. Tiếng va chạm và khua rào rào của bụi tre gai gần bên, mỗi khi cơn gió thổi qua. Chim líu lo trên cành cây tìm mồi. Tiếng gà gáy trưa, tiếng chó sủa văng vẳng từ xóm xa.
Mắt ba tôi mơ màng, miệng hát nho nhỏ vừa đủ ngh “Ai có về bên Bến Sông Tương, nhắn người bên ấy tôi thương, bao ngày ôm mối tơ vương…’’ Rồi bộ quên hay sao ba tôi lại bắt qua bài khác “… Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối, rừng chiều man mác ánh trăng mờ chiếu…” Giọng hát của ba tôi ngọt ngào cao vút. Đó là hai bản ruột lúc vui hay buồn ba tôi thường hay ngâm nga. Nghe riết đến nỗi tôi cũng thuộc luôn. Xúc cảnh sanh tình, tôi cũng mấp máy hát theo ba với giọng rè rè như máy hát dĩa ở nhà khi kim bị lụt.
Ba tôi mặc quần cụt lỡ, nghĩa là quần không dài không ngắn lưng chừng đến đầu gối. Màu vỏ măng cụt đã phai và dính lốm đốm mủ cây. Áo lá trắng ngà ngà không phải màu nguyên thủy mà là vì áo đã cũ. Áo nầy do chính tay má tôi may, áo rộng không dài, không ngắn, tay cụt tới giữa cùi chỏ và bả vai, cổ viền tròn, chẻ ở giữa trước ngực dài xuống hơn một tấc, có cài ba cái nút ốc. Ba tôi người dong dỏng cao, tóc đã lấm tấm bạc. Nhìn cách ăn mặc, ba tôi bây giờ giống như người nông dân bình thường. Ba tôi về hưu sớm, từ mấy năm trước, đưa gia đình về quê ngoại tôi. Nhà ở thành thì để cho chị em tôi học xong trung học rồi mới bán hay sang nhượng cho người khác. Ba má tôi về trồng trọt trên hai mẫu vườn của ông bà ngoại chia cho sống an nhàn hạnh phúc đến tuổi già. Ngày trước, ba tôi là thầy giáo, má tôi là con gái lớn của ông Cả Bảy trong làng. Ông ngoại tôi không phải tên Bảy, không biết phải sợ phạm húy hay điều chi mà người quen biết ông đều gọi ông là ông Cả Bảy.
Bên phía ba tôi, chúng tôi có bà nội và bác, chú. Chúng tôi chưa bao giờ nghe ai kể về dòng họ bên bà nội hoặc bên ông nội tôi. Lúc còn sinh thời, bà nội tôi thường hay kể cuộc đời bôn ba của ông nội tôi. Bà kể như kể chuyện đời xưa cho các cháu nghe. Và thật sự chúng tôi rất thích nghe bà kể chuyện về ông nội lắm. Bà kể với ánh mắt mơ màng thương cảm về người chồng quá cố của bà. Ông đã vĩnh viễn ra đi lúc bà chưa tròn ba mươi tuổi. Thế mà bà ở vậy không tái giá, nuôi năm con trai mà chòm xóm thường gọi là Ngũ Hổ Bình Tây nên người cho đến khi bà qua đời. Sự hy sinh của bà làm cho bác, chú và ba tôi yêu kính bà nhiều hơn. Nội tôi thường kể cho đàn cháu nghe:
– Ông nội các cháu là người Tàu chánh cống. Thời còn trai trẻ, ổng theo nhà cách mạng Hồng Tú Toàn chống nhà Mãn Thanh. Sau đó đảng cách mạng của Hồng Tú Toàn bị tan vỡ. Người trong đảng chạy tản lạc khắp Năm Châu. Ông nội cháu qua Singapore lánh nạn, sau đó qua Việt Nam, và cưới bà. Âu cũng là duyên số, nên giờ bà mới có các cháu ngoan ngồi nghe bà kể chuyện đây.
Chúng tôi lúc nào cũng hài lòng về câu kết luận của bà là ‘’các cháu ngoan’’. Ba tôi có một người anh, ba người em trai. Tôi nghĩ bà nội tôi vất vả lắm mới nuôi nổi năm người con. Nội cái lo ăn không cũng mệt, đừng nói chi đến dạy dỗ nên người. Bác Hai tôi lấy vợ hồi năm mười tám tuổi. Bác gái vốn là con của ông Bang người Tàu có vợ Việt, là bạn của ông nội tôi. Bác theo quê vợ ở Vĩnh Long. Về sau, bác được gia đình bên vợ giúp đỡ về lập nghiệp ở Chợ Lớn.
Ba tôi thì được ông nội cho qua ở nhà một người bạn tận bên Pháp đi học. Bà nội nói người bạn nầy chắc là đồng chí của ông nội tôi. Không biết ông nội tôi lúc đó có nghĩ đến việc đào tạo ba tôi trở thành một chiến sĩ, tiếp nối những gì ông làm còn dang dở không? Ba tôi đến Pháp chưa được ba năm thì ông nội tôi lâm trọng bịnh qua đời, nên ba phải tức tốc trở về nước và ở nhà luôn với bà nội tôi, không đi đâu nữa. Công việc nhà xáo trộn sau ngày ông nội tôi qua đời. Ba tôi phụ giúp bà nội sắp xếp mọi việc. Học hành dang dở, lưng chừng, đến khi gia đình tạm ổn định, ba tôi xin đi dạy học để phụ mẹ lo cho chú Tuấn, chú Mạnh và chú Út Trầm của chúng tôi. Bà nội tôi vốn người ăn chắc mặc dầy, vén khéo, an phận, nên tiền dạy học của ba, với tiền lời buôn bán tiệm chạp phô nho nhỏ của bà nội, cũng đủ nuôi năm mẹ con sống thoải mái qua ngày.
Ba tôi có hai dòng máu Tàu Việt, ông nội tôi lại là người Trung Hoa gốc Mông Cổ, nên anh em của ba, bác và các chú tôi cao lớn khôi vĩ. Có lẽ nhờ tướng tá, mặt mày sáng sủa thanh tú, nên cả năm anh em đều đắc mèo. Ba tôi lại biết nhiều thứ: Ông đờn man-đô-lin giỏi, đánh bóng bàn hay, đá banh, đá cầu, chạy đua, chạy xe đạp đua. Những lần thi tài, ông không đứng nhứt thì cũng đứng nhì. Nhứt là có ‘’nhãn hiệu’’ thầy giáo, cộng thêm tánh tình phóng khoáng lãng mạn, nên ông được các cô ở lứa tuổi ông chiếu cố tận tình. Tôi muốn nói ‘’ba tôi là người mỗi bến mỗi tình’’. Lúc ông chưa thành hôn với má tôi và sau khi có con cũng vậy.
Hình ảnh và cách ăn mặc của ba tôi, tôi không bao giờ quên được. Lúc đi dạy học ông thường mặc áo sơ mi trắng bỏ trong quần màu hột gà, mang giầy Bata màu đen hoặc màu cà-phê sữa đậm. Trong túi quần luôn có cái đồng hồ trái quít, với sợi dây xích trắng bạc có khoen gài từ dây của thắt lưng, đầu ông đội nón nỉ màu đen hoặc màu nâu sậm. Tay ông xách cặp da dầy cộm, sách vở để dạy hay bài kiểm của học trò. Lúc ở nhà hay ra ngoài ông thường mặc bộ đồ lụa Hà Đông màu ngà. Tất cả mọi thứ quần áo, đồ dùng hằng ngày khi đi ra ngoài hoặc ở trong nhà của ba tôi đều do tự tay má tôi lo lường sắp xếp. Cho đến thức ăn nào ba tôi thích, trà hiệu nào ba ưa, cà-phê nào ngon ba thường uống, thuốc hút nào không có phèn để ba hút khỏi bị ho… đều do bà tự tay mua sắm hoặc làm lấy cả.
Ba tôi nghỉ dạy học về hưu sớm. Ông ngoại tôi chia cho năm công vườn năm công ruộng, mười công vườn kia thì sang lại giá nửa bán nửa cho của dì cậu tôi. Hai mẫu đất gần nhau cách con rạch nhỏ, nằm dọc theo bờ sông Mỹ Đông, thuộc làng Mỹ Đức Đông, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Đó là phần vườn đất của ngoại chia cho các con, mà má tôi được hưởng phần của bà. Má tôi thỏ thẻ với ông bà ngoại trước khi nhận đất và đưa gia đình về sống gần ông bà:
– Thưa cậu má, cậu má cũng biết tụi con không biết làm ruộng, lại có một bầy con gái, sợ không quán xuyến nỗi phần ruộng. Xin cậu má cho vợ chồng con luôn mười công vườn, như vậy rất tiện cho tụi con hơn.
Ông ngoại ngại các cậu dì tôi phân bì nên nói:
– Để đợi đến đám giỗ bà cố con, tụi nó về đủ mặt, cậu đem chuyện nầy hỏi chúng nó coi sao, có đứa nào lấy ruộng đổi vườn với con không?
Bà ngoại binh ý má tôi, nên nói với ông:
– Ông là chủ gia đình, được hay không là quyền của ông, hỏi chúng nó làm gì? Tui thấy con Hai của mình xin vậy cũng đúng, vì chồng nó ngoài dạy học ra, có biết ruộng rẫy chi đâu. Mọi việc rồi cũng do con gái mình lo hết. Ông có muốn nó vất vả đâu, thôi thì hãy bằng lòng cho nó xin đổi vườn đi.
Ông ngoại tôi uống ngụm trà rồi tằng hắng nói:
– Con đứa nào mình cũng thương yêu, thấy đứa nào thiếu thốn mình cho nhiều hơn đứa khá giả, dù tôi có thuận ý nó đi nữa, nhưng cũng phải nói qua với mấy đứa em nó. Để về sau đứa con khác không trách mình ‘’nhứt bên trọng, nhứt bên khinh’’. Vậy bây giờ bà hiểu ý tôi rồi chớ?
Bà ngoại tôi chép miệng nói xuôi, và xoay qua má tôi:
– Thôi vậy cũng được. Con à, con hãy yên tâm, các em con thương vợ chồng con và các cháu. Thế nào cũng có đứa nhường vườn cho vợ chồng con.
Trong mỗi năm, nhà ngoại tôi, ngoài Tết ra, có đám giỗ bà cố là lớn nhứt. Ngoại tôi có tám người con. Chúng tôi có hai cậu và năm người dì. Năm nào cũng vậy, dù mấy dì cậu có bận ở xa xôi cho mấy cũng phải trở về đám giỗ nầy. Kể cả má tôi, dù phải theo chồng ở xa cũng vậy. Có năm, ba má tôi và mấy chị em tôi đều về. Có năm chỉ có ba má tôi về thôi. Ba tôi ưa lẹo tẹo với bà nầy bà kia, không ngại chi má tôi cả. Nhưng ba rất kính nể ông bà ngoại, mặc dù chưa bao giờ ông bà rầy la hay đá động về chuyện phong lưu bên ngoài của ba tôi.
Mấy cậu dì tôi đều có gia đình riêng. Ở xa lắm là cách nhà ngoại tôi vài con sông, hoặc đôi làng thôi. Chỉ có gia đình chúng tôi vì ba tôi đi dạy học nên mới ở xa. Nay ba tôi có ý định hưu trí sớm và đem gia đình về sinh sống gần ngoại nên ông bà và cậu dì ai nấy rất vui mừng. Mặc dù ông bà ngoại tôi rất đông con, nhưng đại gia đình nầy đầm ấm, thuận hòa, trên nói dưới nghe, nhường nhịn, thương mến giúp đỡ lẫn nhau từ việc lớn đến việc nhỏ.
Nhớ năm dì Út tôi cất nhà, ngoài ông bà ngoại ra, còn có mặt tất cả các dì dượng cậu mợ đến phụ giúp. Đàn ông thì phụ thợ dựng cột, xây tường, trộn hồ, khiêng gạch… Đàn bà thì nấu nướng cho mọi người ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều. Trà nước tấp nập, bánh trái đầy mâm. Mợ Ba thì đội qua thúng bánh tét, mợ Tám bưng rổ bánh ích. Mấy dì người đem cá tát đìa, rau cải, mấy con gà, đôi con vịt để nằm cạnh gốc chuối kêu la oang oác. Má tôi thì mua trà Quan Âm Kỳ Chưởng, mấy ký bánh ngọt, cốm chuồi, kẹo đậu phọng. Mọi người làm việc hăng say, vui vẻ nói cười vang cả xóm. Chú thợ mộc cảm hứng ngồi trên sườn nhà vừa đóng chẹt chẹt vừa ca mấy câu Vọng Cổ mùi rục. Ngày cất nhà mà như vậy, không thua gì đám tiệc nhỏ của gia đình đông người.
Gia đình tôi ở thành, chúng tôi lại đi học, nên ít khi về ngoại. Chỉ vào dịp hè, Tết hay có giỗ quải, đám tiệc mới về. Vì lâu lâu mới về nên tụi tôi được gia đình bên ngoại thương yêu chiều chuộng lắm. Mỗi ngày, tụi tôi được đãi nhiều món ăn ngon, khác nhau. Ngoại để dành trái cây cho chúng tôi hái để chúng tôi mừng vì trái còn tươi tốt ăn mới ngọt. Mỗi lần chúng tôi về thì ông ngoại hoặc bà ngoại đi với người làm vườn chèo ghe vào rước ở Quốc lộ Bốn. Má tôi cho mấy đứa con gái của bà mặc áo quần, giầy dép, nón, cùng kiểu, cùng màu. Ở miền quê yên lặng, có gió mát, có cây lá xanh tươi đầy sức sống. Xuồng bơi trên sông có những cô gái xinh xinh màu sắc trông đẹp và lạ mắt.
Niềm hạnh phúc của ông bà ngoại tôi là sự thành tựu của các con, các cháu. Đứa nào nghèo thì hai ông bà giúp nhiều hơn đứa làm ăn khá. Ông bà tôi rất hãnh diện với xóm làng là con cháu đề huề, từ má tôi đến dì Út được gả cưới đàng hoàng, không ai vặn nài bẻ ống.
Đám giỗ bà cố tôi, từ hai giờ sáng, đèn đuốc trong nhà sáng trưng, kẻ làm gà, người làm vịt. Khi mặt trời lên thì đầy đủ các món chiên xào kho luộc. Tất cả các món được múc vào tô dĩa gọn gàng, tươm tất. Mâm để cúng đất nước ông bà được dọn ở bộ ván gõ đỏ đặt giữa nhà trên. Mâm cúng bàn thờ bà cố, và những bàn thờ khác. Trái cây, bánh ngọt, hoa tươi ở bàn thờ Phật, bàn thờ Thổ Thần cạnh liếp trầu vàng gần bên vàm rạch. Có lần tôi hỏi ông ngoại chỉ cần cúng bàn thờ bà cố thôi sao bàn thờ nào cũng cúng hết vậy? Ông trả lời là:
– Có Trời Phật, có ông bà lớn hơn thì mình cũng phải tạ ơn, đáp lễ, rồi mới cúng ông bà mình cho phải phận làm con cháu chớ.
Khi cúng xong, thức ăn được dọn xuống ba bộ ván gõ kê dài ở nhà dưới. Ông bà ngoại tôi ngồi trên đầu mâm, kế đến họ hàng thân thuộc, rồi đến gia đình cậu mợ, dì dượng và các con, các cháu… Trên mâm, tôi thấy có vịt tiềm với kim châm, bạch quả, hột sen, táo tàu, ăn với bún. Chả làm bằng tôm quết trộn với lòng vịt, lòng gà bằm nhỏ trộn hột vịt, nấm mèo, bún tàu rồi đem hấp chín. Gà trống nấu ca-ri với khoai lang dương ngọc, sả cắt dài, hành củ và nước cốt dừa. Tôm xào đậu, nem bì gói lá vông non cuốn bánh tráng với rau thơm, giá sống, cắt ra từng khoanh sắp đầy từng dĩa. Dưa tỏi, dưa gừng, dưa kiệu, tất cả đều trắng phau phau nằm phơi phới trên những dĩa trẹt. Cá bống tượng chiên chan nước sốt chua ngọt. Thịt bò xào giấm sắp trên mặt dĩa lớn đệm rau cần cua bóp xổi… Món hấp dẫn cho tôi nhứt là dĩa tôm càng nướng còn hâm hấp nóng nằm cạnh dĩa xà-lách tươi non, giá sống mập dài trắng nuột, rau thơm tươi trong non nhuốt.
Tiếng nói cười vui vẻ của những người trong nhà, bà con thân thích ruột rà. Mùi nhang khói, mùi đồ ăn thơm phưng phức tỏa bay cả xóm nhà dưới gió. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao có câu hát truyền miệng của dân quê: ‘’Hôm nay có đám giỗ gần, trong bụng bần thần không muốn nấu cơm’’.
Trong bữa ăn, con cháu nói chuyện ồn ào vui vẻ. Bỗng giọng nói sang sảng của ông ngoại làm mọi người yên lặng lắng nghe:
– Mấy đứa nghe đây, hôm nay cậu rất vui mừng cho các con biết rõ ràng hơn, mặc dù cậu biết anh chị em bây, và má con bây thì thầm với nhau rồi. Vợ chồng chị Hai bây và các cháu sẽ về lập nghiệp ở đây luôn. Anh chị Hai bây có các cháu toàn là con gái, nên cậu má định chia cho nó năm công ruộng, và năm công đất vườn ngoài bờ sông gần vàm Ông Lữ. Đứa nào có ý kiến gì không? Ruộng đất nầy phần lớn là do ông bà để lại, và một số do cậu má sang nhượng của người ta. Các con, dù trai hay gái cũng được chia đều như nhau. Để rồi cậu sẽ tổ chức một bữa tiệc lớn mời họ hàng đến dự chứng kiến buổi chia ruộng đất cho các con.
Mọi người yên lặng, tôi nghĩ lúc đó nếu có con ruồi bay ngang ai ai cũng nghe được. Bà ngoại tôi lên tiếng trước:
– Các con cũng biết, anh chị Hai tụi bây rất dở trong việc ruộng nương, nên phải nhờ tụi bây giúp đỡ, và chỉ vẽ cho lúc ban đầu. Vườn thì không nói làm gì, cũng dễ một chút, còn ruộng thì tụi nó như người đui mù đi đêm, không biết gì ráo. Các con có đứa nào muốn đổi vườn lấy năm công ruộng của chị Hai bây không?
Mọi người im thin thít. Bà ngoại tôi uống ngụm nước trà rồi nói tiếp:
– Lúc nầy mà chị em không giúp nhau thì chừng nào mới giúp? Nếu muốn bù thêm tiền thì anh chị Hai bây bù cho. Má nghĩ lại cũng phải, anh chị Hai bây làm vườn thì tiện hơn là ruộng.
Bà ngoại dứt lời, mấy cậu dì nhìn nhau mà không nói. Nhưng trong mắt họ, tôi nhận thấy đầy vẻ thân thương thâm tình. Dòng họ ngoại đều quý mến ba má tôi và yêu thương chúng tôi. Riêng ông bà ngoại thì bù đắp cho ba má tôi nhiều nhứt. Ông bà ngoại thường nói ba tôi lương hướng không bao nhiêu, thời buổi khó khăn, đắt đỏ. Dì Bảy tôi lên tiếng trước:
– Vợ chồng con không lấy ruộng đất nào của ba má cho hết, vì bên nội sắp nhỏ cho nhiều quá rồi, canh tác không xuể. Tụi con bận rộn quanh năm suốt tháng. Nên phần của con ba má làm gì làm, hay cho anh chị Hai hết đi.
Dượng Chín tôi cũng lên tiếng:
– Thưa cậu má, vợ chồng con vườn tược và ruộng của ba má con cho làm không hết, nên tụi con cũng không nhận.
Dì Bảy tôi là dâu ông Cai Tổng, có ruộng nhiều lắm. Còn vườn cây ăn trái dọc theo bờ sông đối diện với cù lao rộng thênh thang, dài trông mỏi mắt cũng chưa biết ranh ở nơi nào. Dượng Bảy là con trai độc nhứt, nên dì dượng không lấy thêm vườn ruộng của ông bà ngoại tôi chia cho là phải. Má tôi nói năm dì lên mười lăm tuổi thì gia đình dượng xin được coi mắt, và cậy người mai mối đến hỏi cưới. Ông bà ngoại tôi không bằng lòng, bởi dì còn nhỏ quá. Nhà trai sợ có người phổng tay trên, nên đeo theo mãi. Đến cuối năm mười sáu tuổi, dì tôi mới được gả về bên ấy. Dì tôi được gia đình bên chồng thương yêu như con gái ruột. Ông bà già chồng mướn thợ về dạy cho dì làm bánh mứt, và nấu những món ăn đặc biệt. Bốn năm đầu dì sanh được ba quý tử, nối dòng nối dõi nên dòng họ bên chồng càng quý dì hơn. Năm nay dì ngoài bốn mươi tuổi, tuy đã có sáu đứa con rồi mà mặt mày dì sáng sủa, da dẻ hồng hào tươi mát. Vóc dáng dì thanh cảnh, thảnh thơi, khoẻ mạnh của người đàn bà quê khá giả hạnh phúc.
Dì Út tôi là dâu ông cả Tám, ở bên kia sông. Nhà ngoại và nhà dì cách nhau bởi dòng sông Mỹ Đông. Đứng bên nầy sông gọi lớn, bên kia sông vẫn nghe được. Dì dượng tôi có mấy mẫu vườn xoài cát, mỗi năm bán sát cho lái buôn. Nếu không bán sát thì phải mướn người hái, cần phải có mấy ghe chài mới chở hết. Ruộng bề bề nên phải mướn hai người giúp ở luôn trong nhà, nhưng họ cũng không làm hết việc. Dì dượng phải nhường bớt đất vườn cho người khác, hoặc để tá điền làm rồi cuối mùa chia lúa với họ. Có nhiều người hỏi mướn những khu đất dì dượng không canh tác nổi. Nhưng dì dượng không bằng lòng, vì cho mướn rồi sau nầy muốn lấy lại rất khó khăn. Trong bầu không khí yên lặng, mợ Ba tôi lên tiếng:
– Thưa cậu mợ và ba thằng Nhân (Nhân là tên con trai lớn của cậu mợ Ba) thấysao? Hay mình lấy năm công ruộng đổi lấy năm công ruộng của chị Hai? Miếng ruộng ở sát ranh vườn của chỉ, như vậy thì tiện nhứt, anh chị không phải đi xa vì hai miếng vườn ở hai nơi không tiện việc chăm sóc.
Mọi người lấy làm lạ, vì má tôi muốn lấy ruộng đổi vườn, còn ruộng đổi ruộng thì đổi làm gì? Dì Tư tôi cười lên tiếng:
– Chị Ba à, anh chị Hai muốn lấy ruộng đổi vườn mà.
Mấy dì dượng, cậu mợ cũng nhao nhao lên cùng một ý nghĩ như dì Tư. Nhưng mọi người yên lặng nghe cậu Ba tôi tằng hắng chẫm rãi nói:
– Thưa cậu má, vợ con nói cũng phải. Nếu anh chị Hai đổi vườn thì mình sẽ nhường ngay. Nhưng ngặt nỗi miếng vườn cậu má định chia cho vợ chồng con đều xa miếng vườn cậu má chia cho chị Hai thì công việc chăm sóc cho hai miếng vườn hai nơi rất bất tiện. Chi bằng đổi miếng ruộng ở sát vườn chị. Rồi anh chị mướn thêm người cùng anh chị em con bỏ ra mỗi người mấy ngày để biến ruộng thành vườn, như vậy rất tiện. Vả lại miếng ruộng nầy ở hơi cao, nước không lên tới như những miếng ruộng bình thường khác. Thu hoạch hàng năm lúa thóc không được là bao nhiêu. Bởi vậy tụi con cũng có ý định sau nầy thưa với cậu má xin lên liếp làm vườn. Cậu má và anh chị Hai nghĩ sao?
Mọi người thở phào và ồ lên một tiếng nhẹ nhõm. Mặt mày ai nấy vui vẻ. Cậu Tám tươi cười nói:
– Chị Ba không hổ danh là nội tướng số một của gia đình nầy.
Dì Năm cũng khen mợ Ba:
– Chị Ba hay thiệt, thường thì bả ít góp chuyện tào lao với em út, mà khi có việc thì bả tính toán hay như thần.
Dì Sáu cũng chen vào:
– Nếu không như vậy thì chỉ làm sao quán xuyến trong ngoài cái gia đình to lớn nầy. Lại có đám em chồng đông như bầy cá ròng ròng nữa.
Ông bà ngoại tôi rất hài lòng về ý kiến của cậu mợ Ba. Ông bà tôi luôn hãnh diện với xóm giềng là không cưới lầm người cho cậu Ba. Chọn con dâu trưởng quán xuyến trong ngoài, bận rộn sống về nghề ruộng vườn nầy là điều may hiếm có. Mặc dù không ra đồng cuốc đất trồng khoai, hay lên bờ vét ruộng, nhưng trong nhà, mợ là con dâu trưởng, thay bà ngoại chăm lo hết mọi việc lớn nhỏ. Mợ còn phải phụ cậu dòm ngó, giúp đỡ cho một số tá điền cấy trồng số ruộng vườn mênh mông. Có lần vui miệng bà ngoại kể cho tôi nghe:
– Mợ Ba cháu là con của một nhà nông, ở miệt Long Xuyên. Đó là vùng nổi tiếng dân cư hiền lành an lạc. Mợ cháu thuộc gia đình theo đạo Hòa Hảo, từ ba má đến các em của mợ cháu, tất cả đều hiền lành nhơn hậu. Tía của mợ Ba cháu còn theo Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đi đó đây truyền đạo. Sau đó, ổng bị Việt Minh bắt và thủ tiêu luôn với Đức Thầy. Mợ Ba cháu là một người đàn bà đức hạnh, biết kính mến cha mẹ chồng, thương quý chị em bên chồng. Cái gì, việc gì trong gia đình, mợ cháu đều nghĩ là của ông bà và của tất cả anh chị em trong gia đình. Mợ cháu không bao giờ có ý chiếm hữu cho riêng mình. Các cháu thấy đó, có chuyện gì các cháu muốn, mợ ba rầy la hoặc không cho đâu? Cháu ở đây từ nhỏ, mặc dù có chị vú cận kề, nhưng cháu là đứa mà mợ Ba cháu cực khổ từ năm chưa được hai tuổi, sau ngày bà vú nghỉ việc dời đi nơi khác. Cho đến khi cháu gần mười tuổi thì ngoại mới trả về với ba má cháu. Như vậy cháu phải thương mợ Ba nhiều nghe không?
Tôi chu miệng:
– Cháu thương ông bà nhiều nhứt, rồi mới đến cậu mợ Ba và các dì dượng cậu mợ khác.
Bà ngoại nhìn tôi âu yếm:
– Không biết bao giờ bà uống trà gả cháu? Chị Hai cháu mới mười bảy, mười tám thì ba má cháu gả chồng rồi. Cháu kén ăn quá nên lúc nào cũng ốm nhom như cây mía lau và dẹp như con khô mực.
Tôi ôm bà cười:
– Bà ơi, cháu không lấy chồng đâu. Hai chị cháu có chồng vì hai chị đẹp, còn cháu xấu xí quá đi, ai mà thèm. Vả lại, cháu đi học, cháu muốn sau nầy làm nghề giáo như ba cháu.
Bà âu yếm nhìn tôi:
– Cháu bà lành gái lắm! Nhưng bậy nà, ba cháu là đờn ông đi dạy ở xa nhà, còn cháu là gái không thể xa nhà được. Phải lấy chồng, phải sanh con như mọi người đờn bà khác…
– Tại sao đờn bà con gái không đi làm xa nhà được? Xin bà cho cháu đi nghe, sau nầy bà bảo gì cháu cũng nghe, lời, có chồng cũng theo ý bà luôn.
Tôi sanh ra trong gia đình năm cô con gái không có một mống con trai. Không biết ở thời son trẻ ba tôi có người yêu, hay có bà vợ bé nào mà ông yêu tha thiết tên Tuyết không? Sao mà năm chị em chúng tôi đứa nào cũng có chữ lót tên Tuyết hết: Chị Hai tôi là Tuyết Hồng, chị Ba Tuyết Loan, tôi Tuyết Nhạn, em kế Tuyết Oanh, em út Tuyết Nga. Bọn tôi xấp xỉ tuổi nhau, đứa nầy cách đứa kia hai hoặc ba tuổi thôi. Ông bà ngoại tôi rất hài lòng và hãnh diện có mấy cô cháu gái duyên dáng dễ thương.
Chị Tuyết Hồng cao ráo, nước da trắng, tóc mây để dài đen mượt. Mặt mày chị thanh tú và sáng sủa, mũi cao, mắt to. Nụ cười chị thật có duyên. Nhưng mắt chị buồn vời vợi. Chị hay mặc quần sa-teng đen, áo bà ba ba-tít màu hồng phấn. Có nhiều người lớn tuổi thấy chị đi chợ làng với má tôi, họ thường trầm trồ làm má tôi hãnh diện:
– Chà, cháu ngoại ông cả Đê đẹp quá!
Hoặc:
– Chà, tuy là con gái ở quê, mà sao con nhỏ nầy xinh quá là xinh!
Ngoài nết na nhu mì, chị Hai tôi còn giỏi về bếp núc, bánh trái. Ngoại và má tôi tạo cho chị sau nầy trở thành người vợ tốt và đảm đang. Dòng họ bên ngoại và bên nội tôi đều thương mến chị. Năm chị học lớp đệ ngũ thì ba tôi hưu trí, nên chị nghỉ học. Chị không bằng lòng, nhưng má tôi khuyên:
– Con gái học bao nhiêu đó cũng đủ rồi. Con đã lớn, ở lại thị thành một mình thì làm sao ba má yên tâm? Con muốn học may, má mướn thợ về nhà dạy cho con và con Tuyết Loan, để sau nầy may vá áo quần cho chồng con mặc.
Vậy là chị Hai ngoan ngoãn vâng lời má. Cho đến năm chị mười bảy tuổi, ông cả Chánh ở Phong Điền (Cần Thơ) trong dịp về đám tang họ hàng, ghé qua thăm ngoại. Bất ngờ, ông gặp chị Hai Tuyết Hồng của tôi. Sau đó ông nhờ mai mối cưới chị cho thằng cháu ngoại của ông.
Đám cưới chị Hai thật linh đình. Nhà ba má tôi rộng mà còn dựng thêm rạp đãi khách ở sân trước. Các cột được bó bằng bẹ chuối và tàu dừa rọc lá, kết thêm bông hoa tươi thắm. Hai cửa lớn vào ra và cửa sổ giả không có cánh cửa. Những khung cửa nầy được uốn vòng cung, màn kết bằng trái đủng đỉnh tròn và xanh như ngọc thạch. Bốn vách được mấy người tá điền của ông ngoại trang trí. Họ dùng trái cây, bông, rau cải làm thành hình tứ linh: long, lân, qui, phụng rất công phu, rất tinh xảo như tranh vẽ của Tàu. Từ đầu ngõ tấm bảng đề chữ “VU QUY” lớn kết bằng bông nở ngài màu hồng tím rực dựng trên cao.
Sân sau nhà thì dựng trại nấu ăn dài sát mé rạch, trùm luôn sàn lãn phòng hờ trời đổ mưa bất ngờ. Ba má tôi cho làm bò, làm heo và đãi ăn từ ba bốn ngày trước.
Những món ăn đãi khách được bà ngoại và má tôi đứng chỉ huy nấu nướng. Bà ngoại tôi nấu ăn ngon nổi tiếng trong làng và ở khắp những làng lân cận. Khi nhà của họ hàng, của kẻ thân quen, hoặc đình đám, hội hè lớn thì người ta thường đến rước ngoại tôi đi nấu ăn. Nhiều món ăn quá, những món như dưa kiệu, dưa gừng, dưa tỏi thì được làm từ cả tháng trước. Mứt bí khắc hình cá hóa long, hình cá chép trong ngần, mắt, vẩy, vi lồ lộ nét rõ ràng. Mứt gừng nguyên ánh lớn hơn bàn tay, xên bằng đường màu ngà, ở xa nhìn như ánh gừng nguyên vẹn mới đào dưới đất lên, được làm từ mấy tuần rồi, giờ mỗi ngày chỉ đem ra phơi nắng mà thôi.
Còn bánh men, bánh gai, bánh bông lan giòn, bánh in lá dứa… cùng các loại bánh ngọt khác để uống trà thì dì mợ tôi mỗi người chia ra làm trước ngày đãi tiệc.
Đường, muối, củ tỏi, tiêu sọ, tàu hủ ky, nấm mèo, bún tàu, củ hành tây to bằng nắm tay, củ hành hương màu đỏ tía để chung trong mấy thúng với bạch quả, hột sen, táo đỏ, kim châm, để thêm hương vị cho mấy món ăn cầu kỳ rắc rối khác như món vịt tiềm đặc biệt nên má tôi mua dự trữ lâu rồi.
Món thịt bò nướng ống tre, để trên cải xà-lách son trộn giấm pha chua ngọt. Vịt tỳ bà nướng lửa than cây trâm bầu. Cá bống tượng chưng. Nấm nếp xào lòng gà vịt và tôm. Cá chẻm chiên giòn chua ngọt thêm cần tàu, cà, gừng, củ hành tây cắt to. Tôm càng nướng xé tơi, thịt ba rọi chỉ xắt mỏng trộn gỏi sứa. Cà-ri gà trống thiến nấu với khoai lang dương ngọc. Nem cổ lầu. Bì cốt, là bì thường, rồi quết thêm thịt nuộc lưng heo cho nhuyễn đem trộn chung, gói lại bằng lá vông nem non bên trong, bên ngoài gói bằng nhiều lớp lá chuối, phải để cách đêm ăn mới ngon. Dĩ nhiên là không thể nào thiếu phần thịt kho trứng nước dừa. Thịt đùi heo, trứng luộc lột vỏ, cá bông cắt khứa dầy. Thịt, cá, trứng kho chung mà miếng thịt phần mỡ mỏng trong như sương sa, màu nâu như mã não, da trong ngần mềm rệu mà dính chắc vào nhau; cá thì dẻ khắc, nước trong vắt. Đó mới là cái khéo của ngoại tôi.
Những họ hàng và tá điền đến giúp, họ ăn uống vui vẻ như ngày hội Tết trong làng. Ngoài những món ăn chánh, giữa đêm còn có cháo gà hay cháo vịt. Ở trại trước, đàn ông và trai tráng ca những bài ca Vọng Cổ mùi rệu trong phần văn nghệ cây nhà lá vườn. Ở hiên sau nhà bếp, máy hát dĩa quay tay chạy tối ngày sáng đêm những tuồng tích xưa như: Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Quan Âm Thị Kính, Thạch Sanh Lý Thông… Mấy bà già trầu ưa nghe những tuồng cải lương thâu trên dĩa nhựa lắm. Mấy bà trẻ hơn một chút thì ưa nghe Người Đẹp Bạch Hoa Thôn, Người Vợ Không Bao Giờ Cưới, Chuyện Tình Lan Và Điệp, Mưa Rừng…
Tháng trước ngày chị tôi theo chồng, ba tôi dặn má tôi:
– Má con Tuyết Hồng đi chợ quận nhớ mua mấy thùng dầu lửa để đốt đèn măng-sông. Mua mấy két nước ngọt: xá xị, bạc hà, nước cam vàng, nước cam đỏ nữa… Còn thuốc hút, trầu cau đãi họ hàng chòm xóm trong những ngày nhóm họ và ngày cưới con mình.
Má tôi vui nét mặt:
– Thôi, ngày đi chợ ông nên cùng đi với tôi, ông mua thuốc hút, giấy quyến, trà, cà-phê, sữa hộp… Mấy thứ đó ông rành hơn tôi.
– ž cũng được, bà nhớ nhắc cậu Ba sắp nhỏ đặt hai chục lít rượu nếp cho ngon, bảo bà bán rượu đừng pha chế nhiều quá rượu sẽ lạt đi, có trả tiền thêm cũng được. Trong những ngày nhóm họ và sau ngày đưa dâu cũng vậy, bà phải để ý dọn cho bà con lối xóm, họ hàng đến giúp mình ăn uống đầy đủ tươm tất. Mình mới gả con đầu tiên, tốn kém không sao. Đừng để người ta cười là mình hà tiện.
Đám cưới chị Hai tôi có mặt đầy đủ họ hàng cùng láng giềng thân thiết ở địa phương và ở tỉnh thành về. Và gần như những người trong làng, những làng lân cận quen thân với gia đình tôi, với ông bà ngoại đều được mời đến dự. Tiếng trầm trồ khen ngợi xa gần: “Đám cưới cháu ông cả Đê, con thầy giáo Năm lớn quá, đông người dự quá! Cả làng xã đến dự…”
Mới bảy giờ sáng bốn chiếc ghe hầu, giăng hoa, kết tuội cặp bến. Nhà trai trên dưới hai mươi người, khăn áo chỉnh tề, nghiêm trang và chẩm rãi đi vào nhà, trong đó có ông bà ngoại, ba má chú rể. Bốn thanh niên và bốn thiếu nữ mặt mày sáng sủa tươi vui. Một thanh niên bưng khay trầu rượu. Một thiếu nữ bưng mâm nữ trang, những người còn lại thì bưng mâm quả lễ khác. Bốn đàn ông, bốn đàn bà. Mấy ông thì diện khăn đóng, áo dài, hoặc áo sơ mi bỏ trong quần tây ủi thẳng nếp, cổ thắt cà vạt gọn gàng, trang nhã, lịch sự. Mấy bà thì quần lãnh, áo dài, choàng khăn sạt. Mỗi người bưng trên tay một mâm: rượu, trà, bánh, trái. Họ đến trước cửa chánh thì dừng lại. Người đại diện nhà trai xin phép cho vào để trình lễ, và làm lễ rước dâu. Nhà gái cử đại diện ra tiếp đón và mời họ đàng trai vào nhà. Ba tôi cũng diện khăn đóng áo dài the. Má tôi mặc quần lãnh mỹ a mới tinh mỗi khi má bước có tiếng rột rẹt cặp với áo dài nhung nâu. Má đeo bông cẩm thạch mù u xanh biếc. Cổ má đeo dây chuyền vàng, mặt cũng bằng cẩm thạch trong vắt, chung quanh kết bằng hột xoàn tấm chiếu lấp lánh. Tay má đeo hai chiếc neo vấn nặng chịch.
Không khí trong nhà lúc bấy giờ thật trang trọng. Sau những lời hoa mỹ của ông mai bà mai cùng mấy ông mấy bà hai bên, họ nhà trai xin cho cô dâu ra làm lễ. Dì tôi dắt chị Tuyết Hồng ra. Chu choa ơi, chị tôi hôm nay đẹp như nàng tiên trong truyện cổ tích. Chị mặc áo dài gấm màu hồng, choàng bên ngoài chiếc áo choàng màu đỏ thẫm, ở lai, cổ và trôn áo viền màu vàng dệt lộn kim tuyến. Quần sa-ten trắng, hài xảo thêu hình long phụng bằng cườm ngũ sắc. Đầu chị đội nón cụ quay tơ. Mấy đứa nhỏ đứng trong kẹt nhà xì xào “cô dâu đội lồng bàn” Chị đeo bông tai hột xoàn lấp lánh. Kiềng cổ bằng vàng chạm. Cặp xuyến vàng chạm trổ tinh vi, ôm trọn hai cườm tay trắng nõn nà. Chị tôi cúi đầu e thẹn bước ra, có hai dì đi kèm hai bên. Theo sau là bốn cô phù dâu, trong đó có chị Tuyết Loan và tôi. Dù tôi còn nhỏ, mắc cỡ không chịu làm phù dâu, nhưng mà ở đám cưới chị tôi, má tôi cũng muốn khoe các cô con gái của bà. Chị Tuyết Loan trông xinh quá! Áo dài gấm màu thiên thanh in lác đác những cành mai trắng. Tóc chị xõa ngang vai. Tôi cũng mặc mình hàng và màu áo như chị. Áo rộng thùng thình, tôi cảm thấy mình như con vịt bầu bơi dưới ao. Tôi và chị Tuyết Loan không chịu đeo vòng vàng khè, cho nên trước ngày đám cưới, má tôi mua cho mỗi đứa một bộ nữ trang bằng ngọc trai màu ngà voi, đi trên nền hàng màu xanh thật dễ nhìn.
Sau khi cô dâu làm lễ xong, nhà gái mời nhà trai ngồi vào bàn ăn nhẹ, vì rước dâu về đường xa. Trên đường từ nhà gái đến nhà trai phải qua hai chuyến bắc. Bên chồng chị tôi là chủ hãng xe đò đưa khách từ Cần Thơ đi Long Xuyên, Cần Thơ-Rạch Giá, Rạch Giá-Hà Tiên, Cần Thơ-Sóc Trăng, Bạc Liêu-Cà Mau. Bởi đó họ nhà trai mới dễ dàng có xe rước đưa họ nhà gái dù ở xa nhưng đi về trong ngày.
Bốn thiếu nữ bên nhà trai là người thành thị, nên họ ăn mặc và trang điểm đúng cách. Bốn cô phù dâu, tôi và chị Tuyết Loan không biết điệu bộ và ăn nói kiểu cách như hai chị kia. Có lẽ thấy chúng tôi là học trò, khờ khạo trong việc ăn nói tiếp đón ở đám tiệc, nên má tôi mượn con gái út của ông xã trưởng, và con gái ông chủ Năm. Hai người đẹp lụy anh hùng nầy ăn nói khôn khéo, nhưng không kém phần chanh chua, sắc mắc nhứt trong làng tôi. Những câu thăm hỏi, đối đáp của mấy chị làm tôi và chị Tuyết Loan không khỏi ngạc nhiên và thích thú. Thí dụ như: Xin lỗi chị năm nay được bao nhiêu niên kỷ? Song thân chị nhận nơi nào để chị nâng khăn sửa túi chưa? Chúc bách niên giai lão. Chúc loan phụng hòa minh, sắt cầm hão hiệp v.v… Thật mấy chị lớn xí xọn và lanh lợi quá chừng!
Nhà trước chúng tôi rộng lắm, nhưng thiếu điều không đủ chỗ đứng. Không phải khách họ nhà trai hay khách họ nhà gái quá đông. Mà mấy bà nấu bếp cũng chạy lên đứng nép mình chỗ nào đó để nhìn bên đàng trai. Mấy ông phụ công việc nhà hàng ngày cũng đứng chen đầy ngoài cửa sổ chăm chú nhìn vào. Vì họ hiếu kỳ, vì họ muốn xem nhà trai đi những món gì. Để rồi sau đó không lâu, ghe rước dâu vừa tách bến thì miệng chuyền miệng là từ đầu làng đến cuối thôn ai ai cũng biết.
Chị tôi gả về tại thị xã Cần Thơ. Lúc đương thời ba tôi có thời gian dạy ở trường tỉnh lỵ nầy. Thật là ngộ, đám cưới linh đình như vậy mà ngày rước dâu không có chàng rể. Nhà trai xin lỗi vì chú rể bị trúng gió đêm qua, còn yếu quá, không cùng đến rước dâu được. Ông ngoại tôi không bằng lòng, nhưng nể tình vì ông ngoại chú rể là bạn thâm giao lâu đời nên ông ngoại tôi mới cho rước dâu.
Chị Tuyết Loan thắc mắc bảo tôi:
– Tao trông đứng trông ngồi để gặp anh rể mình, đẹp xấu, mập ốm, dầy mỏng ra sao. Ai dè ảnh lại không có mặt trong đám cưới. Tao nhớ ra chuyện nầy, không biết tụi bây biết không? Bà ngoại kể, ngày xưa mỗi lần ba vào làm rể ở nhà ngoại, lúc nào bà nội cũng mướn hai người đàn ông đi theo ba, để khi ông bà ngoại sai bảo ba làm công việc, thì có hai người nầy làm thế cho ba mình. Vì ba là Cậu Năm chớ bộ! Trước ngày đám cưới, mà má mình không biết mặt mũi ba ra sao. Ba hào hoa đẹp trai nên có rất nhiều đào. Rồi gần đến ngày đám cưới, có tin đồn thấu đến tai ông bà ngoại là ba bị bịnh cùi. Lúc đó, ông bà ngoại sợ quá, bảo cậu Ba tìm cách gần gũi ba, xem ba có bị nổi u nần và những đốm đỏ trên da như người bị cùi không? Mặt khác, ông bà ngoại mời bà mai đến để trả quà lễ đính hôn lại cho nhà trai. Sau đó, bà nội và bà mai mới tìm ra là mấy cô đào của ba không được bà nội hỏi cưới cho ba, nên họ ganh ghét mà phao tin đồn động trời đó. Thiệt tao nghĩ không ra! Không biết tại sao ba má chỉ biết nhà trai mù mờ như vậy mà đem chị hai đi gả cho “chàng rể vô hình” Bởi bên họ nhà gái của mình có ai thấy ảnh lần nào đâu!
Tuyết Oanh thỏ thẻ:
– Mợ Ba cũng thắc mắc, chú rể không có mặt từ đám hỏi cho tới đám cưới.
Tuyết Nga cười:
– Trong tấm hình thì ảnh đẹp trai quá thể, tóc dợn sóng trên vầng trán cao. Mấy dì mấy mợ nói ảnh giống kép Thành Được.
Tôi ngon lành:
– Chị Loan, chị nói gì nghe ớn vậy! Anh rể mình hữu hình, nhưng chưa đến thôi! Tui cho mấy người biết, tui coi vậy mà khó lắm đa. Chàng nào, anh nào, cậu nào, trự nào muốn cưới tui thì tui phải biết ít nhứt là 80% về người đó. Tui phải tìm hiểu, thử thách thời gian dài, và nhứt là tình cảm giữa đôi bên có hợp không đã. Tui mới chịu cho làm lễ hỏi. Ai như chị Hai, như ba má mình vậy, chỉ biết ông ngoại chú rể, chưa biết chàng rể thế nào, chưa biết ý con mình ra sao mà dám cho kết chuyện chung thân. Tui kính yêu cha mẹ, ông bà. Nhưng chuyện chung thân của tui, thì phải có ý kiến của tui chớ. Chuyện như chị Hai mình, còn khuya, sẽ không bao giờ đến với tui đâu.
Tuyết Nga cằn nhằn cửi nhửi:
– Chắc đàng trai có điều gì bí ẩn nên họ giấu giếm. Thiệt tình, thấy mặt cha mẹ anh rể mình, em biết họ đáo để lắm đó.
Tuyết Oanh bảo:
– Chú rể chưa thấy cô dâu ra sao, mà đã cảm lăn cảm lóc, rồi ngã đùng ra nằm liệt giường liệt chiếu.
Chị Tuyết Loan vụt lo ra:
– Cha chả, vào đêm tân hôn chú rể phải làm sao với cô dâu đây?
Tôi cười ngất bảo chị:
– Thôi đi, chuyện gì cũng có ông Trời và tía má chồng chị Hai sắp đặt hết rồi, chị khéo lo làm chi?
Chị tôi xuất giá theo chồng làm cảnh nhà trở nên vắng vẻ vô cùng. Dù thường nhựt chị ít nói cười. Nhưng cái bóng âm thầm của chị vẫn làm cho cảnh nhà ấm cúng. May mà giờ đây còn có chị Tuyết Loan lăng líu suốt ngày, làm cho không khí trong gia đình đỡ lạnh tanh.
Hai năm sau Tuyết Oanh mười bốn tuổi, Tuyết Nga mười ba. Không biết hai con nầy ăn nhằm món gì mà coi bộ trổ mã sớm. Cơ thể tụi nó phát triển sung mãn, ngực bắt đầu cộm lên. Tuyết Oanh đã có đường kinh. Lúc đầu nó sợ, khóc thôi mùi mẫn. Chị Tuyết Loan và tôi phải vỗ về nó, cắt nghĩa cho nó nghe sự phát triển của thể chất phụ nữ theo lẽ tự nhiên của đất trời. Ai dè tám tháng sau, con tiểu tì Tuyết Nga cũng đã trổ mã theo bước đi trước của chị kế nó. Vì đã được nghe lời giảng giải của chị Tuyết Loan và tôi trước đó rồi nên cô út nhà tôi không hề sợ hãi.
Cô áp út và cô út một khi đã trổ mã là bắt đầu làm điệu. Nữ sinh Trưng Vương và Gia Long thời đó ưa nói: ‘’Điệu rơi, điệu rớt, điệu rụng, lượm điệu không kịp’’. Vậy mà tôi lượm được điệu của hai con em ỏn ẻn, kiểu cách của tôi để làm đề tài chọc ghẹo tụi nó.
Tuyết Oanh hơi mập mạp, tươi mát, nhưng cô ả làm như đau ban mới mạnh, kiều nhược, cần có mọi người thương yêu săn sóc. Giọng nói của nó hơi xon xỏn, hơi gắt, nhưng đã lỡ làm vẻ bịnh hoạn nên nó bào giọng cho mỏng nhẹ, làm như không còn hơi sức đâu mà nói ra tiếng. Nó ưa mặc áo tím, cài băng-đô tím, đeo xâu chuỗi đá tím than, bông tai, cà rá cẩn ngọc tía. Tập vở của nó cũng được bao bằng giấy kiếng trong suốt màu tím. Khăn tay và áo lá của nó tuy bằng lụa trắng, nhưng nó thêu hoa sim tím, hoa pensée tím, hoa cúc tím. Nhưng ăn xôi thì nó chọn xôi vò. Đồ mắc dịch, sức mấy mà nó thèm ăn xôi lá cẩm! Xôi lá cẩm tuy có màu tím tươi, nhưng không béo và đậm đà bằng xôi vò.
Còn cô ả Tuyết Nga mặt mày sắc sảo, ưa nói trèo đèo hổn hào với tôi và chị Tuyết Oanh. Nhưng trước mặt cô bác, cậu dì, thím mợ là ả làm như con mèo ướt, mắt liếc một cách êm dịu, nụ cười bâng khuâng, giọng nói mềm như nhung, tiếng cười đằm thắm, lời nói hoa mỹ, ngọt như đường cát, mát như đường phèn. Con quỉ đó sửa giọng nói sao mà mơn trớn như giọng mấy cô vợ bé nhỏng nhẻo với chồng hờ.
Hai con em của tôi chỉ biết diện chớ làm biếng đọc sách. Cho nên mỗi khi viết lưu bút cho bạn bè trong lớp, tụi nó phải nhờ tôi viết ở trang bản thảo để tụi nó chép lại. Vậy là tôi có một con a huờn và một con tì nữ để sai vặt. Từ trước, tụi nó tỏ ra cứng đầu ương ngạnh với tôi. Bây giờ thì tụi nó tỏ ra mềm mỏng, ngoan hiền để tôi bóc lột công lao.
Rồi đó, sau khi bàn bạc những gì với nhau, hai con nha đầu mèo ướt kia bắt đầu giương móng vuốt ra. Con Tuyết Oanh nguýt tôi:
– Chị Tư! Chị đừng tưởng chị viết văn hay rồi đày đọa, xéo xắt tụi em. Từ rày, tụi nầy không còn nhờ chị nữa đâu. Chưa làm văn sĩ mà chị đã lên chưn, làm giọng thầy đời thấy phát ghét, lại còn sai khiến em út như con ở, con đòi.
Tuyết Nga trề môi:
– Trời cho tụi nầy đẹp, không cần phải biết làm thơ phú, viết văn. Nữ sĩ đa số không đẹp, nên họ dùng văn chương làm món trang sức.
Tôi vênh váo:
– Tao có đè đầu bóp cổ tụi bây đâu. Tụi bây năn nỉ tao giúp mà. Nghiệt thay! Tao chẳng những không xấu mà còn tin chắc mai sau tao sẽ là nhà văn kiêm nhà thơ nữa kìa.
Con Tuyết Oanh quên mất cái bịnh đau ốm vì làm điệu của mình, buông mũi tên độc về phía tôi bằng giọng hùng hổ chát chúa:
– Để coi, văn tài của chị trước dung mạo của tụi em, chỉ là thứ vô dụng.
Tuyết Nga bồi thêm cho tôi một cú đau điếng:
– Ra ngoài đường, trong bốn đứa chị em tụi mình, chỉ có chị là ít được thiên hạ chú ý. Khi đi ra chợ hoặc đi ra ngoài phố, chị đâu có thể đem cái văn tài ra chưng, mà có thể chưng cái mặt lu câm như tấm kiếng ố bụi ra thôi.
Chu mẹt ơi, tại sao hai con quỉ non nầy bỗng dưng giở thói phản phúc, qua cầu giựt sập ván lót cầu như vậy cà? Thì ra, tụi nó sưu tầm một mớ sách báo có nhiều đoạn văn ướt át để có dịp lấy ra xài. Lại nữa, tụi nó có óc nhớ dai. Chỉ cần nghiên cứu văn chương trong ít lâu, thì tụi nó bắt đầu viết được những câu văn tuy không mùi như mít ướt, nhưng cũng trơn bóng, ngọt lỗ tai.
Chị Tuyết Loan và chị Tuyết Hồng mới đúng là người đẹp Bình Dương. Còn hai con phản phúc kia chỉ có duyên thôi, chớ chẳng mỹ miều gì đó, mà cứ tưởng mình là kiều nữ tố nga không bằng.
Chị Tuyết Loan ưa la rầy tôi:
– Nè Nhạn, mi có nhan sắc trên trung bình, mi nên trang điểm chút ít coi nào, mặt mi mà đi với mái tóc cắt kiểu bum bê trước trán, rồi thả dài hai bên cho tao coi sao. Mi tuy kém sắc hơn tụi tao, nhưng mi đừng tưởng là mi xấu xí mà để tóc tai dã dượi như con ma đội mồ. Mi nên sửa dáng đi cho mềm mại, uyển chuyển một chút coi. Con gái gì mà: “Vô duyên chưa nói đã cười, chưa đi mà chạy rõ người vô duyên”. Mi phải đằm thắm một chút để cho con trai chiêm ngưỡng mi chớ. Mi phải bắt chước chị Hai và tao…
Tôi háy chị một cái thật bén:
– Mi phải, mi phải, mi phải… Gặp chị là, là em bị chị hãm hiếp cái lỗ tai. Mi phải thế nầy, mi phải thế nọ! Chị khác, em khác, con Oanh và con Nga cũng khác luôn.
Nhỏ Tuyết Nga chen vào:
– Làm điệu mà được trai tráng nghệch cái mặt ra chiêm ngưỡng như tụi em đâu phải dễ.
Nhỏ Tuyết Oanh cũng hùa theo:
– Con gái mà liếng khỉ sẽ biến thành nửa gái nửa trai, lũ con trai đâu thèm ngó tới. Con trai chỉ thích ngó con gái, chớ sức mấy nó ngó con gái lộn giống như chị.
Ngộ hén! Hai con nghiệt súc nầy, học hành tầm thường, trí thông minh thuộc vào hạng xoàng, nhưng cái óc sáng chế những câu xói xỉa cắn mổ tôi thì xuất sắc tuyệt vời.
Chị Tuyết Hồng gởi thư đều đều về nhà. Chị khoe công việc làm ăn của chồng, khoe mua sắm món nầy vật nọ cho mình và cho chồng. Lời lẽ trong thư có vẻ lạc quan. Chị còn gởi kèm theo mấy tấm ảnh của hai vợ chồng. Cái ảnh nào cũng có vẻ khắng khít mùi mẫn ác ôn! Trong ảnh, anh rể tôi choàng tay qua vai chị, hoặc kề má sát má chị. Hai vợ chồng cùng cười hí hởn, mắt chồng liếc qua vợ, mắt vợ xoáy lại chồng. Mèn ơi, họ đẹp đôi, nên coi có vẻ mặn nồng quá chừng! Bởi có tánh điềm đạm, nên dù được bơi lội trong hạnh phúc của hôn nhơn, nhưng chị Tuyết Hồng viết thư bằng lời lẽ mực thước, vui mà không ồn ào. Nếu chị Tuyết Loan mà được như vậy, chắc là chị sẽ đía thôi tưng bừng hoa lá, sẽ khoe khoang ỏm tỏi, sẽ sủa thôi om sòm, rồi biến thành con hề cái chớ không phải chơi đâu.
Đọc được thư chị Hai tôi, khi gặp câu chị Hai cho biết vừa sắm một cặp đôn sứ, một cái chóe da rạn, lập tức chị Tuyết Loan tìm mợ tôi và các dì tôi đía liền:
– Mợ Ba và các dì ơi, chị Hai con vừa mua cặp đôn sứ lớn cỡ vòng ôm, tráng men trắng điểm lá nút chuồn xanh. Chị con còn mua cái chóe da rạn men ngà, những vết rạn giống như vẫy rắn vậy. Mấy món đồ cổ đó đáng gía tiền muôn bạc vạn chớ không ít đâu.
Ai ai cũng mừng dùm chị Hai Tuyết Hồng. Chẳng ai hỏi chị Tuyết Loan đã thấy những món cổ ngoạn đó chưa? Kỳ thiệt, chỉ tả cặp đôn và cái chóe da rạn ấy qua dạng cặp đôn sứ và cái chóe da rạn của ông Cả Xiêm ngoài chợ Cái Bè mà chúng tôi có dịp xem cách đây mấy tháng.
Khi chị Tuyết Hồng chưa xuất giá, năm chị em ở hai căn buồng thông nhau. Chị Hai và chị Ba ngủ chung một căn. Tôi và hai con em Trời đánh ngủ chung một căn. Chị Hai và chị Ba ngủ chung một giường. Còn tôi và hai con kia mỗi đứa ngủ riêng trên cái đi-văn nhỏ. Hai con em vẫn ngủ xấu nết. Có lần tôi ngủ chung với tụi nó, nửa đêm tôi bị tụi nó đạp lọt xuống sàng một cái đụi, đau rêm cả xương sống. Lại nữa cô út Tuyết Nga từ nhỏ cho đến chín tuổi, có tật đái dầm. Chị Tuyết Loan thường phàn nàn với má tôi:
– Con út lớn lên mà không bỏ tật đái dầm thì sẽ có lúc đái trôi chồng ra Biển Đông.
Tuyết Nga mắc cỡ mỗi khi chị nhắc đi nhắc lại chuyện đái dầm. Nó hằn học:
– Chuyện kín của em, chị nỡ nào đi rêu rao khắp thiên hạ cho đành? Để rồi chị coi, mai sau chị sẽ gặp ông chồng nghiến răng trong lúc ngủ say.
Lời trù ẻo lại dội ngược về người trù. Về sau chồng của Tuyết Nga chẳng những nghiến răng lúc ngủ mà còn nói mớ, làm cô ả bực mình mà phải cam chịu cho trọn đạo vợ hiền. Còn người bị trù ẻo lại có ông chồng tốt nết lúc ngủ, ngủ êm thấm trong khi chị ngáy ồn ào như suối tuôn thác đổ.
Mỗi tối, ba chị em thường nhắc những ngày sống chung với chị Tuyết Hồng. Cô trưởng nữ của gia đình họ Cao giỏi tài làm bánh, nên các cô em được hưởng món ngon. Chị Hai tôi làm món bánh đông sương xứ Huế đẹp tuyệt trần, trên nền miếng sương sa trong vắt nổi vân xanh, vân đỏ, vân vàng, vân tím lộng lẫy.
Tuy nhiên, tôi chọn món ăn ngon chớ không mấy thích món ăn đẹp. Món ăn đẹp rồi sẽ mau chán mắt. Tôi thích ăn bánh tét nước tro, bánh ích trần nhưn tôm thịt, bánh lá mít, bánh bèo ngọt nhưn đậu xanh chan nước cốt dừa, bánh tầm ăn với bì kèm theo rau ghém và chan nước cốt dừa cùng nước mắm chua ngọt do chị Hai tôi làm. Đó là những món bánh phổ thông, gái miệt vườn đều làm được. Nhưng món nào do chị tôi để mắt tới, chứ chẳng cần làm cũng đều ngon cả. Các món suông, món chạo, món nem nướng, món lẫu cá sạo nấu với dưa cải, món tả pín-lù, nhờ có chị mà cả nhà được ăn mỗi khi chúng tôi đi học xa về đầy đủ hoặc có khách quý tới viếng nhà. Khách của ba tôi nhiều lắm, vài tuần thì có người đến thăm.
Trong lúc tôi cà ngơ cà ngất chỉ biết lo học và chơi giỡn với lũ bạn thì chị Tuyết Loan lo o bế nhan sắc để lọt vào một đấng anh hào trong quân đội, có đeo bông mai, vừa đẹp trai, vừa biết nịnh đầm. Còn hai con nha đầu kia mài miệt luyện văn để mai sau viết thư tình sao cho du dương như tiêu dìu dặt, như sáo véo von. Tụi nó chỉ cần có một ý trung nhân biết thưởng thức văn chương của tụi nó trong lá thư, chớ chẳng cần độc giả nào khác. Còn tôi, tôi mơ mai sau sẽ viết truyện dài, truyện ngắn, tùy bút, đoản văn. Độc giả ái mộ của tôi sẽ đông nườm nượp. Mộng của tôi lớn cao như núi, rộng như sông, còn mộng của hai con kia nhỏ như cá lòng tong lục chốt.
Hè năm đó, tôi về thăm nhà với kiểu tóc bum-bê trước trán và xõa dài hai bên vai thì hai con em cà chớn suýt soa, ghen tức liền. Bà ngoại nhìn sững tôi, không nói không rằng gì cả, chỉ cười chúm chím. Sau đó Ngoại bảo má tôi:
– Con Tuyết Nhạn có thể lấy chồng được rồi đó. Con mau gả con Loan trước đi, rồi mới tính chuyện chung thân cho con Nhạn.
Chương 2
Mái tóc cắt bum-bê trước trán làm tôi biến thành một mẫu người khác. Mấy mợ mấy dì, ông bà ngoại cho tiền tôi sắm áo dài màu nhân dịp tôi đậu vào trường y tá. Tôi đâu dám mặc áo dài ni-long trong vắt như lộng kiếng thân hình. Tôi cũng không dám mặc loại mút-xơ-linh có bông hoa lòe loẹt. Tôi sắm mấy chiếc áo dài soie Thái-Lan màu xanh chim sa sả, chiếc áo lụa lèo màu hột gà, chiếc áo màu xanh cẩm thạch in hoa lá trắng, chiếc áo lụa mỏng màu tím than để tôi thêu bông vàng nhỏ li ti giữa hai phiến lá xanh lục.
Mợ Ba tôi nói:
– Con Oanh, con Nga chỉ có duyên thôi. Con Hồng, con Loan mới gọi là đẹp. Còn con Nhạn lúc nhỏ xấu hoắc, ai dè lớn lên nó ăn đứt hai con em về dung nhan bóng sắc mà còn muốn trội hơn hai chị nó nữa.
Tôi nghĩ thầm, mợ Ba vì nuôi tôi từ nhỏ nên thiên vị, chớ thiệt ra hai con em tôi có thân vóc mềm mại, nồng nàn. Khuôn mặt tụi nó coi được lắm, nếu trau chuốt thêm như tỉa chân mày, tô son trét phấn chút ít thì… ăn tiền!
Tôi biết mình không đẹp lộng lẫy kiêu sa như chị Tuyết Loan. Vậy mà mỗi khi hai chị em đi chợ quận thì trai tráng ngắm cả hai bằng cặp mắt đắm đuối. Nhưng trai tráng trong xã, trong thôn mỗi khi chúng tôi đi dự lễ chùa hoặc hội chợ Tết ở làng thì lại thích ngắm tôi hơn. Nỗi thắc mắc đó làm tôi tưởng bỡ nghĩ là mình chắc đẹp hơn hai bà chị và hai cô em xí xọn của mình. Nhưng chị Tuyết Hồng tôi có lần về thăm nhà, khi chị chưa mang bầu, chị giải thích:
– Con Loan từ bấy lâu nay ai cũng nhận thấy nó đẹp rồi. Cái nhan sắc của nó đã nhàm mắt mọi người. Còn Nhạn từ lúc nhỏ bịnh hoạn, vóc dáng còm cõi, da dẻ xanh xao. Nay nó hết bịnh, từ xấu xí bỗng dưng được hoán cải dung nhan, trở nên lột xác mới mẻ, hèn gì mà ai cũng thích ngắm.
Mấy thằng con trai xóm trong thường hay chế giễu tôi, gọi tôi là con Mai Liên (tức là Miên lai) để ám chỉ màu da tối hù và mét chằng mét ưởng của tôi. Bây giờ mỗi lần tôi về thăm nhà, vừa bước xuống bến xe đò ở chợ làng thì bọn trai nghệch mặt ra ngó, mỗi khi tôi diện chiếc áo màu hột gà đi lơn tơn qua trước mặt tụi nó, còn có thằng thì khờ khạo nhìn tôi khi tôi mặc chiếc áo lụa đen quấn khăn phu-la trong vắt màu xanh lá mạ.
Tôi hết ốm ròm trở nên thanh cảnh. Con út Tuyết Nga tuy thanh cảnh, nhưng coi bộ ngực nó nở nang hơn. Còn con Tuyết Oanh thì mập đẹp, eo thắt, ngực và mông đều tròn lẵn.
Tôi bắt đầu viết văn và làm thơ để gởi đăng ở mục “Anh tiền tuyến, em hậu phương” hay là mục “Người yêu của lính” trên các báo quân đội. Lúc đầu tôi yêu lính qua văn chương của Nguyên Vũ, Văn Quang, Nhất Tuấn, Lệ Khánh; nhạc của Lê Dinh , Anh Bằng, Trúc Phương… Về sau khi xem phim Nắng chiều tôi thấy nghệ sĩ Hùng Cường mặc quân phục vừa đẹp, vừa oai nên tôi yêu lính thiệt tình. Tôi viết mấy bài đoản văn, làm mấy bài thơ có hồn lắm lắm. Hai con em thổ tả kia, gặp bài văn bài thơ nào của tôi được đăng trên báo thì chúng cũng chê ỷ chê eo, mặt mày khinh khỉnh thấy muốn tát, muốn vả cho mặt tụi nó sưng chần vần như cái mâm thau.
Vậy mà một hôm tình cờ, tôi bắt gặp lá thơ con Tuyết Oanh gởi cho “Người anh tiền tuyến” của nó, trong đó một đoạn là bài thơ của tôi trích ra để nó mượn ý mượn lời nói lên tâm trạng nó. Tôi bắt đầu rình rập hai con nha đầu nầy. Có lần tôi xem trộm thơ con Tuyết Nga gởi cho con bạn hồi cả hai còn học lớp nhứt. Trong thơ, ả ta khoe về các bà chị của ả, trong đó có tôi. Tôi cảm thấy yêu thương con em nầy và sung sướng quá chừng đến ứa nước mắt khi đọc đoạn: “Mầy biết không, chị Tuyết Nhạn của tao viết văn mùi kinh khủng. Chị của tao làm thơ yêu lính đâu có thua mấy bà Lệ Khánh, Lý Thụy Ý… Để rồi mầy coi, chị của tao sẽ là nữ sĩ, cũng lỗi lạc như nữ sĩ Quỳnh Dao. Bài thơ nào của chị Nhạn tao đăng báo, tao và chị Tuyết Oanh đều đọc mê tơi. Chị Oanh cắt để dành dán vào quyển tập bìa cứng. Chị Tuyết Nhạn vốn bạch tuột và làm biếng nhớt thây. Thơ văn đăng báo xong, chị ta mua về vứt bừa bãi trong buồng…”
Tôi tìm quyển tập bìa cứng không mấy khó khăn. Hai con em tôi là hạng có lòng vàng, lòng cẩm thạch, lòng hột xoàn. Có thứ em quý báu như vậy thì tôi đâu có ngại ngùng gì mà không rủ tụi nó ra chợ thưởng thức một chầu phim và sau đó dắt nhau đi ăn hủ tíu hoặc ăn phở, uống sinh tố do tôi đãi?
Dù có thích được trai ngắm, dù mơ mộng viễn vông chàng chiến sĩ oai hùng trong mộng tưởng, nhưng vào những ngày về nhà ở quê, tôi vẫn thích xế trưa đi câu cá với ba tôi.
Tôi có thêm một chuyện vui nữa, khi tấm ảnh phóng đại của tôi cỡ 18×24 treo ở tiệm Cảnh Trung ngoài chợ Mỹ Tho thì tôi có một chàng thanh niên có bằng cấp cao tên Linh đeo đuổi. Nhưng đó là những chuyện vụn vặt mộng mơ của tuổi học trò ai mà không có. Cũng nên nhắc lại: Tiệm chụp hình Cảnh Trung nầy đã từng chưng ảnh của nhạc sĩ Anh Việt Thu và ảnh đẹp trai của ca sĩ Duy Mỹ. Hai nghệ sĩ nầy vốn là dân Mỹ Tho và cũng là học sinh nam trung học Nguyễn Đình Chiểu.
Hai năm sau, chị Hai tôi có cháu bé đầu lòng. Nhân dịp ngày giỗ bà nội, anh chị ẵm cháu về thăm. Tối hôm đó, sau khi chị Tuyết Hồng dỗ cháu Ái ngủ thì cùng chúng tôi quây quần bên má phụ gói bánh tét, bánh ích. Thật ra thì chị Hai tôi biết làm bánh làm trái làm gái làm mụ, còn tôi chỉ phá phách thôi. Tôi len lén má lấy bột, nhưn rồi vò từng viên đạn bắn cu li như mấy đứa nhỏ hàng xóm, sắp từng viên trong mủng vùa, dấu dưới tủ bếp, hoặc lén bóc đậu đen xào chung với nếp trong chảo chờ gói thành bánh tét để ăn. Chị Tuyết Loan thì kể chuyện tào lao của mấy con bạn nhí nhảnh của chị rồi cười ngặt ngoẽo. Má tôi nghiêm giọng:
– Con lo cột bánh đi. Nên để ý, móng tay bấm lủng nơi nào thì khi nấu, nếp nở sẽ trào ra nơi đó. Tối ngày, con cứ chọc ghẹo người khác. Con đã lớn mà không nghiêm trang gì cả. Ba con mà biết được thì phải đòn đó nghen.
Chị Ba tôi xịu mặt, làm tình làm tội mấy cái bánh gói xong, má tôi bảo chị sắp vào rỗ chờ đem đi nấu. Chị Hai tôi bây giờ có da thịt hơn hồi còn con gái. Dưới ánh đèn măng-sông da dẻ chị trắng hồng, nhìn nghiêng chị có duyên và sống động hơn cô gái ôm bó lúa của họa sĩ Lê Trung vẽ trên bìa báo Xuân nhiều. Bỗng dưng chị dừng gói bánh, lấy tay vén mấy sợi tóc lòa xòa trên má, tươi cười, mắt long lanh chứa chan niềm hạnh phúc. Chị thỏ thẻ với má tôi:
– Con nói má nghe chuyện nầy. Nó đã xảy ra lâu rồi nhưng con mới biết lúc mang thai bé Ái được năm tháng. Khi má chồng con bảo anh Trường (tên anh rể tôi) lên Sàigòn thay thế ổng bả dự đám cưới của người con chú ảnh. Ảnh không chịu đi một mình mà nói với má chồng con: ‘’Má à, con với vợ con cùng đi. Mấy dì, mấy cậu ở Sàigòn nói gặp mặt vợ con có một lần, từ ngày cưới đến nay thì không gặp lại. Có mấy đứa con dì con cậu trên ấy cũng chưa biết mặt mũi vợ con ra sao. Tiện dịp đám cưới đầy đủ họ hàng, vợ con nên đi với con, như vậy tiện lắm vì chồng đâu vợ đó cho có đôi…’’
Má chồng con có vẻ ngập ngừng và ngượng nghịu lắm. Sau đó bà mới bảo: “Bây giờ con mới thương mới quý vợ rồi phải không? Vậy mà trước ngày hỏi cưới, con làm nồng làm nã nhứt định không chịu lấy vợ, không chịu đi Cái Bè trong lễ rước dâu…”
Rồi má chồng con liếc xéo nhìn ảnh vui vẻ quay qua con tiết lộ chuyện động trời: “Vậy được rồi, vợ chồng bây đi đại diện cho ba má. Vợ thằng Trường biết không? Đời là cõi tạm, tiền của là vật ngoài thân, có đó rồi mất đó. Dầu ba má có tiền có của, nhưng sản nghiệp cũng bấp bênh lắm, ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Nên ba má muốn thằng Trường có cái nghề nghiệp vững chắc để sau nầy nó nuôi vợ con, khỏi phải nhọc nhằn cho khỏe tấm thân. Ông bà mình thường nói ruộng bề bề không bằng nghề trong tay mà. Nhưng ai có ngờ đâu khi lên Sàigòn, nó học thì ít, mà chơi thì nhiều. Một hôm ba con nghe trên làn sóng điện của radio, có giới thiệu những người trình diễn văn nghệ ở đài phát thanh Pháp Á gì đó thì nó là người đờn ghi-ta trong ban nhạc. Ổng hoảng hồn gọi nó về, bắt nó đi lấy vợ. Đi xem mắt năm bảy chỗ, không nơi nào nó chịu, cứ viện cớ thế nầy thế kia hoài. Rốt cuộc, nó không chấm cô nào hết. Đến khi ba má gặp mặt con, không biết sao ba má thương con quá. Ba con nói: Ít có con gái ở vườn mà đẹp và tướng tá thanh nhã như vậy…”
Chị Tuyết Hồng ngừng lại, lấy khăn vải trắng lau thêm xấp lá chuối xanh tươi. Mọi cặp mắt hướng về chị. Chị vẫn thản nhiên, nét mặt sáng hồng, cặp môi phơn phớt nụ cười. Lúc nào chị cũng huỡn đãi, dịu dàng nên đôi khi làm cả nhà sốt ruột. Chị tiếp tục câu chuyện:
– Ông ngoại của chồng con, ba má chồng con vì quá nôn nóng cưới vợ cho anh Trường nên phải dùng kế đẩy ảnh vào sự việc đã rồi. Anh Trường vốn thích chọn người đàn bà trình diễn trên sân khấu, những nghệ sĩ ăn mặc chải chuốt lòe lọet. Tâm hồn của ảnh là tâm hồn của nghệ sĩ nên ảnh thích cái phù phiếm. Thật tình, nghĩ tới đây mà con giựt mình đồm độp. May mà con hợp nhãn ảnh. Má chồng con lại cho con biết: “Ba má cưới con đại không cần hỏi ý kiến nó nữa. Cũng không cho nó biết cho đến ngày cưới mới bảo chú Bảy quản gia lên Sàigòn triệu cậu Hai về và nói rằng ba bịnh nặng, nên nó mới chịu về. Thật sự thì ông ngoại và ba má cũng sợ nó phản ứng mạnh bỏ nhà đi mất. Lo ngại quá, má đi chùa chiền cầu khẩn để trấn an, chỉ mong cho tâm tình nó yêu thương con. Hai đứa ăn đời ở kiếp là ba má mãn nguyện lắm rồi. Vậy mà chuyện liều lĩnh của ba má xuôi chèo mát mái, không ngờ cưới con xong nó trụ luôn ở nhà. Ba má nghĩ thật mình ích kỷ quá! Làm như vậy là bất công đối với con. Nhưng Trời Phật cũng thương tình ba má không ác ý. Tụi con thương yêu như vậy ba má như được trút gánh nặng trong lòng. Con không buồn ba má chớ…?”
Chị Hai tôi ngừng lại một chút, rồi nói tiếp:
– Thật con không biết nói sao cho phải đây? Thì ra hôm rước dâu không có mặt chàng rể. Đêm tân hôn con nằm chèo queo, không dám khóc vì sợ xui xẻo cho việc chung thân. Ba ngày sau ảnh mới mò về. Má chồng con luôn ân hận bảo: “Bổn phận làm cha mẹ nặng nề lắm, phải lo cho con cái nên vóc nên hình rồi mới dựng vợ gả chồng. Bao nhiêu là đoạn đường bổn phận, mà số người làm cha làm mẹ có được trơn tru và dễ dàng đi qua đâu? Cha mẹ nào cũng thương con, vì con. Mọi việc làm của họ luôn nghĩ tốt cho con mình, nên nhiều khi cũng hơi quá đáng. Lạm dụng quyền làm cha mẹ mà ép uổng con, chung qui má cũng chỉ muốn cho con mình đẹp duyên đẹp phận mà thôi. Nghĩ mừng cho má con bên nhà, có năm đứa con gái đứa nào cũng dễ coi quá. Mỗi đứa lại đi học, đi làm một nơi. Má con chắc lo lắng lắm. Xin ơn trên phù hộ cho ông bà không gặp những việc rắc rối nhức đầu…”
Má tôi làm thinh lắng nghe, đến khi chị tôi kể hết. Mắt má thoáng nét không vui. Bà nhìn ra ngoài cửa sổ như nói với mình:
– May mắn quá! Âu cũng là duyên nợ. Nếu không, nó vặn nài bẻ ống thì tội nghiệp cho cả đời con tôi.
Bên họ ngoại tôi thờ cúng ông bà, hướng tâm về đạo Khổng, đạo Phật từ bi: Ăn hiền ở lành, làm lành lánh dữ. Tin có trả báo luân hồi, có sự trả vay. Chuyện thay đổi vợ chồng là điều cấm kỵ, không được nhắc đến, không được bàn đến, không được hỏi đến. Thuở đó, ai thay đổi vợ chồng là điều sỉ nhục của gia đình, kể luôn họ hàng gia tộc. Đến đời má tôi phong hóa cũng còn gắt lắm. Má tôi luôn nhỏ to với chị em tôi:
– Áo quần thì thay đổi lúc nào cũng được, còn con gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu. Không được đổi thay. Trước sau phải chung thủy một chồng mà thôi.
Mỗi lần ngồi gói bánh Tết, gói bánh đám giỗ, hoặc ngồi liễn trầu là những cơ hội để má khuyên dạy đạo lý cho chị em tôi. Hai cô em Tuyết Oanh và Tuyết Nga còn nhỏ chẳng biết gì. Còn tôi thì chẩu mỏ lắng nghe mà thôi. Chị Tuyết Hồng nhu mì ít nói. Chuyện gì ba má tôi phán ra là khuôn vàng thước ngọc đối với chị. Chỉ có chị Tuyết Loan là hay trả treo nhứt nhà. Chị Tuyết Loan lên tiếng:
– Má nói vậy không công bằng chút nào, tại sao đàn bà con gái cái gì cũng phải nhường cho bọn đàn ông? Sao họ không nhường mình? Con thì không quan niệm như vậy. Mai sau, chồng con có vợ bé, con bỏ ảnh ngay. Ảnh mắng con thì con mắng lại. Hạnh phúc gia đình phải có nhường nhịn của đôi bên. Phải cùng xây dựng mới được, chớ bắt con chịu thiệt thòi còn ảnh thì phây phây, còn lâu, con không nhịn được đâu. Và chắc chắn chuyện đó không bao giờ đến với con, vì con sẽ dập tắt ngay trước khi nó manh nha. Hoặc là con sẽ chạy trước ảnh với tốc độ hai trăm cây số một giờ.
Má tôi trừng mắt, phàn nàn:
– Con thật là ngang bướng, má dạy mà không nghe, còn nói ngược lại nữa. Với tánh tình như vậy mà con không sửa đổi thì sau nầy con sẽ chịu thiệt thòi, sẽ khổ thân cho coi.
Chị Tuyết Loan vẫn không thay đổi lập trường:
– Gặp thằng chồng trời đánh mà nghe như lời má nói thì con sẽ còn khổ hơn.
Má tôi giận lắm, nhưng chị cũng có lý của chị. Bà dịu giọng:
– Má chỉ thí dụ thôi, con làm gì ào ào vậy? Thật là đứa không biết hơn thiệt giả chơn gì hết mà.
Chị Tuyết Hồng nhỏ nhẹ:
– Em có yên để nghe má dạy không? Má nói đúng mà, từ ngàn xưa người phụ nữ phải như vậy. Em không nhớ những lời cô giáo giảng sao?
Bà con chòm xóm coi chị Tuyết Hồng là một phụ nữ gương mẫu. Họ khen chị riết rồi biến chị thành nữ thánh, cho nên chị yên chí làm nữ thánh, không thèm nghe, thèm biết về chuyện nam nữ bình quyền, chuyện cải tiến gia đình xã hội. Chị Tuyết Loan nói lén má tôi và chị Tuyết Hồng:
– Chị Hai tụi mình không ngu, không đần, chỉ có cái thói lười suy nghĩ đó thôi. Phụ nữ thời buổi nầy đều bước ra xã hội kiếm sống như đàn ông. Họ được bình quyền như đàn ông chớ. Ở Ấn Độ còn có bà Thủ tướng Găng-Đi. Còn má mình thì cổ lỗ sỉ, đố ai cải hóa má nổi
Tôi bắt bẻ:
– Chị Hai có dám bước ra ngoài xã hội đâu. Chỉ vẫn là bà nội trợ mà thôi. Mà nè chị ơi, suy nghĩ làm chi cho thêm rắc rối, thêm khổ? Chị coi em đây, em cứ cù ngơ cù ngấc mà em hạnh phúc lắm.
Chị Tuyết Loan bảo:
– Rồi đây khi cầm bút viết văn mầy phải nghĩ điều nọ điều kia chớ.
Tôi ngon lành:
– Nhứt định là em không suy nghĩ về chuyện nam nữ bình quyền như chị đâu. Em viết văn bằng trái tim. Em xắt trái tim ra từng miếng mỏng để trải lên văn chương.
Tuyết Oanh ngồi gần đó, rên lên:
– Mấy chị ỷ mình trưởng thành, ăn nói tào lao bá láp làm em mệt khờ luôn.
Tuyết Nga nhận xét:
– Coi bộ anh Hai cưng chị Hai như trứng mỏng. Được chồng cưng thì hưởng ân tình chồng, suy nghĩ làm chi để mang tiếng dại dột và nhức đầu!
Tôi ký nhẹ trên đầu con em út:
– Con nhỏ nầy ăn nói đơn giản mà sâu sắc bất ngờ.
Vào buổi chiều nay là giỗ tiên thường, ngày mai mới chánh giỗ, ba má chỉ mời mọi người trong thân tộc. Tuy nhiên, một số bận việc nọ việc kia không đến. Anh Trường đi ra chợ Cái Bè hồi trưa cũng về tới. Anh mặc áo sơ mi cụt tay xanh dương sọc trắng, quần tây dài đen, giầy đánh xi-ra bóng láng. Anh ăn mặc đơn sơ mà đẹp. Tóc anh hơi quăn, mắt sáng ướt, môi tươi phảng phất một nụ cười dịu dàng. Anh ra chợ để mua thêm rượu và bánh hộp. Trước đó, từ Cần Thơ về đây, vợ chồng anh chị Hai tôi mang nhiều quà cáp của sui gia gởi tặng ba má tôi, nào là nước mắm Hòn, tôm khô con to bằng ngón tay út từ đảo Phú Quốc, lạp xưởng, chà là, bánh phồng tôm Sa Giang, khô cá gộc, món nào cũng thượng hảo hạng.
Mâm cỗ dọn lên ở hai chiếc bàn dài gồm nhiều món ăn phổ thông: như giò heo hầm măng mạnh tông, cháo vịt với thịt vịt luộc trộn chuối cây non xắt ghém, tôm càng lột vỏ kho tàu, gà nấu nấm rơm, khổ qua hầm, bánh phồng tôm ăn với chả nướng. Món hấp dẫn nhứt được nhiều người ưa thích vẫn là thịt bò quấn mở chài nướng đặt bên dĩa rau giá sống xanh tươi, non nhẫn…
Chàng rể đất Tây Đô được mọi người hỏi han ân cần. Chàng ăn nói mềm mỏng, cười đằm thắm, sắc mặt điềm đạm. Lời nói chàng vừa ngọt vừa có duyên làm mặt mày ba má tôi tươi rói. Ba tôi mỗi lần có rượu vào thì vui vẻ hay nói giỡn với các con, mà bình thường ít khi ông nói:
– Nè Trường, anh chị sui bên đó có vừa lòng con gái của ba hay không? Nó là dâu chua hay dâu ngọt?
Anh Trường nhỏ nhẹ:
– Thưa ba, tía má con coi vợ con như con gái chớ không là con dâu. Việc nhà giao cho vợ con trông coi thì đâu vào đó, có lớp lang trật tự. Đã vậy vợ con hiếu kính với cha mẹ chồng và cư xử tử tế nhã nhặn với mọi người bên chồng. Vợ con là dâu ngọt, ngọt hơn bòn bon nữa.
Chị Tuyết Loan pha trò:
– Hồi tối hôm qua, con út có nói với em rằng khi nó xẹt ngang qua phòng anh, nó nghe anh gọi chị Hai của em là: ‘’Nữ thánh của anh ơi!’’
Tôi cười:
– Chắc là con út và chị Ba toa rập với nhau để chọc quê anh chớ gì. Ai mà còn lạ gì chị Ba ưa đía, con út ưa xạo.
Tuyết Nga nguýt tôi:
– Chị đừng có hồ đồ, không có lửa thì làm sao có khói.
Anh Trường điềm đạm:
– Quả thiệt, anh có nói câu đó. Tuyết Nga không xạo đâu. Tuyết Loan không đía đâu. Hơn nữa chị Hai của em vừa là nữ thánh ở tánh hiền hậu, mà còn đẹp như nữ thần.
Tuyết Oanh và Tuyết Nga cùng hỏi:
– Còn hai đứa em thì sao?
Anh Trường cười:
– Còn hai em chỉ là hai tiên nga bé bỏng.
Tôi cười ngất:
– Bây giờ tới phiên anh vừa đía vừa xạo.
Cả bàn tiệc vui vẻ, ba tôi cười khà khà. Chị Tuyết Hồng la tôi:
– Tuyết Nhạn! Đừng có hỗn.
Và chị cũng cười đỏ mặt, gắp con tôm càng lột võ kho tàu để vào chén cơm của chồng.
Sau đó có hôm, tôi rủ ba tôi đi câu cá. Vào mùa nắng nước trong các ao, đầm trong vắt. Nắng tháng mười mà vẫn còn gay gắt. Trời xanh điểm mây trắng lơ thơ.
Cuối góc ao, ba tôi cắm chà để cho tôm làm ổ đẻ trứng. Khoảng ao còn lại điểm vài lá bông súng tròn tròn và lớn hơn cái dĩa bàn nhỏ. Vài cụm bèo giún với tai bèo tròn tròn xinh xinh xanh mướt, chùm rễ trắng ngâm trong nước.
Tôi vừa buông câu vừa mơ mộng vẩn vơ. Bởi hai con nha đầu Tuyết Oanh và Tuyết Nga hổm rày cứ theo ghẹo phá tôi, cặp đôi tôi với anh Trúc mà cả hai chỉ hỏi han chuyện trò tương đắc thôi. Nhưng hai con đó thêu dệt một thiên diễm tình cho tôi y như trong tiểu thuyết. Riết rồi tôi có cảm tưởng như anh Trúc sắp đội lốt Kim Trọng, còn tôi sắp hóa thân thành cô Thúy Kiều. Thiệt ra hai con quỉ non đó muốn có một anh rể học lực cao để tụi nó lấy le với lũ bạn. Còn tôi, suy đi nghĩ lại, tôi chưa hề biết rung động khi gặp gỡ, chuyện vãn với ảnh. Mà ảnh đâu có xấu trai; đã vậy mà ảnh còn biết chiều chuộng tôi nữa.
Cơn gió mát nhẹ thổi qua, vài chiếc lá vàng rơi xuống nước làm bầy cá lìm kìm hoảng sợ nhảy cỡn lên rồi lặn xa. Chợt tiếng hỏi của ba lôi tôi trở về thực tế:
– Sao, con gái của ba có chuyện gì buồn mà rủ ba đi câu cá ở ao vậy?
Tôi cười buồn chép miệng:
– Ba có nhớ anh Trúc, bạn con không? Con quen ảnh trong những ngày anh ấy theo đoàn sinh viên về trường con cắm trại. Mùa Giáng Sinh, ảnh trở lại Cần Thơ, ghé qua thăm nhà mình. Đã nhớ chưa ba?
Ba tôi nheo mắt, trêu ghẹo tôi:
– Con quen nhiều người quá, ba đâu biết anh nào là anh Trúc.
Tôi nhăn mặt, phụng phịu;
– Ba lại chọc ghẹo con rồi, con có quen một lượt hai người đâu? Một người còn làm con nhức đầu, hai người chắc là con tiêu tán đường quá!
Tôi ghẹo ngược lại ba tôi:
– Con có phải đào hoa như ba đâu, ba có cùng một lúc hai ba bà.
Ba tôi nghiêm giọng:
– Đâu phải lỗi của ba, tại mấy bả ve vãn ba mà. Thôi, nói chuyện của con đi, đừng móc ngoéo ba nữa.
Ba tôi là vậy. Tôi biết chỗ ngứa của ông, khi nói đôi co mà gặp chỗ nào, chuyện gì đuối lý, tôi liền đem mấy bà tình nương của ông ra thì ba tôi gạt ngang hoặc tảng lờ sang chuyện khác ngay.
Phải nói ba tôi là một lãng tử, gần như mỗi bến mỗi tình. Nghĩa là đi đến đâu, ba có tình nhân đến đó, mặc dù má và chị em chúng tôi luôn ở cạnh ba. Ba không bỏ gia đình, nhưng xa nhà năm ba ngày hoặc nửa tháng là chuyện thường. Và khi khôn lớn, tôi biết ba tôi có ba người con trai ngoại hôn. Tôi không hiểu sao mấy người đàn bà khác chịu sống giai đoạn với ba tôi như vậy? Lạ nhứt là có bà ở cùng thành phố với chúng tôi, thậm chí biết hoàn canh gia đình chúng tôi rất rõ. Có bà thì ở khác tỉnh, mà ba tôi có thời gian dạy học ở nơi đó. Phải chăng ba tôi có cái tướng dễ nhìn của người đàn ông? Hay vì ông có nghề nghiệp vững chắc? Nếu có nghề nghiệp vững chắc thì đúng, nhưng ông chi tiền rộng rãi thì tôi nghĩ là không, vì ngoài số lương ba tôi nuôi vợ năm con không thiếu thốn cũng nhờ má tôi khéo léo cần kiệm lắm rồi, hoặc thỉnh thoảng có sự tiếp tế của ngoại, tiền đâu để ba tôi cho người khác? Vậy mà cũng có bà cùng lén lút sống hờ với ba tôi.
Trong ba đứa con lớn, ba thương chị Tuyết Hồng vì tánh tình chị đoan trang thùy mị, thương chị Tuyết Loan yêu đời, liếng thoắng, nói đó rồi quên đó, không ác ý với ai, không dụng tâm tích lũy hại người, dám hận, dám buồn, dám yêu. Còn tôi thì đứa hay cãi lý, nói thẳng không sợ ba đánh đòn, lại chịu lắng nghe ba tâm sự, và khuyên ba không nên làm những chuyện có lỗi với má tôi. Ba có bà nầy bà nọ, tuyệt đối má tôi không bao giờ đề cập đến. Còn mấy chị tôi thì tránh xa hàng trăm cây số vì sợ vạ lây. Trong mấy chị em, chị Tuyết Hồng rất hợp với tôi. Có chuyện gì hai chị em tôi thường tâm sự nhỏ to với nhau. Ngoài tình chị thương em, chị luôn binh vực tôi khi bị chị Tuyết Loan ăn hiếp. Chị chịu khó lắng tai nghe lời tôi nói. Đồ ăn, bánh trái chị thường chia cho tôi nhiều hơn. Tôi nhớ một hôm mợ Ba cho một thúng sa-bô-chê già vừa mới hái. Da sa-bô-chê rám nắng vàng nâu, cuống còn xanh lá. Má tôi chia cho mỗi đứa ba chục trái, của đứa nào nấy giú mà ăn. Sa-bô-chê của ba đứa lớn để riêng trong mỗi thùng thiết cắt lở, có lót lá chuối khô dưới đáy thùng, bên trên cũng đậy bằng một lớp lá chuối khô. Má tôi còn bảo lấy cục khí đá nhỏ gói trong giấy nhét dưới đáy thùng cho nó mau chín. Ba thùng sa-bô-chê của ba đứa để gần nhau ngoài vựa củi ở mé hiên nhà. Mấy ngày sau chị Hai, chị Ba đều có sa-bô-chê chín để ăn. Còn tôi mỗi sáng đều ra thăm nhưng không thấy trái nào chín hết, trái thì cứng ngắt, trái thì mới trở mình mềm mềm chưa ăn được, vì nó hãy còn chát ngắt. Cho đến mấy ngày sau nữa, sa-bô-chê của tôi vẫn chưa chín, tôi bèn thủ thỉ với chị Tuyết Hồng:
– Chị Hai à, sao sa-bô-chê của em lâu quá mà vẫn chưa chín? Trong khi trái của chị, của chị Tuyết Loan đã chín hơn phân nửa rồi?
Chị Hai hỏi:
– Em có đếm coi còn đủ không?
– Có, em đếm còn đủ, không thiếu trái nào hết.
Chị Hai tôi châu cặp chân mày, lẩm bẩm điều gì trong miệng rồi gọi lớn:
– Tuyết Loan, Tuyết Loan đâu? Ra đây chị chỉ cái nầy cho coi nè.
Chị Ba tôi cầm hộp lon đựng cào cào vừa bắt ngoài liếp sậy. Trán, mũi chị rịn ướt mồ hôi, hai gò má đỏ thén vì nắng. Chị chạy vào ngơ ngác hỏi:
– Chuyện gì mà réo em dữ vậy, chị Hai?
– Em đổi sa-bô-chê chín của Tuyết Nhạn phải không?
Chị Tuyết Loan mở to mắt cự:
– Ai nói vậy? Làm gì có chuyện đó?
Chị Hai trừng mắt, lớn tiếng hăm dọa:
– Còn không có? Chối nữa hả? Chị sẽ méc ba, để ba xử.
Chị Tuyết Loan lườm mắt có đuôi nhìn tôi rồi nói:
– Ai bảo nó thức dậy trưa, nên em đổi trái sống của em để lấy trái chín của nó.
Nghe đến đó, tức quá tôi không nói được lời nào chỉ biết khóc ồ ồ lên. Chị Hai rầy chị Ba và khuyên dỗ tôi, cho tôi rất nhiều thứ để đền bù. Sau một hồi dàn xếp, chị Ba hứa cho tôi hết số sa-bô-chê còn lại bên thùng chị. Và chị sẽ không tái phạm ăn gian đổi chác như vậy nữa. Nhưng chị bắt tôi và chị Hai không được đem việc nầy méc với ba má.
Chị Ba tôi có nhiều việc để nói lắm. Ở trường, chị hay phá phách bạn bè, liến khỉ chẳng khác con trai. Chị leo cây, đánh u, đá cầu, chạy đua, nhảy cao, đá banh… Những trò chơi mà tôi với chị Hai ít khi dám động tới. Chị còn giở trò bày kế cho mấy đứa vật lộn để chị làm trọng tài. Mấy thầy cô giáo đều nể ba tôi là đồng nghiệp với họ ngày xưa nên luôn phạt nhẹ cho chị, hoặc là phạt những đứa khác lép hơn chị. Trong trường, đứa nào mặc quần lủng đáy, làm bài bị không điểm, đứa nào nghỉ học để đi lấy vợ, hay chồng coi mắt, chị đều biết rất cặn kẽ như người ở trong cuộc vậy. Nhưng chị có ưu điểm đánh tan sự nghịch ngợm theo tánh tình như con trai của chị: là chị học rất giỏi, môn nào chị cũng đứng từ hạng ba đến hạng nhứt. Chị không có cần cù thức khuya lơ khuya lắc học bài thi như tôi và như chị Hai, thế mà kết quả luôn trội hơn chúng tôi. Chị đã làm cho ba má tôi và nhà trường luôn hãnh diện. Năm thi vào đệ thất trường tỉnh. Chị là một trong ba đứa học sinh của trường được trúng tuyển, mà còn đậu cao trong năm thí sinh đỗ đầu xuất sắc, được chính phủ cấp học bổng nữa.
Dù chị Hai và tôi yêu thương chị Ba tôi nhiều lắm, nhưng chúng tôi chẳng bao giờ cho chị dự phần vào việc tôi và chị Tuyết Hồng đi đánh ghen cô Ba Kim để báo thù cho má tôi. Chị Tuyết Loan cũng thương yêu tôi lắm, nhưng chuyện gì kín đáo tôi ít khi cho chị biết, vì chị không kín miệng chút nào.
Nhớ lúc đó má tôi đau bịnh rề rề vì vừa bị hư thai, ba tôi thì quen với cô Ba Kim ở xóm trên. Nên ông thường lên nhà cô uống trà và ngủ đêm ở đó. Cô Ba Kim đẹp, tuổi cô ngoài bốn mươi. Cô có hai đứa con, một trai, một gái. Nghe đâu chồng cô là người Châu Đốc làm việc ở Sàigòn. Cô biết hát ca, biết đờn man-đô-lin giỏi, biết uống rượu và không ngại cụng ly với mấy ông trong những bữa tiệc như nam giới. Có lẽ vì cô biết nhiều thứ tao nhã quá, mà người phụ nữ thuở bấy giờ không cần thiết phải có, cho nên chồng cô bỏ cô vì không ưa việc cô tụ họp bọn đờn ông ái mộ cô. Sang thời chí sĩ Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống, làng thôn thanh bình thịnh vượng, cô về đây cất nhà ngói, nền lót gạch trên miếng đất của cha cô là ông chủ Tám. Đứa con trai ở với chồng cô để đi học, còn đứa con gái khoảng sáu tuổi thì đang chung sống với cô. Người trong làng còn xì xầm to nhỏ với nhau là đứa bé gái nầy không cùng cha với thằng anh nó.
Má tôi là người đàn bà chịu đựng, rất mực yêu chồng, và thương con. Lúc còn sống bà nội tôi hay la rầy ba tôi nên ông đỡ phóng túng hơn một chút. Từ lúc bà nội tôi qua đời, và biết yếu điểm nhường nhịn thương yêu của má nên ba càng làm già, không ngại ngùng chi hết. Má tôi vừa hư thai còn yếu đuối. Nhà bộn bề thợ thầy làm vườn; trái cây đến lứa hái, bao nhiên công việc trong ngoài cần có người trông nom. Ba tôi không hề hỏi han, dòm ngó tới, vậy mà má tôi chẳng chút oán than hay nửa lời trách móc ba. Bà vẫn âm thầm lo trăm việc trong ngoài. Thấy má héo hon đau buồn, tôi và chị Tuyết Hồng bày kế đi đánh ghen cô Ba Kim cho má. Dĩ nhiên, việc nầy ngoài tôi và chị Tuyết Hồng ra thì không có người thứ ba nào biết.
Chúng tôi định tối hôm sau lên nhà cô Ba Kim, tôi hỏi chị Tuyết Hồng:
– Chị Hai à, mình phải làm gì với bả?
Chị Hai suy nghĩ rồi nói:
– Mình lấy chổi chà đập bà Ba Kim, cho bả xấu hổ để bỏ ba mình.
– Như vậy cũng được, nhưng chị đập bả nghe, còn em ôm bả cho. Nhưng nếu mình cầm chổi đi đến nhà bả thì lối xóm biết, rồi bả biết, bả sẽ chạy mất.
Chị Hai tôi nói:
– À, đúng há! Hoặc bả sẽ méc ba, ba sẽ đánh mình trước khi mình đánh bả đó.
– Vậy phải làm sao? Thật khó quá! A, hay mình cắt tóc bả đi, bả mà bị cắt tóc sẽ xấu xí không dám gặp mặt ba nữa. Vả lại chiếc kéo mình có thể giắt trong lưng quần thì ai mà biết được?
Chị Hai tôi mừng rỡ, reo lên:
– ž, nhỏ nầy hay thiệt, chị nhào vô ôm bả, em cắt tóc cho lẹ tay, gọn hơ, không ai thấy, không ai biết. Thì cứ làm vậy đi, nhớ đừng để con Tuyết Loan biết, sẽ hư chuyện lớn của tụi mình.
– Em biết rồi, cứ làm như vậy nghe chị Hai.
Thế là tối hôm sau, hai cô gái cưng của ông thầy giáo Năm, đợi lúc xóm vừa đỏ đèn là xách kéo đi đánh ghen cho mẹ mình.
Tôi và chị Hai len lén đi vào cổng, rồi lần theo hông nhà ra cửa sau ngồi kế bụi chuối gần chuồng gà, chờ cô Ba Kim ra để cắt tóc. Mặt trời vừa mới lặn thì khắp xóm tối đen như mực. Bị muỗi cắn mà chúng tôi không dám đập. Vì sợ đập sẽ gây tiếng động, mọi người trong nhà sẽ nghe. Nền trời đầy sao lấp lánh, nhưng không đủ sáng để tôi thấy mặt chị tôi. Phần sợ ma, phần sợ cắt tóc bà ta, tay tôi nắm tay chị Hai thật chặt không dám buông. Có lẽ tâm trạng chị cũng giống như tâm trạng tôi, hai bàn tay chúng tôi ướt rượt mồ hôi. Đèn trong nhà vẫn còn sáng, và thỉnh thoảng tôi nghe tiếng cười giòn giã của cô Ba Kim, và giọng nói trầm trầm ôn tồn của ba tôi. Bỗng cửa sau bật mở, ánh đèn theo cửa lọt ra ngoài. Cô Ba Kim xách cái ấm, đến lu múc nước đổ vào ấm. Cơ hội đã đến, chị Hai tôi nói nhỏ:
– Chị chạy lại ôm bả, em cắt tóc bả, mau lên!
Tôi sợ quá, lưỡi tôi như bị líu, không trả lời chị Hai tôi. Chị thúc nhẹ vào hông tôi:
– Sao vậy? Sao ngồi im vậy? Chị chạy lại ôm bả đây.
Tôi quýnh lên, níu áo chị lại:
– Em sợ quá, chiếc kéo nè, chị cầm đi, em ôm bả cho.
Chị Hai đẩy tôi ra, nhưng tôi vẫn níu thật chặt áo chị:
– Em không dám đâu. Chiếc kéo nè, chị cầm đi, em ôm bả cho.
Hai chị em tôi còn đang giằn co thì cô Ba Kim đã múc đầy ấm nước đi vào nhà đóng ầm cửa lại. Chị Hai tôi tức lắm, xô tôi một cái rồi nói:
– Mầy ở đó ôm bả đi, tao đi về. Thân mầy ốm tong teo như con chàng hiu mà đòi ôm bả. Vòng tay mầy làm sao ôm hết cái eo thùng phi của bả. Thật là con quỉ phá đám!
Tôi biết lỗi làm thinh, chạy lúp xúp theo chị về nhà:
– Chị Hai đừng giận em, lần sau em sẽ cắt tóc bả.
Chị Hai tôi sẳng giọng:
– Còn có lần sau nữa hả? Thôi dẹp đi mầy. Mầy là con nói giỏi chớ chẳng làm được trò trống gì.
Tôi lủi thủi đi bên chị, nghĩ thầm: ‘’Phải là chị Tuyết Loan trong việc nầy thì sẽ được chuyện hơn mình’’.
Ngày hôm sau, ba dẫn tôi ra mấy liếp cải bẹ xanh sau vườn bắt dế. Tôi thỏ thẻ:
– Ba à, hôm qua con nghe ba nói chuyện trong nhà cô Ba Kim.
Ba tôi chưng hửng, trợn mắt lườm tôi, nhưng ông dịu giọng:
– Con đã lên nhà đó hả? Sao ba không nghe thấy gì cả? Lên đó để làm gì?
Mắt tôi không nháy và mở to, oán hờn nhìn ba:
– Con đi với chị Hai, cốt để cắt tóc người đàn bà làm khổ má tụi con.
Ba tôi khựng lại và tỏ vẻ hốt hoảng. Ba lo ngại:
– Ai bảo các con làm chuyện dại dột đó? May quá, vẫn không có chuyện gì xảy ra. Nếu tụi con bạo động, cô Ba Kim sẽ cho mỗi đứa một bạt tay thì răng cỏ tụi bây gãy hết.
Tôi cũng lớn tiếng với ba:
– Bả dám làm vậy? Bả giựt ba của má, mà còn làm dữ với tụi con sao? Bả không nể ba như má nể ba sao?
Mặt ba tôi dịu lại. Đôi mắt ba tôi đăm chiêu nhìn ra xa. Rồi ba ôn tồn nói:
– Các con nông cạn và dại dột quá. Các con đánh người ta, người ta có chịu đứng yên để các con đánh hay không?
Cha con tôi ngừng bắt dế, lại ngồi trên khúc cây mục. Ba tôi đốt thuốc hút, lặng yên vừa suy nghĩ, vừa nhìn theo làn khói thuốc trắng mỏng. Còn tôi thì tỉ tê kể chuyện tôi và chị Hai tối qua đi đánh ghen cô Ba Kim để báo thù cho má đêm qua. Ba tôi hỏi chận ngang:
– Má biểu các con đi đánh ghen hả?
– Dạ, không phải. Tự con và chị Hai thôi. Má không hay biết gì ráo.
– Bây giờ má con biết chưa?
– Con không có nói với má. Sợ má lo buồn thêm và chắc má sẽ rầy tụi con. Nhưng con không biết từ sáng đến giờ chị Hai nói chưa?
Tôi ngồi sát vào ba, thỏ thẻ:
– Ba à, con thương ba lắm, nhưng con cũng thương má. Ba không phải là người chồng tệ bạc. Nhưng ba có mèo mỡ như vậy là có lỗi với má con. Con thường thấy má khóc một mình. Tội nghiệp má mệt nhọc quá, lại vừa bị hư thai nữa. Bộ ba không biết sao? Bộ ba không thương má sao? Từ hồi con hiểu biết đến giờ, ba lúc nào cũng có một người đàn bà bên phải, một người đàn bà bên trái ở ngoài gia đình. Má vẫn không nửa lời than thở hờn giận ba.
Ba tôi đứng phắt dậy, ném điếu thuốc xuống đất, giơ tay toan tát tôi:
– Mất dạy! Hổn hào! Chuyện của người lớn ai cho tụi bây xen vào?
Phản ứng tự nhiên, tôi cũng đứng phắt lên, ngước mặt về phía ba:
– Ba đánh con đi! Từ nhỏ đến giờ con chưa bị ai đánh đòn, kể cả ông bà ngoại và ba má. Hôm nay, ba đánh con, con sẽ hận ba suốt đời. Ba dạy tụi con phải ăn ở hiền lành, đừng làm chuyện tổn đức để cho con cháu sẽ khỏi bị trả báo sau nầy. Ba đã kể ông Bình, bạn ba lấy người ta có bầu rồi bỏ. Mười mấy năm sau, con gái lớn của ông cũng bị người ta lường gạt lại như ông đã lường gạt người đàn bà kia. Ba thường nói, con gái nhờ đức cha. Xin ba đừng quên: Ba có mấy đứa con gái tuổi đang lớn.
Giọng tôi quyết liệt, cứng rắn và thẳng thừng một hơi không ngừng. Tôi nhắm mắt đưa mặt hất lên chờ ba tát tay. Không thấy động tịnh gì, tôi mở mắt ra. Ba đứng xoay lưng về phía tôi và cách xa vài bước. Ba tôi không nói lời nào. Yên lặng! Yên lặng đến nổi tiếng gió nhẹ, tiếng lá mận rơi quanh đây tôi cũng nghe được. Rồi ba tôi ngồi qụy xuống cây xoài đã cắt thành mấy khúc nằm ngổn ngang dưới đất. Ông hút hết điếu thuốc nầy đến điếu thuốc khác. Sau cùng ba chép miệng thở dài bảo tôi:
– Con hãy múc lưng lửng nửa thùng nước, đổ vào hang dế ở liếp bên kia đi. Hút thuốc xong, ba sẽ lại.
Tôi dạ rồi xách thùng đi. Lòng tôi xốn xang và ray rức khổ sở, hối hận. Tại sao tôi dám nói với ba như vậy? Có lẽ nhiều lần tôi bắt gặp má tôi khóc thầm thâu đêm. Như vậy thì làm sao tôi chịu nổi và có thể yên lặng để ba cứ tiếp diễn con đường mỗi bến mỗi tình như thuở còn thanh xuân hoài hay sao?
Sau lần tôi cãi như long trời lở đất với ba đó, ba tôi đổi hẳn tánh tình. Ông ở nhà thường xuyên phụ má tôi cắt đặt việc làm cho thợ thầy. Có lần tâm sự với tôi, ba tôi nói:
– Bây giờ ba già rồi, ba sợ không còn thời gian phụ má con chăm sóc gia đình và lo cho tương lai các con. Ba hối hận thời gian trước đã làm cho má con buồn lòng. Các con lại là con gái. Ba không tốt việc trời trả báo sẽ ứng vào các con thì tội nghiệp các con lắm!
Tôi cũng nói với ba, lòng tràn đầy hối hận:
– Con xin lỗi ba về những lời hôm trước. Con không có quyền nói với ba như vậy. Nhưng con không dằn được vì con thương má quá! Ba tha lỗi cho con nghe ba. Ba à, ba là người tốt mà, ba đã dạy con ‘’biết lỗi nhận lỗi, nhẹ tội hai phần’’. Con sẽ cầu nguyện ơn trên cho ba má, cho gia đình luôn khỏe mạnh hạnh phúc.
Ba vuốt tóc tôi cười hiền:
– Phải chi con là con trai, ba sẽ khuyến khích con đi học làm thầy kiện.
Tôi nháy mắt với ba, cười bảo:
– Con gái học cũng được vậy.
Ba sáng mắt hỏi ngay:
– Con muốn học làm thầy kiện hả?
Tôi xua tay:
– Không, không con sợ làm thầy kiện lắm.
Ba hỏi:
– Sao vậy?
Tôi cười:
– Con không muốn làm kẻ lanh miệng. Làm thầy kiện cãi bay cãi biến. Có tiền có tội mà nhờ thầy kiện thì mình trở thành vô tội. Chuyện như vậy không nói làm gì. Người không có tội trở thành có tội, cái đó thật là đáng sợ, mới là tội lỗi! Tội lỗi lắm lắm!
Và kể từ đó, tôi không thấy ba tôi đi xa năm mười ngày hoặc lên nhà cô Ba Kim như hồi trước nữa. Gia đình tôi đầm ấm hơn xưa, má vui vẻ nói cười. Và tôi cũng không còn nghe tiếng thở dài nửa đêm não nuột của má. Nhờ ba tiếp tay, trông coi vườn tược nên cây trái trúng mùa sum sê. Công việc nhà càng nhiều hơn nên má phải mướn thêm người phụ trong mùa trái cây đến lứa hái, hoặc cây đến tuổi phải vô phân, bồi gốc. Phải mua máy bơm nước tưới cây khi trời nắng hạn, chớ gánh nước tưới không xuể.
Ba tôi lên tiếng, làm tôi giật mình:
– Nè, kể chuyện anh Trúc của con cho ba nghe đi. Có phải anh chàng trắng trẻo hơi lùn, làm việc ở Sàigòn đó không? Anh ta làm nghề gì? Gia cảnh thế nào? Hình như anh ta không phải người Nam?
Tôi bẽn lẽn nhìn ba, cười nhẹ. Rồi tôi cúi mặt:
– Ba hỏi gì nhiều quá vậy? Anh Trúc là người Huế, dạy hai năm đầu cho sinh viên học trường Y, Dược. Ảnh còn mẹ, có hai chị, không có em. Ảnh du học ở Pháp về mấy năm nay.
Ba nhìn sâu vào mắt tôi e dè hỏi:
– Con gái ba thương người ta rồi phải không?
– Con không biết, nhưng ảnh lâu đến thì con trông ngóng ảnh. Đôi lúc rảnh, con cũng có nghĩ ngợi về ảnh. Ảnh rất hiền và bình dân, không như những người khác ỷ mình có địa vị mà coi trời đất không ra gì hết và tự xem mình như là cái rún của vũ trụ.
Ba trầm ngâm nghe tôi kể, còn tôi thì nhìn nét mặt ba để dò xét. Theo lẽ những chuyện nầy ở một người con gái khác, ở gia đình khác thì họ kể cho mẹ nghe, cho chị em nghe, hoặc cho bạn bè thân nghe. Còn tôi không có bạn bè nào đáng tin cậy hơn ba. Hai cô em tôi thì còn quá nhỏ. Chị Hai thì có chồng. Chị Ba Tuyết Loan thì eo ơi, tôi không dám đâu. Qua cái miệng chị ta thì các con cô, dì, chú, bác và không chừng cả làng cả nước đều biết hết. Còn đối với má tôi thì chuyện gì cũng tốt, chuyện gì cũng được, hoặc chuyện chỉ cần sửa đổi một chút thôi. Chưa bao giờ chị em tôi bị má đánh, hay la ó rủa sả tục tĩu um xùm; khác xa những người hàng xóm mắng chửi con. Chúng tôi xin hoặc đòi hỏi gì thì trăm lần như một lúc nào bà cũng bảo, không chút đắn đo:
– Các con phải hỏi ba, ba biết chưa?
Thấy vẻ dịu dàng, ngoan ngoãn, phục tòng chồng của má, ai mà chẳng động lòng? Chị em tôi thường nói:
– Tụi con hỏi má trước. Có lẽ má hiểu tụi con hơn ba. Nhưng má tôi chỉ cười hiền, vẫn bổn cũ soạn lại. Nghĩa là má lúc nào cũng dùng câu cũ rích như trái đất như sau:
– Ba bằng lòng thì má bằng lòng. Ba tụi con là người biết xa hiểu rộng. Ba con là chủ, là cột trụ của gia đình nầy. Hãy hỏi ba tụi con trước đi. Má chỉ lúc thúc ở nhà không rành nhơn tình thế sự như ba tụi con.
Tôi lại hợp tánh với ba. Tôi nghe ba nhiều và cãi lý với ba cũng dữ dội. Má tôi thường nói với dòng họ khi bà vui vẻ kể chuyện gia đình, về các cô con gái bà mà thiên hạ gọi là ‘’ngũ long công chúa’’. Má tôi nói:
– Trong mấy đứa con, có những chuyện không đứa nào dám nói với ba tụi nó, chỉ có con Tuyết Nhạn thì dám mà thôi. Con đó bình thường thì nhút nhát, ngoan ngoãn, Nhưng phải chuyện rồi thì có trời mới bụm họng nó. Nhứt là với ba nó. Ấy vậy mà ổng lại nghe nó hơn mấy đứa khác. Hai cha con nó rất hợp tánh nhau. Có chuyện gì nó cũng hay kể lể cho ba nó nghe. Ổng rất tin cậy và thương yêu nó.
Ba tôi lên tiếng kéo tôi về câu chuyện giữa anh Trúc và tôi:
– Con có hay đi chơi với nó không? Và bạn bè có ai xầm xì gì không?
– Ít lắm ba, vì con bận học thi. Còn những giờ phải đi thực tập nữa. Bạn cùng lớp nói ảnh theo con, và có đứa nói ảnh đã có bồ rồi, nhưng con dửng dưng không thấy lòng mình xao động gì hết. Hôm tháng trước, ảnh có đưa con về giới thiệu với mẹ và gia đình ảnh. Trong nhà, ai cũng chuyện vãn và niềm nở với con. Đến lúc con sắp ra về thì nghe má anh Trúc nói chuyện với con gái bả. Trong câu chuyện bà có nói câu: ‘’Vị hôn thê của con bà Hoàng xinh quá. Nhưng khổ nỗi con gái Nam thường không lễ phép’’. Câu đó làm con nghĩ ngợi nhiều, nên mới nhờ ba gỡ rối đây.
Ba tôi thay mồi vào lưỡi câu, quăng xuống nước rồi nhìn tôi cười chúm chím:
– Ba có phải bà Tùng Long đâu mà gỡ rối tơ lòng? Nhưng thôi cũng được! Vậy con muốn ba nói thật hay nói cho con vui đây?
Tôi nhăn mặt:
– Ba à, con muốn ba nói thật cho con biết con phải làm sao chớ. Có nên tiếp tục đi chơi với anh Trúc nữa không? Có gì trở ngại không?
– Ba nghĩ hiện giờ con chưa thương nó sâu đậm, nhưng lâu ngày không biết mối giao cảm giữa đôi bên sẽ ra sao. Nó có gia đình tốt. Chính bản thân nó cũng tốt. Một nơi lý tưởng cho các gia đình có quyền có thế làm sui, cho các cô gái đẹp thuộc con nhà giàu nương thân gởi phận. Còn gia đình mình thì không cân xứng với gia đình nó đâu. Địa vị nó quá cao so với địa vị của con. Con nghĩ lại có đúng không? Làm cha làm mẹ, có con ăn học cao như cậu Trúc, ai mà không kén chọn cho con trai mình một cô vợ giàu sang quyền quý? Ở đời, trái vừa tầm tay dễ hái. Trái ở xa quá, cao quá thì đừng có vói. Hụt chân sẽ té đau lắm con à! Làm người phải thức thời. Phải ‘’biết mình biết ta mới trăm trận trăm thắng’’. Ba má cho các con ăn học để tâm trí được mở mang, có nghề nghiệp cho đời mình thảnh thơi và ba má mong khi lập gia đình các con gặp được người chồng tốt, biết thương yêu vợ con. Các con hạnh phúc là niềm vui lớn của ba má rồi. Ba má không đòi hỏi ở chàng rể hay ở gia đình chàng rể gì cả. Ba nói vậy con hiểu ý ba má rồi chớ? Con hãy vận dụng sự hiểu biết và khôn ngoan của mình mà quyết định.
Ba tôi câu được con cá rô mề lớn bằng bàn tay xòe. Ông vừa gở cá bỏ vào thùng rọng nước vừa nói:
– Con cá rô mề nầy về nướng rồi dầm nước mắm có đệm xoài sống, chấm bông súng bóp sổi. Chiều nay cha con mình có bữa cơm ngon. Nhưng sắp hết mồi câu rồi, Tuyết Nhạn ơi!
Tôi kéo câu mắc cần lên nhánh cây gừa, vừa bò xuống đất vừa nói:
– Để con đi bắt cào cào nghe ba, cá ưa cào cào lắm.
Ngọn gió đồng mát rượi thổi qua làm cây lá va chạm vào nhau rào rào hòa với tiếng chim bìm bịp kêu nước lớn với âm vang rền rền xa xa. Tiếng chim trao trảo kêu ríu rít trên nhánh cây mù u gần đây, tạo thành âm thanh êm tai, dễ chịu. Ánh nắng vàng trải dài trên ruộng lúa, trải trên đám cỏ xanh rì của bờ ruộng cao quanh đìa sâu. Có nhiều cây điên điển hoa nở vàng, bóng lồng đáy nước trong veo, tôi có thể thấy cá lội từng đàn. Trên đám cỏ non, lác đác những bông hoa dại màu trắng. Màu xám của hoa bông tai. Màu tím hồng của hoa mắc cỡ. Màu thanh thanh đạm đạm của cỏ cú. Những con bướm cỏ màu vàng lục, tím tím, hồng hồng bay là đà trên hoa tìm mật. Những con chuồn chuồn xòe cánh mỏng lượn qua lượn lại. Bên kia bờ mẫu, dưới rặng trâm bầu có tiếng cười nói của nhà nông nghỉ ăn trưa. Tiếng trâu nghé ngọ đang trầm mình dưới các vũng sình gần đó. Tiếng lanh lảnh, tiếng réo gọi ơi ới của mục đồng, của trẻ con chạy giỡn trên bờ ruộng xa. Từ ngôi nhà sàn gần sau bụi tre gai, bên rạch Ông Lữ, vẳng ra giọng hát khàn khàn của bà ru cháu. Sao mà, thôn quê êm đềm và thơ mộng quá! Tôi cảm thấy lòng mình thảnh thơi nhẹ nhàng. Gánh nặng trong lòng tôi hình như được trút sạch xuống đất rồi. Tôi tin chắc như vậy, bởi: “người vui thì cảnh mới vui, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Hôm nay mười bốn âm lịch. Đêm nay sẽ có trăng tròn. Tôi nghĩ đến bóng trăng treo trên ngôi cổ tháp ở chùa Phật cuối thôn, nghĩ đến ánh trăng rọi sáng trên các mái nhà ướt sương một màu bạc lõng. Tôi nghĩ đến anh Trúc, nghĩ đến những bài thơ yêu lính chưa nhuận sắc của tôi. Tôi nghĩ đến những tấm ảnh âu yếm của vợ chồng chị Tuyết Hồng, nghĩ đến những cặp mắt si dại của những chàng thanh niên dù bị Thiên Lôi có đánh bảy búa vẫn còn sống nhăn. Tôi nghĩ, tôi nghĩ… mèn ơi, tôi nghĩ lung tung, toàn những chuyện tầm xàm bá láp. Tuổi mười bảy, mười tám vẫn còn là tuổi mộng mơ. Ngày nào mà tôi không bay lộn trên mây vài lượt, để rồi soi kiếng tôi thấy mình vừa đẹp vừa đa tình, đáng làm người yêu của một chàng chiến binh được các cô nữ sinh trong đó có tôi choàng vòng hoa chiến thắng.
Chương 3
Cả gia đình và họ hàng thắc mắc về việc tôi nộp đơn xin thi vào trường đào tạo nữ y tá. Riêng tôi, cũng chỉ biết là tại tôi thích xoa dịu vết thương thể xác của tha nhân. Vết thương thể xác, cơn bịnh thể xác có thể trị lành mau chóng. Còn vết thương lòng và cơn bịnh tâm thần thì để người giỏi về khoa phân tâm học. Tuy nghĩ vậy, tôi vẫn thấy mình chưa nắm vững nguyên nhân việc nộp đơn xin thi kia.
Khi biết mình trúng tuyển tôi nửa mừng nửa se sắt. Mừng là mình có nghề nghiệp bảo đảm cho tương lai, mình có thể bay bổng bằng đôi cánh của mình, khỏi nhờ sự che chở của cha mẹ. Song tôi lại lo lắng là mình có thể thích ứng với nếp sống mới hay không?
Chị Tuyết Loan thì cho rằng tại tôi ưa coi phim chiến tranh nhiều quá, nên đâm ra yêu lính và thích làm nữ cứu thương. Chị lục lạo mấy cuốn trong bộ sách ‘’Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến’’ của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng để chép bài ca tụng các cô nữ cứu thương của bà Mộng Tuyết. Đó là bài: ‘’Chữ Thập Hồng’’ mà chị dành tặng tôi:
Có những bàn tay đẹp dịu dàng
Bàn tay không vướng nét kiêu sang
Cũng không tô chuốt màu hồng hạnh
Mà vẫn hồng tươi vẫn nhẹ nhàng
Bao nỗi niềm riêng đành phủi bỏ
Những bàn tay ấy quyết đeo mang
Đem bao êm dịu cho đau đớn
Hàn vá lành cho những vết thương
Là ngọc l à ngà đem giữa chiến tràng
Là ngà là ngọc điểm khí hiên ngang
Là ngà là ngọc kết lên đôi nét
Chữ thập hồng tươi ánh nắng vàng
Đây một trời thương phủ chiến công
Nơi đây ve vuốt chí anh hùng
Nơi đây an ủi hồn chinh khách
Trên cánh tay in chữ thập hồng.
Mấy cô nữ cứu thương nầy hiện diện thời Việt Minh chống Pháp. Có lẽ khi tôi lớn lên thì họ đã già khú, hay mồ xanh cỏ rồi. Vả lại các cô Hồng Thập Tự thời đó chỉ được đào tạo cấp tốc theo nhu cầu chiến trường. Còn tôi, tôi phải đậu Tú tài, phải học ba năm ở trường đào tạo y tá. Tuy nhiên, bài thơ đẹp ấy vẫn làm tôi chiêm ngưỡng họ. Chị Tuyết Loan rắn mắc ghẹo tôi:
– Người ta là các cô Hồng Thập Tự, còn mầy là cô Hồng Nập Nợn.
Tôi nguýt chị con mắt có đuôi, chẩu mỏ:
– Bậy nà! Chị chờ xem, sau nầy em sẽ là một y tá giỏi. Nếu không tin chừng đó thử làm bịnh nhân của em chị sẽ biết.
– Thôi đi con quỉ, đồ mắc dịch, đừng trù ẻo tao.
Chị tôi nói xong cười ngất bỏ đi. Tôi mà nập nợn à? Còn lâu! Còn khuya! Tôi đâu có tống tình anh chàng nào, đâu có liếc mắt đưa tình với nam giới. Tôi chỉ nghịch ngầm thôi. Giờ đây sắp xa nhà tôi đang buồn thấm thía, nên đâu còn hơi sức để cải vã với bà chị hồ đồ của tôi nữa.
Có đêm tôi trằn trọc. Ánh trăng lòn qua song cửa rọi sáng hai lá màng làm tôi bồi hồi. Một con dơi bay qua cửa sổ, in bóng chập chờn trên mùng. Ngoài vườn xa, tiếng quốc kêu khắc khoải. Bên thềm tiếng dế nỉ non suốt canh nầy qua canh khác. Hương hoa trái trong vườn: Mùi trái nhãn chín cùng mùi bông sứ, mùi bông dạ lý thoang thoảng vào buồng, mùi nầy nối tiếp mùi nọ, hoặc hai mùi trộn chung. Ngoài bãi kinh dài ở côi vườn, tiếng vịt nước chim trời kêu oang oác lúc đêm sắp tàn. Ôi, tiếng đêm vùng quê ngoại, mùi hương đêm chốn gia đình tôi định cư, sau khi ba tôi về hưu dễ làm cho người có một thời sống ở thị thành buồn chán. Riêng tôi, từ thuở nhỏ sống ở quê ngoại Cái Bè, hai bà chị tôi hãy còn trẻ nên dễ dàng thích hợp với hoàn cảnh thôn quê hiền hòa và yên tịnh nầy.
May thay, khi vào học y tá và ở nội trú, tôi dễ hòa hợp với nếp sống mới, không còn lo sợ hồi hộp như trước ngày rời gia đình. Tôi có hai con bạn thân là Thu Trinh và Thúy Hiền. Con nào cũng thùy mị đoan trang trước mặt người lạ. Nhưng khi chỉ có ba đứa thì tụi nó giỡn hớt, nghịch ngợm và còn nói trây nữa. Tôi nhiều lần gắt gỏng với tụi nó. Thu Trinh điểm mặt tôi, mắng:
– Người ta đồn cam Cái Bè ngọt nhứt, gái Cái Bè dễ thương nhứt lãnh thổ Mỹ Tho. Còn mi, mi cũng ở Cái Bè từ thuở nhỏ mà sao mi chua lè, chua áy vậy?
Nhỏ Thúy Hiền là dân Đà Lạt. Nó yêu nơi sinh quán của nó là lẽ tự nhiên. Ngặt nó coi những địa danh khác chẳng ra cái thớ gì so với đất Hoàng triều cương thổ như Đà Lạt của nó. Thúy Hiền bảo tôi:
– Mi mà làm vợ thằng em kế của tao, mi sẽ nhiễm được phong độ cao sang của dân Đà Lạt.
Tôi ừ ừ chấm câu cho qua. Bởi ba đứa thân nhau, nên mấy con cùng khóa trề môi, nói hành nói tỏi tụi tôi:
– Xí, tụi nó ỷ tụi nó đẹp học giỏi nên tụi nó ưa chơi chung với nhau. Con nhỏ Tuyết Nhạn có cái mặt lì lì khinh khỉnh, thấy muốn vả.
– Con Thu Trinh thì đía ơi là đía. Đã đía thì chớ mà còn hay dúc da dúc dắc nữa.
– Còn con Thúy Hiền thì vừa ẹo vừa ra vẻ mấy bà công tằng tôn nữ xứ Huế.
Tôi may mắn được đổi trực với mấy con bạn thổ tả để về quê ăn trọn cái Tết năm nay với gia đình.
Con Thu Trinh có bồ là lính chiến tận miền Trung, Tết nầy hắn không về nên nó không cần nghỉ, muốn đổi trực với tôi. Nó bảo:
– Tuyết Nhạn, mầy muốn đổi trực chiều ba mươi sáng mùng một Tết cũng được, nhưng phải hứa với tao làm xong mấy điều kiện, nếu mầy chịu thì tao mới đổi.
Tôi mừng quýnh:
– Điều kiện gì tao cũng chịu hết, nói đi.
Nhỏ Thu Trinh cười hóm hỉnh:
– Khi mầy trở lên phải mang cho tao bánh phồng nếp, bánh phồng khoai quết với nước cốt dừa để tao ăn sống. Những thứ bánh nầy chưa nơi nào làm ngon và nổi tiếng bằng miền Lục Tỉnh.
– Chỉ vậy thôi hả? Được, tao sẽ cho mầy ăn hai thứ đó đến ngộp thở luôn.
Thu Trinh lại cười, khoe chiếc răng khểnh trông thật có duyên:
– Chưa hết đâu, đừng có mừng vội. Còn nữa đây.
– Còn gì nữa? Nói mau đi, con quỉ!
– Mầy phải làm bồ anh Hai tao. Ảnh là lính hải quân. Chánh phủ đã lựa sẵn rồi. Ảnh lại còn chơi cầm kỳ thi họa môn nào cũng thạo, cũng rành. Ảnh lại hào phóng, thanh nhã, đẹp trai, dễ thương và hiền lành, sẽ hợp với tánh của mầy lắm.
Tôi cười trả lời ngay:
– Chuyện gì thì tao hứa, còn chuyện đó thì tao phải nghĩ lại. Anh Hai mầy bảnh quá, văn võ song toàn như vậy thì tao không xứng đâu. Tao quê mùa lắm. Thôi, hãy để dành cho mấy người đẹp vốn là con nhà giàu, có quyền thế đi mầy ơi!
– Bậy, tao đã chấm mầy rồi thì mầy không được từ chối.
Thu Trinh ngồi sát vào tôi, nhẹ giọng thỏ thẻ:
– Tao thấy mầy xứng với anh tao lắm. Hôm nào ảnh về phép, tụi mình đi chơi chung nghe Tuyết Nhạn.
Tôi nhìn nó cười cười:
– Con Thúy Hiền bảo tao phải ưng em nó, mầy bảo tao ưng anh mầy. Tao khổ quá đây! Không biết phải chọn tên nào? Làm em dâu Thúy Hiền hay làm chị dâu mầy?
– Dĩ nhiên là làm chị dâu tao. Đừng ưng thằng em của nhỏ Thúy Hiền. Cái thằng cha đó “sữa” lắm mầy ơi! Thằng chả tối ngày khượi răng sâu của người ta để lấy tiền. Mầy mà ưng hắn, sau nầy trời sẽ trả báo mẹ con mầy rụng răng hết ráo, không còn một cái để ăn cơm, để cắn nó khi nó ngoại tình.
Không nhịn được hai đứa cùng cười ha hả. Chợt cửa phòng bật mở, nhỏ Thúy Hiền bước vào, mặt mày bèo nhèo như bánh thuốc vườn vì phiên trực đêm qua:
– Tuyết Nhạn bộ chưa về quê sao? Tụi bây đang nói xấu ai mà cười lớn họng vậy? Mau lên, tụi bây phụ tao sắp xếp hành lý! Thu Trinh đèo tao ra bến xe, được không? Để tao về Đà Lạt cho kịp chuyến xe mười hai giờ trưa nầy.
Tôi và Thu Trinh quên đi câu chuyện đang nói nửa chừng. Đứa thì mau lại mở va-li, lanh lẹ sắp xếp áo quần, những vật cần thiết để Thúy Hiền đem theo. Đứa thì lấy bánh trà và quà cáp đã mua để Thúy Hiền đem về tặng gia đình đặt vào giỏ xách. Chúng tôi làm rất mau, chưa đến bốn mươi phút thì gọn gàng đâu vào đó. Thúy Hiền trong nhà tắm bước ra. Trông nhỏ thật sáng mát. Cô ả mặc áo mon-tơ-gut màu huyết dụ, quần jean màu xanh nước biển bó sát. Giầy Bata xanh cùng màu quần. Tóc thề để xõa lãng mạn hàng ngày của nó được cột cao, với chiếc nơ bằng voan mỏng đỏ thắm. Những cọng tóc mây cong cong lòa xòa trên chiếc cổ trắng ngần của nó. Gái Đà Lạt thường có da trắng, hai gò má ửng hồng tự nhiên. Trông nhỏ đẹp, trẻ trung, nhí nhảnh, yêu đời làm sao! Tôi là con gái mà thấy nhỏ diện đẹp quá cũng nghe chạnh lòng buột miệng trầm trồ:
– Chà Thúy Hiền đẹp quá! Gái Đà Lạt có khác!
Thúy Hiền cười vui:
– Mi cũng vậy, gái Tây Đô đẹp nổi tiếng cổ kim mà.
Thu Trinh xen vào:
– Thôi đủ rồi, bộ tao là người vô hình hay sao mà hai đứa bây khen nhau hoài vậy? Nhỏ Thúy Hiền nghe khen phồng mũi, phải đi mau ra bến xe, nếu không kẻo trễ lại đổ thừa tao nữa.
Chúng tôi vừa cười nói vừa xách đồ đưa Thúy Hiền đi ra gần đến nơi đậu xe của Thu Trinh bên lề đường. Tôi nói:
– Thu Trinh à, mi là gái Sàigòn. Sàigòn mệnh danh là hòn ngọc Viễn Đông nên mi đẹp như hột xoàn, như cẩm thạch, như ngọc trai vậy.
Thúy Hiền cười ngất, còn Thu Trinh vừa cho nổ máy xe vừa nguýt tôi:
– Mi có im không. Ta phải chở gấp nhỏ Hiền ra bến xe, không có thời giờ tính sổ với mi, cho mi nợ đó, mai mốt sẽ thanh toán sau.
Hai đứa đi rồi, căn phòng nội trú của của chúng tôi trở nên trống vắng. Tôi hát nho nhỏ theo tiếng hát cô ca sĩ từ chiếc radio phát ra: “Trên đường đi lễ xuân đầu năm…Qua môt năm ruột rối tơ tằm…” Và tôi nhớ nhà không chịu được. Phải chi không có phiên trực đêm nay thì tôi chuồn lẹ về dưới quê rồi. Lòng tôi rộn ràng vui tươi, tôi hăng hái lôi những đồ cần dùng sắp vào va-li. Tôi nhờ cô bạn có ông chú ở Di Linh về ăn Tết mua dùm một ký cà-phê, và hộp đường cục vuông màu trắng tinh nhập cản từ Pháp mua ở chợ Bến Thành, chắc chắn ba tôi sẽ thích lắm. Phần má tôi có chiếc khăn choàng màu mỡ gà, có điểm lưa thưa những nụ hoa hồng màu nâu rất sang. Anh chị Hai và cháu sẽ về ngày mùng hai Tết, nhưng tôi không cần phải mua quà cho họ, vì đứa em nầy còn đi học, chưa có tiền mà. Chị Ba Tuyết Loan thì sẽ thích cuốn Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại chị ta tìm mua hoài các nhà sách ở Cần Thơ mà không có. Hai cô em tôi thì mỗi đứa mấy cây kẹp có nơ, mấy cái khăn tay thêu nhập cảng, một gói kẹo cam; tôi tin rằng chúng sẽ mừng rỡ, cảm ơn rối rít. Tất cả tôi cẩn thận sắp vào va li, để ngày mai ra khỏi phiên trực lúc nào thì tôi sẽ lấy đi ngay, về quê ăn Tết với gia đình, không cần phải sắp xếp quên đầu quên đuôi như nhỏ Thúy Hiền.
Chỉ ở thôn quê mới thấy Tết rõ rệt. Mọi nhà sửa soạn trong ngoài tươm tất, sạch sẽ. Sân trước vườn sau được làm cỏ, tỉa lá cây kiểng gọn ghẽ, quét dọn sạch sẽ. Các miếu Thổ Thần ngoài bờ giậu, bên mé rạch được trang hoàng, bày lễ cúng, khói hương nghi ngút. Các cây cao lớn quanh nhà được dán giấy hồng đơn hình bánh đúc mời Mộc Thần về ăn Tết. Trong, nhà từ bồ lúa, cột nhà, cái bàn, cái ghế, tấm vách, nhà bếp, cối xây… cũng dán giấy hồng đơn hình thoi tùy vật nhỏ lớn để mừng Tết. Mấy đứa nhỏ như hai cô em tôi thì rộn ràng nhứt, quần áo màu sắc tươi mới cho ba ngày tết. Còn tôi và chị Tuyết Loan thì được má may cho mỗi đứa một chiếc áo dài bằng soie Pháp nền màu vàng lục có điểm hoa hồng, lá xanh tươi thắm. Mấy năm trước, má tự mua cùng mình hàng cùng màu sắc hoặc bông hoa giống nhau cho chị Tuyết Loan và tôi. Nhưng năm nay, chúng tôi đã lớn, chị Tuyết Loan đề nghị với má:
– Má à, con và Tuyết Nhạn lớn rồi, biết chọn màu, vậy má cho tiền tụi con, để tụi con tự chọn hàng và màu áo cho mình nghe má.
Má tôi ngần ngừ, nhưng sau đó bằng lòng. Má căn dặn:
– Hai đứa phải lựa màu dễ nhìn, đừng mua hàng lụa mỏng quá, hoặc in bông hoa nhiều màu sắc sặc sỡ chói mắt, nhứt là con Tuyết Loan đó, con chớ ăn mặc lộ liễu mà thiên hạ quở.
Chị Tuyết Loan tôi mừng tươi ra mặt. Còn tôi thì nói:
– Con ít đi đâu, năm nầy không cần may áo mới đâu má, áo năm rồi còn mới tinh, mặc được mà.
Chị Tuyết Loan lườm tôi:
– Con nhỏ cù lần nầy, năm mới phải mặc áo mới cho đời thêm tươi, mầy mặc áo cũ, đời mầy sẽ cũ xì… cho mà coi. Có phải không má?
Má tôi âu yếm nhìn hai đứa con gái mình xấp xỉ tuổi đôi mươi. Bà có vẻ hài lòng, nói:
– Tuyết Loan nói đúng đó con, một năm chỉ có may mấy cái áo mới thôi mà, năm nay nhà mình lại có khách xa đến thăm nữa.
Tôi cười, hỏi:
– Ai đến nhà mình trong dịp Tết mà mình phải trịnh trọng quá vậy má? Con nghe má đã chuẩn bị mấy tháng rồi. Má à, hàng may áo dài má mua thứ gì con mặc thứ đó. Má nói với dì Tư Bồn thợ may, may theo ni năm rồi, đừng thêm thắt may chỗ eo chật quá để khi con mặc vào không cựa quậy nổi.
Má tôi cười hiền, chị Tuyết Loan xen vào:
– Của con cũng đừng may chật, may chật quá không thở nổi.
Má tôi phàn nàn:
– Mấy cô bây giờ may áo dài nhấn eo thật chặt. Vậy cũng chưa đủ. Có người còn kết dây bên trong để cột cho chặt thêm. Má thấy may rộng như áo hai con mặc dễ chịu hơn.
Sau năm học nghề, tôi trở về quê thăm nhà ăn Tết thì thấy hai cô em tôi trở thành thiếu nữ hẳn hoi. Con Tuyết Nga dù là khi bãi trường ăn Tết, nhưng đêm nào nó cũng thức khuya viết lách, rồi vò giấy vứt vào sọt rác, rồi lại viết, rồi đọc, mặt mày sật sừ, đôi mắt mơ màng chớp chớp coi không giống ai. Chị Tuyết Loan kết luận:
– Nó viết thư cho thằng mèo cưng của nó đó đa. Nó gọt giũa văn chương cho thiệt réo rắt để làm mềm lòng thằng đó. Để rồi tao phá nó một trận.
Tôi can:
– Thôi đi, chị làm ác coi chừng sẽ bị trời trả báo.
Chị Tuyết Loan chợt nhớ ra:
– Thiệt tình tao chẳng biết con mèo đực đó tên gì. Hễ mở đầu bức thơ là nó viết: ‘’Anh cưng của em’’. Rồi khi viết thư xong nó gởi cho báo Chiến Sĩ Cộng Hòa. Chắc là nó nhờ nhà báo chuyển giao?
Tôi cười:
– Vậy là người tình mộng tưởng của nó rồi chớ không phải người thiệt đâu. Chàng ta có mặt người nầy, mũi người nọ, thân hình người kia. Người nầy, người nọ, người kia toàn là kép hát bóng Hồng Kông như: Đặng Quang Vinh, Tần Tường Lâm, nào là Địch Long, Khương Đại Vệ… Nó còn muốn sáng tác thơ văn yêu lính để đăng báo nữa đó.
Chị Tuyết Loan còn than Tuyết Oanh ưa tắm rất lâu, chẳng biết nó làm gì trong nhà tắm. Mỗi khi vào nhà tắm nó mang theo gói bọc giấy nhật trình. Hai đứa tôi nhứt quyết rình coi cô Năm nhà nầy làm giống gì trong đó. Thì ra nó đem chuối xiêm chín chà lên mặt rồi ngồi chờ cho mật chuối thấm vào da mới rửa mặt. Chuyện chỉ có vậy mà nó giấu chui giấu nhủi. Còn chị Tuyết Loan muốn da mặt mịn thì rửa mặt bằng nước cơm vo hoặc xắt dưa leo từng lát mỏng đắp lên mặt, không cần phải lén lút giấu giếm ai cả.
Biết lũ em ưa săn sóc da mặt nên chị Tuyết Hồng tặng cho ba cô em ưa làm đỏm làm dáng của mình tiền để mua kem dưỡng da. Tiền đó chẳng có đứa nào làm theo lời chị dặn. Nó chui vào rạp chiếu phim, quán sinh tố, quán kem hết ráo. Rốt cuộc dưa leo, chuối chín, nước cơm vo là loại kem do vườn ruộng tặng cho họ vừa hữu hiệu vừa khỏi tốn tiền. Da mặt ai cũng mỏng cũng mịn. Vết mụn nào cũng là kẻ thù của họ, chấm tàn nhang nào cũng là kẻ địch của họ. Họ tàn sát hai thứ đó rồi xức nghệ, xức nước cốt rau răm. Thấy họ săn sóc da mặt nhọc nhằn, tôi mệt quá chừng đi!
Tôi về nhà ăn Tết cốt để gặp lại thân thích ruột rà, cùng họ hàng lối xóm. Bà chị thày lay và hai con em xí xọn chờ Tết để ăn diện. Chị Tuyết Loan đẹp dù có ăn diện thì cũng chỉ đẹp cỡ chừng đó thôi. Còn hai con em tôi đẹp một, tụi nó trây trét ra ba, bốn lần hơn. Hễ tròng cái áo đẹp nào vào thì nó tăng thêm mấy cục điệu lượm không kịp.
Tuyết Oanh sắm được loại xuyến màu tím để may áo dài. Chị Tuyết Hồng tôi tặng cho nó chiếc trâm cài bằng vàng mười tám cẩn ngọc trai để nó cài lên ngực áo. Con nhỏ điệu đà nầy cũng thừa biết mặc áo tím chỉ cài băng đô tím thôi, thì coi buồn quá, dù có thơ mộng đi nữa. Bởi đó nó kèo nài má tôi sắm thêm cho nó chiếc kiềng trơn bằng vàng 18K, một chiếc xuyến chạm hình tứ quý (mai, lan, cúc, trúc).
Con Tuyết Nga có xâu chuỗi ngọc trai do chị Tuyết Hồng tặng. Nó đòi đeo bông tai một hột ngọc trai lớn cỡ trái trứng cá. Má tôi may cho nó chiếc áo dài thiên thanh, sắm cho nó chiếc băng đô màu xanh ngọc xa phia, sậm hơn màu thiên thanh một chút.
Khi mặc thử áo dài, hai con ỏn ẻn kia soi kiếng thiệt lâu, ẹo qua ẹo lại cười duyên với bóng. Sau cùng con Tuyết Nga kết luận:
– Chị Oanh, chị tuy mập tươi mát, nhưng coi chừng đó, chị mà ăn uống luông tuồng, không giữ gìn eo co thì có ngày chị sẽ biến thành con heo thiến. Còn em, vóc dáng em thanh cảnh nên mặc sức mà ăn món ngon vật lạ.
Tuyết Oanh ngon lành:
– Mập đẹp khó kiếm, ông bà mình thường nói vậy. Tao biết tim đen tim xám của mầy rồi. Mầy sợ lu mờ u ám khi đi chung với tao chớ gì?
Tuyết Nga xí dài:
– Còn lâu em mới ganh với chị. Canh chua ngọt theo canh chua, canh cải ngọt theo canh cải. Chị ganh ghét với em thì có. Có món ngon vật lạ em ăn thả cửa, còn chị không dám ăn nhiều nên có vẻ tức tối với em.
Lựa lúc thuận tiện, chị Tuyết Loan hỏi cô ả tại sao sau khi dùng chuối thoa lên mặt, cứ ở miết trong phòng tắm. Tuyết Oanh đỏ mặt cười lỏn lẻn:
– Chị nghĩ coi, chuối chín rục mà chà lên mặt, đi soi kiếng, em thấy mình như bị con nít ọc sữa lên đầy cả mặt vậy. Em mà mang cái mặt đó bước ra ngoài sẽ bị ba má rầy la và sẽ làm đề tài cho mấy chị và con Nga nhạo báng.
Tuyết Nga săm soi gương mặt Tuyết Oanh chợt thấy chấm đỏ trên gò má trắng mịn của chị mình. Nhỏ ta mừng rỡ hét lớn:
– Mèn ơi! Mặt chị Oanh có mụn đỏ.
Tuyết Oanh trề môi:
– Sức mấy mà tao nổi mụn. Đó là vết muỗi đốt.
Tuyết Nga ngon lành:
– Muỗi đốt để lại chấm đỏ vài ngày thì mất tiêu. Cả tuần nay, em vẫn thấy chấm đỏ chưa chịu lặn mất.
Vậy là hai con mén non đó cà khịa nhau, gấu ó nhau thiếu điều xé xác lẫn nhau. Chị Tuyết Loan liếc xéo, rồi cất giọng chua áy:
– ‘’Xin can hai đàng thù nghịch, một đàng mắc dịch một đàng mắc toi’’. Tết nhứt gần tới nơi rồi mà bây dậy giặc lên, ai mà chịu cho thấu?
Tôi can gián:
– Nếu là mụn đỏ thì nó phải nổi cả giề, đằng nầy chỉ có một chấm nhỏ trên má con Oanh. Vậy đúng là nó bị muỗi đốt. Bởi thịt con Oanh không hiền… như thịt người khác, nên muỗi đốt lâu lành vậy thôi. Từ rày về sau nếu tụi bây có dấu vết gì trên mặt nên mài củ nghệ xức cho mau lành.
Lắng nghe tôi nói xong, hai con em xảnh xẹ của tôi mới chịu rút lui.
Chiều ba mươi Tết nhà tôi cúng rước ông bà về ăn Tết với con cháu thật linh đình. Ngày giỗ hoặc lễ lộc khác nếu ai vắng mặt thì được, nhưng ngày cuối năm thì không nên. Trừ trường hợp bất khả kháng, như chị Hai Tuyết Hồng có chồng rồi thì thôi. Mâm lễ vật cúng thật dồi dào, tươm tất. Giò heo hầm măng. Thịt bò, tôm xào đậu bún. Chả đùm làm bằng tôm thịt bằm trộn với nấm mèo, củ hành, bún tàu, trứng vịt gói trong nhiều miếng lá cách non đem hấp chín ăn cặp với bánh phòng tôm. Dưa giá ngâm chung với chuối cây xắt nhuyễn, hẹ lá xanh tươi, và gừng xắt chỉ. Dưa cải vàng tươi và giòn khứu còn nồng mùi cải. Hai món dưa nầy để ăn với cá thịt kho trứng. Món lạp xưởng nướng. Nem, bì cuốn chấm với nước mắm Hòn pha chua ngọt, có điểm ớt sừng trâu đỏ, dưa kiệu dưa tỏi xắt mỏng nổi trắng trên mặt. Vịt nấu khoai môn…Các món tráng miệng, và cũng là những món bánh ngọt thông thường để ăn trong ngày Tết thì có: bánh ích, bánh tét, bánh phồng nếp, bánh tráng dừa để nướng, bánh tráng ngọt, bánh phồng khoai ăn sống. Mứt bí, mứt dừa, mứt gừng, chuối khô ngào đường. Những thứ bánh kẹo không tiện làm thì má tôi mua trước Tết như: thèo lèo, bánh hộp, trà…
Trên bàn thờ Phật nhang đốt nghi ngút có bày dĩa bánh ngọt và dĩa trái cây. Bàn thờ ông bà nội thì trên dĩa quả tử trái dưa hấu thật lớn, có dán giấy hồng đơn đỏ, ở giữa mấy nhánh mai vàng cắm trong bình sành to. Bên phải dĩa chưng năm loại trái có tên: cầu, thơm, dừa, đủ, xoài. Dĩa hồng khô, chà là… Mỗi thứ bánh trái được sắp một ít trên mỗi dĩa được bày cúng trên những bàn thờ trong nhà như bàn thờ ông Tà, ông Địa, Ông Táo. Ngoài nhà thì còn có bàn thờ ông Thiên, miếu ông Thổ Thần…
Khuya đêm hai mươi tám, rạng ngày hai mươi chín trước Tết, tôi theo má tôi đi chia thịt heo để ăn Tết. Mới hai giờ sáng, má con tôi thức dậy xuống ghe tam bản. Gặp cơn nước xuôi nên chị Bảy làm vườn chèo đi thật mau. Trên sạp xuồng, phía trước mũi có đặt chiếc đèn cóc leo lét, nhiều khi gặp gió thổi mạnh tưởng đâu đèn sẽ tắt.
Trời tối mò, trên sông vắng tanh. Thỉnh thoảng, một vài chiếc xuồng chở hàng bán chợ bơi chèo gấp rút cho kịp buổi chợ cuối năm. Xa xa, xuồng câu tôm chong đèn le lói. Nước xoáy ào ào nơi hàng đáy giăng sông. Trên cột đáy có treo mấy chiếc đèn ve chai với ngọn lửa mờ mờ ảo ảo cho tàu ghe qua lại tránh không vướng đụng nhầm hàng đáy. Hai bên bờ sông đom đóm chớp tắt ánh sáng trên các cây thấp cây cao. Vẳng đâu đây tiếng gà gáy trong xóm, tiếng chó sủa vu vơ. Cơn gió cuối năm lạnh ngắt thổi qua. Tôi rùng mình vì lạnh, mặc dù đã mặc thêm áo ấm, tôi cũng kéo cái mền má bỏ theo trùm tận cổ, ngồi co ro. Nhưng khi tôi thọc tay vọc nước, thì nước sông ấm quá. Chị Bảy cởi bỏ bớt áo, tôi hỏi chị bộ không lạnh sao? Chị trả lời là đã mặc hai lớp áo, khi mới xuống ghe thì thấy lành lạnh, chèo một hồi đổ mồ hôi thì chị không còn lạnh nữa, phải cởi bớt áo ra.
Ghe ghé vào cầu bến nhà chú Tư chuyên làm heo chia cho những người quen thân trong xóm diềng ăn Tết. Ở bến có hai chiếc ghe đậu tự bao giờ rồi. Má tôi nói:
– Mình đi sớm như vầy mà cũng có người đến sớm hơn mình.
Má và tôi bước lên bờ trước, chị Bảy cột xuồng rồi lên sau. Chúng tôi đi cặp theo hông nhà, qua mấy hàng lu mái đầm chứa nước. Đầu chúng tôi chạm vào những trái cam sai quằn nhánh sát lối đi. Sau nhà chú Tư, đèn măng-sông thắp sáng trưng. Nồi nước lớn nấu sôi ùng ục. Hai con heo bị thọc huyết, một con nằm trên mấy tàu lá chuối đặt ở bộ ván gỗ tạp, được cạo lông sạch sẽ, da trắng tươi. Mấy người đến chia thịt ngồi chờ, kẻ đội khăn rằn quấn kín cổ, kẻ đội nón co ro đưa hai bàn tay vào gần bếp lửa nồi nước hong cho ấm. Con heo kia còn đang cạo lông trên sàn lãn.
Thấy chúng tôi đến, vợ chồng chú Tư niềm nở hỏi chào. Người đến chia thịt cũng vui vẻ bắt chuyện. Đó là những người quen biết sống quanh quẩn trong làng. Thím Tư gái rót mấy tách trà còn bốc khói, mời chúng tôi uống cho ấm. Và thím mời chút nữa chia thịt heo xong ở lại ăn cháo lòng. Má tôi cười cảm ơn rồi từ chối. Bà nói phải về sớm, ba ngày cuối năm còn nhiều công việc ở nhà bề bộn. Con heo làm xong được xẻ đôi, cắt làm hai thành bốn khúc. Chủ chia heo tùy khúc thịt nhiều ít, ngon dở mà định giá và cho biết đến mùa nào chủ chia thịt nhận lúa của người khách hàng. Họ không lấy tiền, họ chỉ đổi lúa, đến mùa ai không có lúa thì phải mua mà trả cho họ. Thường đổi chác như vậy chỉ trong vòng họ hàng hoặc thân thích với nhau mà thôi. Nhà chú Tư nầy không thuộc dòng họ hay thân cận gì với chúng tôi, nhưng con gái chú là lái trái cây thường mua trái của vườn chúng tôi từ mấy năm nay rồi. Vì cây nhà lá vườn nên má tôi thường bán dễ dãi. Có lời nên nhiều lúc họ còn mua cho ba má tôi gói trà tàu hay phong bánh in. Nhưng lần nào họ đem quà đến thì má tôi cũng trả tiền lại. Má tôi nói, tội nghiệp họ nghèo, con cái đông, cực khổ lắm!
Giá cả thịt heo đổi lúa do hai bên bằng lòng không có cân lượng gì cả. Cũng không có giấy tờ cầm bằng. Ở thôn quê là vậy đó, họ ăn chắc mặc dầy, lấy tình chân thật đối đãi nhau. Một nhà hữu sự cả làng đến giúp. Một nhà có việc buồn thì cả làng không vui.
Khuya đêm giao thừa, ba tôi và tôi thường chờ xem gia đình mình năm nay con gì ra đời. Nghĩa là sau mười hai giờ đêm, mọi vật im lìm. Chúng tôi lắng nghe con nào kêu trước là con đó ra đời báo tin cho gia đình tôi. May rủi của gia đình năm đó sẽ chờ vào tài bàn, đoán theo kinh nghiệm ông bác của má tôi đi tu từ thuở nhỏ. Năm nay sư cũng ngoài bảy mươi. Sư là một cao tăng hiền lành, từ tốn. Dân ở trong làng và dân các làng lân cận rất thương mến và kính trọng sư. Má tôi thì không nói làm gì, cả ba tôi là người theo Tây học và tôi cũng rất tin tưởng điều nầy.
Những người khách xa đến viếng nhà tôi ngày mùng hai Tết là vợ chồng bác Thuần, đồng nghiệp của ba tôi ngày xưa, lúc ba còn dạy học ở Long Xuyên. Hai gia đình đều ở nhà công chức. Nhà chúng tôi trên lầu dãy trước, còn bác ở dãy sau cũng trên lầu. Ba tôi mới nói nhỏ với tôi là bác đến coi mắt chị Tuyết Loan cho anh Hoàng con trai của bác đang học năm cuối sư phạm Sàigòn. Còn chị Loan tôi thì học sư phạm năm thứ hai ở Long An.
Nhà bác Thuần hiện nay ở tỉnh Vĩnh Long. Chỉ qua bắc Mỹ Thuận và đi xe lam một đổi chừng mười mấy cây số là đến xã tôi. Bởi đó, sáng mùng hai Tết, hai bác cùng anh Hoàng đến thăm, chiều mới về. Dĩ nhiên có những món ăn, vật lạ, bánh trái ngon nhứt trong ba ngày Tết để má tôi đãi khách quý.
Nào là bì cốt cuốn bánh tráng, giá sống, rau thơm. Bì cốt má tôi làm rất công phu: Thịt heo đem ram cho vàng bốn mặt, xắt nhuyễn trộn với bì và thính, nêm nếm cho vừa miệng. Thịt nuột lưng heo còn sống cũng xắt mỏng ướp gia vị, phơi nắng hoặc hơ ở bếp than cho heo héo rồi quết thật nhuyễn như quết thịt làm nem hoặc làm giò sống rồi đem trộn với bì. Chảo bắt lên lò, chờ thật nóng để bì vào đảo sơ cho săn rồi đem xuống, lúc còn nóng gói lại thành từng chiếc với lá vông nem non, bên trong bên ngoài quấn với nhiều lớp lá chuối cột lại thật chặt. Bì cốt để cách đêm thì ăn được. Bì cốt là món tuyệt hảo của nhà tôi mà ai cũng ưa, từ ba tôi cho đến hai con mén nhỏ, chỉ có tôi không ăn vì tôi rất sợ cá thịt nấu chưa thật chín. Ngoài bì cốt còn có tôm càng nướng, thịt ba chỉ trộn gỏi ngó sen. Món cù lao với nhiều đồ bổi như: Cá thác lác vò viên, gan, lòng heo, tôm tươi, còn da heo khô và mực khô được hầm mềm xắt vừa từng miếng ăn và trứng cúc luộc lột vỏ để trên mặt. Cù lao đốt bằng than hồng nên lúc nào nước cũng sôi ùng ục. Rau tần ô dìm vào nước lèo đang sôi sùng sục, lấy ra ăn cặp với đồ bổi và bún tươi thì tuyệt.
Chai rượu hồi đám cưới chị Tuyết Hồng còn để dành mấy năm nay, ba tôi cũng đem ra đãi bạn đồng liêu đến coi mắt con gái ông. Sau bữa cơm thì ba má tôi và hai bác Thuần chuyện trò ở phòng khách. Ngoài nước trà Quan Âm Kỳ Chưởng cùng bánh mứt vào ba ngày Tết, còn có loại bánh thửng, loại bánh rất khó làm vì nó đòi hỏi nhiều tỉ mỉ và công phu. Ngoài hột gà, đường bột pha chế đúng liều lượng, còn độ nóng không cao không thấp của lửa. Nếu sơ hở một chút về những đòi hỏi đó, thì bánh sẽ không trắng, không trổ đều ba tai quằn xuống, bánh trọc lóc như bánh bông lan thì còn gì là khéo và đẹp nữa? Vậy mà lúc chiều hai bác về, má tôi còn cụ bị tặng cho hai bác một giỏ xách đầy, nào xoài cát đen đầu mùa, nào cam mật, quít đường lớn trái, tươi rói. Lại còn cặp mứt bí khắc hình long phụng trắng phau làm cả tháng trước. Mà má tôi tự ngồi khắc từ cái vi, cái vẩy. Bà không cho ai làm món khéo tay nầy, vì nếu nhiều người khắc sẽ không đều tay, thì hình long, phụng sẽ mất đẹp.
Trong khi mấy người lớn uống trà thì tôi xách lồng rủ chị Loan và anh Hoàng ra hái mận hồng đào ngoài mương nuôi cá tra. Ba má tôi thường căn dặn chị em tôi và kẻ ăn người ở làm vườn trong nhà là những ngày Tết chưa cúng tất thì không được hái, câu, leo trèo, quét, giặt… và động thổ. Nhưng hôm nay ngoại lệ, vì có khách quý mà. Anh Hoàng mặt mày rạng rỡ, vui tánh, lanh lợi, lúc nào cũng nói cười tự nhiên, vui vẻ. Sau những năm học ở đại học sư phạm anh thay đổi nhiều hơn lúc còn học ở trung học. Anh ít nói, hay mắc cỡ, mỗi lần ba má anh sai đem quà cho nhà tôi, hay mượn ba tôi cuốn sách hoặc tờ báo cho ba anh. Hôm nay, anh Hoàng mặc áo dài tay màu xanh da trời nhạt, quần tây màu cà-phê sữa đậm, giầy đen đánh xi-ra bóng láng. Tay anh đeo đồng hồ vàng dây da.
Ngay lúc gia đình bác Thuần đến thì chị Loan biết ngay là vì nhà có mấy đứa con gái lớn nầy để bị chọn dâu. Chị cứ tưởng là họ coi mắt tôi. Nhưng trong khi ăn uống, câu chuyện cứ chĩa mũi dùi hướng về chị. Vỡ lẽ, chị đâm ngượng, nhưng chị tôi vốn có mười hai thần công lực mà. Lúc nhỏ trong gia đình và ở trường chị là đứa quậy phá nhứt. Tôi nghĩ anh Hoàng trẻ trung, hoạt bát sẽ thích hợp với chị. Tôi làm bộ tìm mận chín hái, tảng lờ đi chỗ khác để cho hai người có cơ hội nói chuyện với nhau. Tuy nhiên, vốn hay tò mò tôi núp khuất sau khóm tre mạnh tông để nghe lén coi họ nói gì. Anh Hoàng hỏi chị Loan:
– Tuyết Loan học ở sư phạm có vui không?
Chị tôi rất tự nhiên:
– Vui lắm, còn anh?
– Không như ý! Vì anh muốn học kỹ sư, ba anh không cho, nên đành phải nghe theo lời ông già.
Tôi nghĩ bụng: Thế là tiêu tùng rồi, nhè chị Loan mà giở giọng điệu không tự chủ không có tinh thần độc lập như vậy thì chị cho ra rìa là cái chắc! Cái gì mà chị muốn rồi đừng hòng ai cản được kể cả ba má tôi. Đến nổi đôi lúc ba tôi phải than: – Con Tuyết Loan thật bất trị.
Hai người nói cười vui vẻ, trong khi tôi hái gần đầy rổ mận. Bỗng tôi nghe anh Hoàng hỏi:
– Tuyết Loan có nhiều bạn không?
– Anh muốn hỏi Loan về bạn trai hay bạn gái?
Anh Hoàng cười duyên:
– Cả hai.
– Có nhiều chớ anh, bạn lúc còn trung học, bạn trong trường học nghề.
– Loan có chấm anh chàng nào chưa?
Chị cười giòn không chút ngại ngùng. Gặp tôi trong trường hợp nầy chắc tôi mắc cỡ lắm, và sẽ không biết trả lời sao. Chị tỉnh bơ nói:
– Chưa anh ơi, người mình không ưa thì lại thích mình, người mình để ý thì họ có bồ rồi, thế mới khổ chớ! Còn anh, có cộng chỉ số chưa?
Anh Hoàng hơi khựng vì tính thẳng thắng và cởi mở của chị tôi. Tôi thì nghĩ thầm bà nầy thiệt hết nói nổi. Ai mà dám bạo miệng hỏi như vậy được? Câu: Có cộng chỉ số chưa? Của chị là ngầm muốn hỏi trong sư phạm anh có quen cô nào chưa để sau khi thành hôn, lương của hai người sẽ cộng gấp đôi.
Khi khách khứa ra về rồi, má tôi nhỏ nhẹ hỏi chị Loan:
– Sao con? Con thấy cậu Hoàng thế nào? Có vừa bụng con không? Gia đình bác Thuần tốt lắm, Hoàng lại là con một. Trông cậu dễ thương hiền lành rất xứng đôi với con.
Chị tôi cười hì hì, nói với má:
– Thời buổi nầy cởi mở rồi má à. Mai mốt có ai coi mắt đứa nào thì xin ba má cho đứa đó biết. Anh Hoàng cũng được nhưng mẫu người nầy không thích hợp với con. Hay má gả Tuyết Nhạn cho ảnh đi.
Tôi giật mình, dẫy nẫy:
– Nói bậy, tại sao xô em vô trong đó? Người ta chỉ chấm chị thôi. Em chưa muốn lập gia đình.
– Thì mầy o bế ảnh, để dành đó. Chừng nào ra trường, nếu thích thì mầy cho ảnh cưới. Mầy ở Sàigòn, ảnh cũng ở đó, hai đứa hẹn đi dạo phố cũng vui lắm chớ.
Tôi tức muốn nghẹn cổ. Má tôi nạt chị Tuyết Loan:
– Có nín không, nói bậy nói bạ gì đây? Tết nhứt đừng để ba má rầy thì xui cả năm đó.
Chị tôi cười ngất. Tôi cũng cười. Má tôi liếc xéo chị, rồi hờn dỗi bỏ lên nhà trên. Ba tôi nãy giờ nghe hết, ông cằn nhằn:
– Chỗ tốt vậy mà con Loan không ưng. Thôi kệ nó bà ơi, sau nầy để tự nó kiếm lấy chồng, nó ưng đâu mình gả đó.
Má tôi trong lòng chắc chắn không đồng ý với ba tôi về ý nghĩ như vậy, nhưng bà không cãi lại. Ba quay sang chị Loan:
– Ba má cho con học chữ nghĩa, cho con học cái nghề để sau nầy con lập gia đình, không phải làm lụng tay chân vất vả, nhà chồng sẽ không nhìn thấp con. Ba hy vọng con là đứa khôn ngoan, biết điều, đừng làm những chuyện không nên để ba má buồn lòng. Ba hối tiếc gả chị Hai con lấy chồng sớm quá. Mặc dù bên chồng nó khá giả, có cơ nghiệp vững vàng, không phải lo ăn, lo mặc. Nhưng tội nghiệp, nó cũng cực lắm vì phải chăm sóc đại gia đình, phải lo lắng cho chồng, cho con nó nữa.
Tôi thấy nét mặt chị Tuyết Loan buồn buồn có vẻ thương cảm tâm tình của ba má tôi. Nhưng tôi biết tánh tình chị phóng khoáng. Chị thích xem tiểu thuyết có chuyện tình lâm ly bi đát, hoặc long trời lỡ đất. Nhớ có lần hai chị em đi xem phim Hải Âu Phi Xứ phóng tác theo tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Tôi nói: “Tình yêu sao mà đau khổ quá vậy? Em không thích đoạn phim cuối’’. Chị Tuyết Loan thì khen lấy khen để, và chê tôi là cọng bún thiu. Chị còn kênh cái mặt, giọng ngâm nga thấy phát ghét: ‘’Đời không đau khổ, đời vô vị. Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”. Chị thích đọc sách dịch của những nhà văn Âu Mỹ. Chị thích những truyện trinh thám, truyện đường rừng của Thế Lữ… Ấy vậy mà chị lại mê Vọng Cổ. Chị ưa nghe tuồng hát cải lương. Chị phê bình nam ca sĩ nầy có giọng mùi rệu, nam ca sĩ kia đẹp trai mà lấy vợ già ngắt. Cô đào nầy có giọng kim, cô kia đóng vai công chúa đẹp tuyệt trần. Chê các thầy tuồng dở ẹt không biết chọn vai… Tối ngày chị chỉ to nhỏ với tôi thôi, vì chị sợ nếu ba má biết được thì chị sẽ bị rầy la dữ lắm. Chị là một trong ba đứa con lớn của gia đình thường hay bị ba má tôi la mắng nhứt vì cái tánh ngang bướng của chị. Mỗi khi nằm nghe tuồng cải lương Ông Cò Quận Chín, Chuyện Tình Lan Và Điệp, Lâm Sanh Xuân Nương, những chuyện tình buồn là chị khóc mùi khóc mẫn.
Chị Tuyết Loan nhăn nhó hỏi tôi:
– Tuyết Nhạn à, mầy cũng lớn rồi, sao ba má không kiếm chồng cho mầy, cứ đem tao ra cho họ coi mắt hoài vậy? Bộ tao ế hả? Tao đã nói với má rồi, đừng có cậy mai mối chi cả. Sau nầy, nếu ưng ai tao sẽ về cho ba má biết. Họ đem trầu cau đến coi mắt tao. Tao không tệ đến nỗi phải theo không người ta đâu mà sợ.
Thấy mặt chị méo xẹo, tôi vừa tội nghiệp vừa tức cười. Tôi ỡm ờ:
– Tại chị Tuyết Loan của em vừa đẹp, vừa học giỏi, tài trí hơn nhiều cô gái khác. Bởi đó mới có nhiều người nhắm chị cho con em của họ. Ba má cũng muốn lựa cho chị tấm chồng tốt thuộc gia đình đàng hoàng. Chung qui cũng vì thương chị thôi mà. Chị phải lấy chồng trước rồi mới tới em. Nhưng em đã nói với má rồi, em sẽ không lấy chồng đâu. Vả lại, em là con bé lọ lem nên ai mà thèm coi mắt coi mũi làm chi?
Chị Tuyết Loan nghe tôi bơm ngọt cho mấy câu nên tươi nét mặt. Chị bảo:
– Thôi đi mầy ơi, đừng có nịnh bợ tao. Còn anh chàng Trúc của mầy đến đâu rồi? Tao nghe thiên hạ đồn tùm lum là hắn theo mầy dữ lắm mà.
Tôi giật mình, vì lâu lắm rồi cái tên Trúc không còn tới lui tồn tại trong tâm trí tôi như trước nữa. Tôi cũng chưa quen với người con trai nào khác. Tôi rất bận rộn. Bài vở ở lớp ngập lút đầu. Giờ giấc thực tập ở bịnh viện gần đây như chiếm hơn phân nửa cuộc sống của tôi rồi. Tôi không hiểu sao các bạn cùng khóa, tụi nó thì rảnh rang quá, đứa nào cũng có bồ. Đứa thì có kép thuộc binh chủng không quân, đứa thì có người yêu bộ binh, hải quân v.v… Đứa được yêu thì vui cười tích toác, đứa bị bồ bỏ thì khóc hu hu. Thảm nhứt là mới đây con nhỏ Bạch Yến, nghỉ cả hai tuần rồi chưa trở về học, nghe đâu tin bồ nó tử trận. Tôi không biết tại tôi bận rộn hay tại tôi chưa có duyên nợ với ai. Hoặc tại tôi thấy cái khổ hơn cái vui trong tình yêu của bạn bè mà đâm ra sợ? Chị Tuyết Loan nhìn tôi dò xét rồi lập lại:
– Sao đây Tuyết Nhạn? Mầy chưa trả lời câu hỏi của tao. Còn anh chàng Trúc văn võ song toàn của mi đâu rồi? “Típ” người như hắn là thần tượng để các cô gái chạy theo. Hãy nắm lấy cơ hội, coi chừng bị phổng tay trên.
Tôi cười buồn:
– Em không có diễm phúc đó đâu. Anh ta làm bạn thường thì được, còn bạn đời thì không. Em không nhiều thời giờ để chạy theo ảnh như chị nói đâu. Thôi bỏ đi là thượng sách.
Chị tôi chắc lưỡi:
– Mầy khó tánh quá! Người ngon lành vậy mà chê!
Chị Tuyết Loan biết Trúc. Vào dịp Giáng Sinh năm tôi học đệ nhất, anh có đến thăm tôi một lần. Tôi lắc đầu:
– Nói bậy, em chê hồi nào đâu? Người ta chê em chị thì đúng hơn. Tại không duyên nợ đó mà.
Chị tôi có vẻ không tin, nhưng nhìn tôi không tỏ gì nói dối nên chị bỏ qua.
Mùng bốn Tết tôi trở lại trường, còn chị Tuyết Loan thì sướng hơn, mãi tới mùng sáu qua cúng Tất chị mới về lại Long An, để học hết năm thứ ba cũng là năm cuối sư phạm. Quan niệm của ba tôi là: “Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay” nên chúng tôi dù là con gái cũng phải học lấy một nghề để đời sống được vững vàng hơn khi lập gia đình riêng. Cho nên từ chị Ba tôi trở xuống đứa nào cũng phải học nghề sau khi học xong trung học.
Chị Tuyết Loan ra trường được về dạy tại trường nữ tỉnh lỵ Cần Thơ, nằm trên đại lộ Hòa Bình, từ cổng chánh dinh tỉnh trưởng đi xuống. Bên phải là Bộ chỉ huy Quân Đoàn IV. Xéo xéo bên trái, dưới những tàn phượng rợp đỏ dưới nắng hè là trường chị dạy. Thẳng xuống cũng trên đường nầy, bên trái là bịnh viện dân sự Thủ Khoa Huân. Qua tường xi-măng kiên cố là quân y viện Phan Thanh Giản và kho y dược của quân y. Bên phải là đường vào trường đại học Cần Thơ. Đi thẳng theo đại lộ Hòa Bình là cầu Tham Tướng, đường vào Cái Răng, Cái Tắc, đưa về vùng quê có nhiều sông ngòi, nước ngọt quanh năm, ê hề tôm cá. Dân chúng tự do lưới chài thủy sản trời cho, ăn không hết đem ra chợ bán, hoặc đổi chác với những ghe thương hồ từ nơi khác đến. Những cánh đồng lúa chín vàng hai bên lộ đá. Những miếng vườn rộng thênh thang. Cây trái hoa màu trù phú. Người dân quê sống cảnh ấm no, an bình.
Biết tôi mến cảnh quê, Tuyết Nga ghẹo:
– Chị Nhạn thích sống ở thôn quê, mơ một mái nhà tranh có đôi trái tim vàng. Còn em, tim vàng thì em chịu lắm, nhưng nhà tranh thì em sợ lắm, em ‘’bái bai’’ liền. Em thích một căn phố lầu tại nơi thị tứ, từng dưới thì em làm cửa hàng tơ lụa, còn từng trên thì em ở với người nào tặng em quả tim vàng.
Tuyết Oanh chê:
– Giấc mơ của mầy chỉ có bao nhiêu thôi sao? Còn tao, tao không thèm tim vàng theo nghĩa văn chương trong tiểu thuyết đâu. Tao mơ anh chàng kỹ sư cầu hôn tao, làm sính lễ một sợi dây chuyền với miếng mề đai trái tim có cẩn hột xoàn. Hột nào hột nấy lớn cỡ trái chùm ruột, chiếu lóng lánh. Ngoài ra, còn có một biệt thự xây cất giữa vườn hoa hồng loại Rose Washington mùi thơm dịu nhẹ, còn có thêm một chiếc xe Huê kỳ. Hễ đã ước mơ thì phải ước mơ cho nhiều, ước chuyện lớn. Ai mà chẻ đầu mình để coi ước mơ mình ra sao, để rồi nhạo báng mình hay sao mà sợ…
Tôi lắc đầu nhìn hai con em đang sống trong mơ, thở dài:
– Tụi bây đẹp, tụi bây có quyền mơ cao. Bây mơ mấy chàng Thái tử, Hoàng tử bên Âu Châu cưới bây, phong bây làm vương phi, hoàng hậu thì chẳng ai cười. Còn tao xấu xí lại quê mùa, nên tao biết thân, không mơ ước viễn vong. Tao lấy chồng dân giả ngang hàng với tao cũng quá phận tao rồi. Tao ở vườn, có con cá lá rau sẵn, có gió mát trăng thanh sẵn, vậy là tao đủ hạnh phúc rồi. Ai cười tao không biết tiến thân, không có tham vọng thì tao chịu hết. Người như tao thì phải thua chị kém em chớ sao!
Chị Tuyết Loan mắng:
– Bộ hai con nha đầu kia chạm nọc mầy sao mà mầy sủa inh ỏi vậy Nhạn?
Tôi im miệng liền. Tuyết Nga cười:
– Em cũng chẳng đẹp như tiên hay phụng chi đó. Nhưng em thích mơ nhiều, mơ cao. Chính phủ có moi móc giấc mơ trong đầu mình ra đánh thuế đâu mà sợ.
Tuyết Oanh cười hì hì, ngâm nga hai câu thơ của cô nàng ý trung nhân của nhạc sĩ Phạm Duy:
Đừng lay tôi nhé, cuộc đời
Tôi còn trẻ dại, cho tôi mơ màng
Tuyết Nga liền sửa lời thơ của người ta, ngâm tiếp:
Đừng rầy em nhé, chị Tư
Để em mơ mộng, lừ đừ quanh năm
Chương 4
Trong hai bà chị và hai con em, đến tuổi mộng mơ có lẽ tôi thân với chị Tuyết Loan nhứt. Chị Tuyết Hồng có chồng và thuộc thế hệ trước thế hệ tôi. Còn Tuyết Oanh và Tuyết Nga thuộc sau thế hệ tôi. Chỉ có chị Tuyết Loan là cùng thế hệ tôi. Hai con em tôi có thể bàn bạc và cãi cọ với nhau. Chúng lâu lâu còn quên phận em út, xé rào, nói leo nói hổn với tôi, chớ không dám hỗn với chị Tuyết Loan. Tuy nhiên, tụi nó chỉ hổn sơ sơ, phạm thượng chút chút nên tôi sẵn lòng bỏ qua. Tôi không bao giờ tâm tình hoặc bàn cãi với tụi nó. Tôi coi tụi nó là thứ con nít con nôi, bồ hôi bồ chét, ngồi chưa vững, đứng chưa ngay, chỉ biết điệu, biết ẹo mà thôi.
Chị Tuyết Loan thường bảo tôi:
– Chuyện tình cảm vốn phức tạp. Trái tim có lý lẽ riêng của nó. Các cô thiếu nữ mà gặp anh Hoàng là cảm lăn cảm lóc liền. Còn tao, tao thấy ảnh hoàn toàn quá. Thân thể, tóc tai, áo quần, cái gì của ảnh cũng sạch sẽ thơm tho. Ảnh hiền lành, mực thước, ngăn nắp quá. Một khi tao làm vợ ảnh, tao phải gồng mình được như ảnh, mệt lắm lắm, Nhạn ơi! Tao thích đàn ông cái gì cũng xính xái, không quá chú trọng tiểu tiết, phải can đảm đứng đầu sóng ngọn gió, không sợ bụi đời, không sợ thô tục, phải sống hồn nhiên, khoan hồng…
Nghe chị Tuyết Loan nói, lúc đầu tôi định cãi lại: “Tại sao chị tự hạ mình xuống thấp đưa người ta lên cao như vậy…?” Nhưng tôi nghệch mặt ra một cách khờ ệch. Vì tôi chẳng đặt vấn đề người chồng tương lai của tôi phải như thế nầy, phải như thế nọ. Tôi nghĩ chị tôi nói đúng. Tôi rất sợ đờn ông kiểu cách, làm như mình trí thức, hiền triết, thích gần cái tốt và cái hay ho, lánh xa cái dở ẹt. Lấy chồng chớ lấy tủ sách dạy học làm người ưu tú đâu. Tuyết Nhạn nầy vốn nổi tiếng cứng đầu với ba, nên đờn ông đừng hòng làm dáng trí thức với tôi.
Khi có dịp đi Sàigòn, vợ chồng chị Hai tôi ghé qua thăm nhà một ngày. Anh chị tặng cho cả nhà quà cáp hậu hĩ. Càng sanh đẻ nhiều chị càng đẹp phốp pháp nõn nà. Mụ chị nầy càng ngày càng làm nữ thánh đậm hơn. Hễ gặp em út là chị giảng luân lý nghe mà mệt bải hoải cả người. Bởi chị hiền lành, giỏi quán xuyến việc nhà nên được chồng cưng, cha mẹ chồng thương mến nể nang. Cho nên chị thành thật muốn bốn con em cũng được như chị. Chị có cái vẻ đẹp của một mệnh phụ, hơi bệ vệ, huỡn đãi. Anh rể tôi hơi gầy, mặt hơi thỏn nhưng không mất vẻ bảnh trai. Vậy mà con Tuyết Oanh đổ hô là anh hốc hác. Con mén Tuyết Nga đi mua sắm ở đâu được một câu trây trúa để gán cho chị ruột và anh rể của mình là “Tốt mái hại trống”.
Có lần, cảnh nhà hội họp đủ mặt chị em. Chị Tuyết Hồng và chị Tuyết Loan về thăm bà ngoại đau nặng. Bịnh kiết lỵ của ngoại không ăn thua gì với các thứ thuốc kháng sinh, thuốc Stovarsol. Vậy mà ai bày cho mợ Ba tôi lấy lá mơ tam thể chưng với trứng gà cho ngoại uống vậy là hiệu nghiệm. Sau đó mợ còn lấy rau má đâm nhuyễn vắt lấy nước pha với nước dừa xiêm cho ngoại uống thêm, bịnh kiết của ngoại dứt tuyệt. Mấy cậu dì tôi không phải đưa bà đi bịnh viện để chích thuốc émetine.
Hôm đó chị Tuyết Hồng bỏ tiền ra đãi các em một bữa tã-pín-lù là gồm có thịt bò, tôm, mực, cá bông lau thái mỏng, ăn dậm thêm bún, bánh tráng, cuốn rau thơm, giá sống tùy theo ý thích của mọi người. Trong bữa ăn, chị Tuyết Hồng khuyên lũ em:
– Bây nên nhớ: Cuộc tình vợ chồng, một khi keo rã, hồ tan thì người đờn bà khó làm lại cuộc đời, còn người đờn ông muốn kiếm vợ khác dễ ợt! Người đờn bà mà ở ngoài vòng khuôn nếp là mất điểm tựa tinh thần, sẽ long bong lang bang, sẽ thả trôi thả nổi trong các cuộc phiêu lưu tình ái.
Chị Tuyết Loan gật đầu chấm câu cho vừa lòng mụ chị hay giảng “mo-ran, mo cau, mo xào, mo nang, mo chuối…” Rồi thừa lúc mụ Tuyết Hồng không để ý, chị liếc qua tôi, trề môi dài cả thước. Tôi cười ngất:
– Lấy chồng phiền phức quá. Em sẽ ở vá cho gọn.
Chị Tuyết Hồng nhìn tôi cười:
– Em càng lớn càng duyên dáng xinh đẹp, khó ở vá lắm, Nhạn à!
Sau khi ra trường chờ nhiệm sở. Tôi xin ba má qua Cần Thơ thăm anh chị Tuyết Hồng và các cháu, rồi mới thăm chị Tuyết Loan cùng một số bạn học cũ, trường xưa. Hơn bốn năm rồi, khi xong phần hai, rời trường cho đến giờ tôi chưa có dịp trở lại đây lần nào.
Chị Ba Tuyết Loan của tôi từ khi đi dạy học, có lẽ không còn thức khuya dậy sớm nên da dẻ hồng hào, mặn mà thắm tươi hơn trước, phải chăng chị thay đổi là nhờ tình yêu đôi lứa?
Bên chồng chị Tuyết Hồng nhà cao cửa rộng. Vì nể tình sui gia với ba má tôi, ông bà già chồng chị Tuyết Hồng và anh rể tôi có nhã ý mời chị Tuyết Loan ở đó đi dạy cho có chị có em, đừng ở nhà mướn cho tốn kém và nếu ở nhà một mình thì buồn lắm. Nhưng chị Tuyết Loan từ chối khéo, chỉ thỉnh thoảng đến thăm và dắt các cháu đi chơi thôi.
Chiều nay thứ bảy, hai chị em tôi ăn uống xong, trang điểm để đi dạo phố và nghe nhạc công cộng ở bến Ninh Kiều. Chị tôi mặc áo dài màu hoàng anh, cổ áo không bâu, được viền tròn. Tà áo được in lác đác bông tím lá xanh. Quần sa teng đen được thêu đục lỗ ở lai. Giầy bít mũi, nhọn gót bằng nhung được kết hai màu đen tím. Tướng đi của chị tha thướt dịu dàng. Trái với lúc chị còn học ở trung học, bà ngoại tôi thường nói: “Con Tuyết Loan không bao giờ trầm tĩnh như chị nó. Con nầy bị mụ bà nắn lộn, theo lẽ nó phải là con trai mới đúng. tánh tình thì nóng nảy, nó không bao giờ đứng ngồi ở đâu yên một chỗ. Đi thì vừa chạy vừa nhảy…” Chị đeo bông tai, dây cổ bằng hột ngọc trai trắng. Tóc chị đen huyền và óng mượt được vén gọn, kẹp bằng kẹp móc hai bên gần lỗ tai, xõa xuống nửa lưng thon tức là gần đến eo của chị. Nếu mà ngoại được thấy chị Tuyết Loan lúc nầy, thì bà sẽ nhận thấy bà nói sai về đứa cháu đẹp đài các của bà.
Còn tôi thì đã ra trường nhưng chưa đi làm ngày nào, nên dù sao cũng còn hơi hám học trò. Tôi mặc áo dài soie màu lá cẩm, ở tà áo được thêu lác đác hoa cúc vàng. Tóc tôi túm gọn trong băng-đô màu tím than buông dài về phía sau.
Nhờ sanh trưởng ở vùng sông ngòi nước ngọt thiên nhiên, nhờ ăn rau cải, trái cây được tăng trưởng bằng phân bón không pha chế chất hóa học, nhờ khí hậu hai mùa ôn hòa dễ chịu, ấm áp, không quá lạnh, không nắng cháy cho nên chị em chúng tôi không cần son phấn để trang điểm. Da chị Tuyết Loan trắng hồng, da tôi mịn màng.
Chị Tuyết Loan đưa tôi đi thăm khắp nơi trong thành phố. Và có lúc hai chị em ra vùng ngoại ô ăn hàng. Sau mấy năm xa rời Cần Thơ thân yêu nầy để đi học nghề, sau ngày ba tôi hưu trí non đưa gia đình về sống ở quê ngoại, tôi thấy phố xá giờ thay đổi quá nhiều. Nhà cao cửa rộng. Đường rộng thênh thang, tráng nhựa bóng láng. Đèn đường sáng trưng. Khu chợ đêm thêm hàng quán giăng mắc đèn màu sặc sỡ, nhứt là những nhà hàng, quán giải khát lộ thiên. Họ bán đồ ngọt với đủ thứ chè: Chè thưng, chè đậu trắng, chè đậu đen ướp lạnh. Chè đậu đen nước cốt dừa thoảng mùi lá dứa, mùi thơm bay xa dưới gió. Lại còn chè sâm bổ lượng, chè táo soạn, chè khoai môn, chè hột sen bạch quả nữa… Hàng đồ mặn thì đủ loại nào là: Bún thịt nướng, bún tôm, bún riêu… phở, hủ tíu, mì, bánh canh, các loại cháo: Cháo cá, cháo thịt, cháo lòng heo, cháo bát bửu, cháo hột vịt muối… Hấp dẫn nhứt là hàng cháo gà, cháo vịt, có mâm gà luộc, hoặc vịt luộc da mỡ bóng ngời và chùm trứng non vàng tươi nằm phơi phới bên trên.
Trời đêm, gió hiu hiu lành lạnh. Cái lạnh êm dịu dễ chịu nhờ hơi nước của vùng sông ngòi. Đi chơi khuya về ghé qua khu hàng quán để ăn tô cháo ấm, uống tách trà nóng thì tuyệt!
Bến Ninh Kièu đã được xây cất, trang trí thành công viên đẹp. Ngày xưa bến sông nầy ọp ẹp, vắng vẻ. Giờ đây nó được dựng những trụ cẩn đá hoa cương, kê những băng đá granito rải rác dọc những lối đi nhỏ. Công viên có trồng nhiều cây kiểng lạ, nhiều hoa thơm, hoa đẹp. Chiều cuối tuần có ban văn nghệ của Ty Thông Tin địa phương trình diễn văn nghệ miễn phí như: kịch, tân nhạc, cổ nhạc, tân cổ giao duyên, ngâm thơ, múa vũ… Người địa phương sành điệu kháo nhau: “Ca sĩ Kim Loan về sau đổi tên là Mộng Tuyền nổi tiếng là nhờ ca ở Bến Ninh Kiều nên có người biết đến mà lăng xê cô ta. Nhờ đó cô mới trở thành ngôi sao kịch nghệ và điện ảnh. Cả ca sĩ Băng Châu cũng vậy”.
Bên kia là trại Yết Kiêu có tường cao sơn trắng, lính gác oai nghiêm ở cổng. Đây là trại của binh chủng hải quân.
Ngay đêm đầu, hai chị em ngủ chung giường thủ thỉ thì thầm với nhau. Chị tôi cho biết chị có quen với anh Lê Hữu Toàn, sau ngày chị về dạy được mấy tháng. Anh Toàn làm công cho chủ cây xăng Shell gần nhà chị Loan ở trọ. Anh ở vào hoàn cảnh mẹ vá con côi. Má anh là bà Sáu bán nem nướng ở trong nhà lồng chợ Cần Thơ.
Theo nhận xét của tôi, chị Loan đã yêu anh Toàn đắm đuối say sưa rồi. Ba má tôi mà biết được thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Đáng ngại nhứt là chị muốn đi đến hôn nhân. Ba má tôi chắc chắn sẽ không bằng lòng, việc nầy tôi không lấy làm lạ. Thuở đó, có cha mẹ nào bằng lòng cho con gái mình vốn là giáo viên sư phạm lại đi lấy thằng bán xăng bao giờ? Cho dù ba tôi là người cởi mở theo Tây học, cho dù vấn đề môn đăng hộ đối có phần kém quan trọng hơn vào thế hệ ba má tôi thì vấn đề học lực cũng đâu kém quan trọng. Cho dù má tôi là hiền mẫu, chiều chuộng con đúng mức, nhưng việc hôn nhân là hệ trọng cho tròn đời con gái của bà. Tôi tin rằng má tôi chắc chắn không thể lơ là để chị muốn làm gì thì làm, muốn lấy ai thì lấy cho được. Còn áp lực bên ngoại và bên nội tôi thì sao? Cuộc hôn nhân theo ý chị Loan thì chắc chắn sẽ khó hơn leo lên trời! Tôi hỏi chị để dò xét:
– Chị quen với anh Toàn trong dịp nào? Đến mua xăng hay ăn nem nướng của má ảnh? Em coi bộ chị say sưa mê lú ảnh lắm rồi. Chị có ý định tiến xa với ảnh hơn nữa không?
Chắc có lẽ chị chưa biết nỗi lo của tôi, nên chị cười nhìn ngọn đèn chong, mơ màng hát nho nhỏ:
– “Biết ra sao, ngày sau…” Ta chưa trả lời cho mi được. Đó là vấn đề tương lai.
Tôi nhìn chị dò xét:
– Chị phải nghĩ suy cho kỹ. Chuyện nầy không đơn giản như bọn trẻ mình nghĩ đâu. Còn bên nội bên ngoại nữa chi. Và nhứt là chị đừng làm ba má buồn lòng.
Chị trợn mắt nhìn tôi:
– Mầy thành bà cụ non hồi nào vậy? Tao có nói tao ưng ảnh đâu. Tao cũng biết nếu tiến thêm thì việc nầy gặp nhiều trở ngại lắm. Và tao sẽ khổ dài dài. Nhưng tình yêu mà! Không so đo tính toán được. Vả lại, mầy cũng biết tánh bà chị mầy không cân phân lợi hại hoặc nghĩ ngợi nhiều như mầy. Nhưng tụi tao sẽ vượt mọi khó khăn. Mầy hãy tin đi, bà chị mầy mà!
Tôi vừa tức, vừa buồn. Tôi tức vì chị là người thông minh, nhiều người xứng đôi vừa lứa có tình ý với chị, mà chị không ngó ngàng tới. Tôi buồn vì tình yêu mà rồi đây chị sẽ chống lại hết mọi ý kiến những người trong gia đình, những kẻ thân thuộc nào mà không chấp nhận chị với anh Toàn. Và tôi lo cho tương lai hai người không biết sẽ đi về đâu? Thật trắc trở muôn phần! Tại sao biết trước những rối rắm sẽ xảy ra mà chị không tránh? Chị cứ nhào vô như con thiêu thân gặp ánh đèn. Tình yêu mạnh mẽ khiến cho người ta quên hết mọi chướng ngại vậy sao? Như biết nỗi lo của tôi, chị Tuyết Loan dịu giọng:
– Chị không lo nhiều được, Nhạn ơi! Việc đầu tiên, xin em đừng cho ba má biết, và cả chị Hai nữa. Tới đâu hay tới đó. Đến thời điểm thuận tiện rồi chị sẽ về thưa với ba má. Em là đứa chững chạc, rào trước đón sau mọi việc, cẩn thận mọi thứ, trong gia đình ai cũng tin tưởng em. Chị cũng vậy. Hãy thành thật cho chị biết, theo nhận xét của em, anh Toàn là người thế nào? Việc đó mới làm chị lưu tâm, còn mọi chuyện khác chị chưa nghĩ ngợi đến nhiều.
Chị tôi là người không sợ Trời, không sợ đất. Chị thích gì thì làm không ai cản ngăn được. Về chuyện yêu đương giữa chị với anh Toàn, chị nghĩ ngợi và hỏi tôi, chứng tỏ chị một lòng một dạ yêu anh Toàn rồi. Và trong đầu óc chị đã có dự tính cho tương lai của chị. Chỉ vì chị chưa chịu nói rõ ra thôi. Cho dù bây giờ có một trăm con ngựa kéo chị ra khỏi anh Toàn chị cũng gồng mình, mím môi trì lại. Nhưng chị lại hỏi ý kiến tôi, thật ra tôi có biết gì đâu! Yêu mà gặp nhiều nghịch cảnh như vậy sao? Vậy thì yêu làm chi? Mặt chị tôi có vẻ âu sầu lo lắng. Tôi thấy thương và tội nghiệp chị quá. Tôi cười và đổi giọng dịu dàng hơn:
– Chị chưa trả lời em, chị đã quen anh Toàn trong dịp nào?
– Mấy tháng trước. Một chiều nọ, chị đi xe đạp về nhà, đang đạp xe trên đường rộng thênh thang. Bỗng ông chạy xe lôi đạp qua mặt xe chị và quẹo ngang đầu xe gắt quá. Sợ đụng ổng, chị tránh mau làm xe đạp chị mất thăng bằng ngã xuống, móp méo hết trơn. Chân chị bị trặc đau quá không đứng dậy nổi. Ông xe lôi bỏ chạy luôn. May mà lúc đó anh Toàn đi xe đạp cùng chiều thấy rõ mọi việc, liền rược theo bắt ông xe lôi trở lại. Anh Toàn đưa chị vào phòng mạch Bác sĩ gần đó xem chị có bị thương nặng không? Rồi từ đó chị quen với ảnh.
Tôi nhìn chị cười chúm chím mau miệng chọc ghẹo:
– Thật tuyệt! Anh hùng cứu mỹ nhân. Cái chiêu của ảnh lợi hại lắm. Không chừng ảnh mướn ông xe lôi đụng chị, để làm quen với chị đó.
Chị cũng cười đập vào vai tôi, trừng mắt:
– Em coi tiểu thuyết kiếm hiệp nhiều quá rồi đầu óc méo mó. Anh Toàn không phải là người như vậy. Tại chị để ý ảnh trước mà.
– Vậy sao? Bây giờ chị mới chịu khai thật rồi hả? Chưa chi mà chị đã binh ảnh rồi. Em cũng biết ngoài cái nghề nịnh đầm, ảnh còn có giọng ca Vọng Cổ thật mùi, mà chị là khán giả ngưỡng mộ không bao giờ vắng mặt lúc ảnh ca ở Bến Ninh Kiều mỗi chiều thứ bảy nữa. Có đúng không?
Chị Loan chưng hửng, mở mắt to nhìn tôi:
– Sao em biết? Ảnh ca hay lắm, giọng ca của ảnh mùi và ngọt không thua giọng ca của Út Trà Ôn chút nào cả. Chiều thứ bảy hai chị em mình đi nghe ảnh trổ tài nghen.
Trong suốt những ngày ở Cần Thơ, tôi được đi chơi với chị Tuyết Loan và anh Toàn ba lần. Còn gặp mặt thì gần như mỗi ngày.
Anh Toàn cao ráo, khỏe mạnh, nước da trắng, cặp mắt to, sống mũi cao. Mặt mày anh thanh tú, nếu anh được sanh ra trong một gia đình có người ca hát, có nghệ sĩ môn kịch nghệ thì chắc chắn anh sẽ trở thành nghệ sĩ cải lương nổi tiếng. Anh Toàn ăn nói đàng hoàng, chững chạc, có lễ độ, không giống những người làm công thiếu học vấn khác. Anh là cựu học sinh trường trung học Phan Thanh Giản, đã đậu bằng Trung học đệ nhứt cấp, và học đến lớp Đệ nhị. Vì đi làm, và có lẽ vì máu mê văn nghệ, nên anh không chuyên tâm học hành, thi rớt Tú tài một mấy lần. Sau đó anh bỏ học luôn. Ba anh là Thượng sĩ nhứt, chết vì bạo bịnh lúc má anh còn rất trẻ. Bà thủ tiết thờ chồng, vất vả làm lụng nuôi con. Anh là đứa con hiếu thảo và kính yêu mẹ. Má anh là người thâm trầm ít nói. Nụ cười hiền của bà đi đôi với đôi mắt buồn vời vợi. Bà quý mến chị Tuyết Loan lắm. Có làm món ăn ngon, có mua được trái cây tươi tốt là bà bắt anh Toàn đem đến tặng chị ngay.
Phải chăng vì được chú ý, được ưu đãi tận tình của má con anh, lại sống xa tình cảm gia đình, nên chị Tuyết Loan nẩy sinh tình cảm lứa đôi với anh Toàn? Cộng vào đó tánh tình anh hào hiệp, rộng rãi, cởi mở, phóng khoáng. Anh là người chân thành, thân thiện với bất cứ ai nên anh dễ được cảm tình với những người chung quanh. Đối với chị Loan, anh tận tình chăm sóc lo lắng đủ mọi điều. Khi đi chơi chung, anh tỏ ra là người lớn, xem tôi như em gái ruột của mình: Săn sóc, hỏi han, dặn dò như người anh trưởng. Với những tánh tình như vậy làm sao chị Loan không thương anh mê mệt được?
Nếu tôi đem chuyện chị Loan kể cho Thu Trinh nghe, chắc chắn nó sẽ cười và nhạo tôi: ‘’Mầy được đãi mấy ly chè sâm bổ lượng, mấy tô cháo lòng ở Bến Ninh Kiều là híp mắt rồi, đâu còn thấy chỗ nào để chê ông anh rể tương lai của mầy nữa’’. Hoặc nhỏ Thúy Hiền điệu đà nói theo giọng nửa Bắc nửa Trung của nó: ‘’Có zậy hè! Nghe mi kể ta muốn bay về bên nớ để xem mặt mũi bạn trai của chị mi ra răng? Có người trượng phu hảo hớn như zậy sao? Người chi mà siêu phàm lọa rứa! Hắn như rứa thì là phù thủy, có nhiều ma lực ngấm ngầm. Phải đề phòng mới được. Coi chừng hắn bỏ chị mi vì bị các cô khác cám dỗ đó…’’.
Sau khi qua thăm chị Loan về thì chẳng bao lâu, tôi đi nhận nhiệm sở ở Mỹ Tho, một thành phố nhỏ hiền hòa có trái ngọt cây lành. Ở đây, tôi có mấy người bạn cùng sở. Chị Diệu Tâm có đứa con gái ba tuổi tên Chim Bồ Câu rất dễ thương. Chị sống trong cư xá của bịnh viện, chỉ cách hàng rào là đến chỗ làm. Tôi thì ở nhà mướn với Vân Anh quê ở Cả Tàu (Sa Đéc), Ánh Ngọc quê ở Mõ Cày (Bến Tre). Mỗi lần đi đâu xa về, tôi hay mua quà cho Chim Bồ Câu. Thỉnh thoảng, tôi dắt nó đi chợ ăn quà, đi xem chiếu bóng, sắm cho nó đôi giầy hay chiếc nón. Con bé khôn ngoan và dễ thương làm sao! Nó cũng quyến luyến tôi lắm. Đêm nào chị Diệu Tâm trực, không ai trông chừng thì chị đưa nó đến ngủ với tôi.
Bé Chim Bồ Câu không có cha. Chị Diệu Tâm kể rằng ba nó ngày xưa học cùng lớp với chị khi cả hai còn đeo đuổi bậc Trung học. Sau đó chị học y tá, anh ta học sư phạm. Ra trường, hai người ở hai tỉnh xa. Anh ta nghe lời cha mẹ lấy vợ giàu có ruộng vườn bề bề. Thằng cha trời đánh đó bỏ chị lúc chị mang thai ba tháng. Gia đình chị phiền trách quở mắng vì đứa bé vô tội không cha. Chị thở dài:
– Tuyết Nhạn biết không? Mình đành bị gia đình từ bỏ để giữ lấy đứa bé nầy. Nó vô tội mà. Mình là đứa con bất hiếu, dám bỏ cha mẹ, trời sẽ không dung, đất sẽ không tha.
Rồi chị nghẹn ngào không nói tiếp được. Giận kẻ bạc tình, tôi hằn học an ủi chị:
– Không sao đâu, rồi đây ba má chị sẽ hiểu và thương hai mẹ con chị. Chỉ hận thằng cha gà mổ, ó đâm đó vô trách nhiệm mà thôi. Thế nào hắn cũng bị trả báo, hắn sẽ bị vợ bỏ, què, lết, sứt, mẻ, cùi, đui cho mà coi. Chị đừng lo,Trời sẽ đoái hoài tới chị, sẽ cho chị sau nầy gặp người tốt bụng hơn hắn nhiều.
Chị Diệu Tâm cười héo hắt:
– Mình còn gặp được người đàn ông tốt sao? Bị tên rồi thấy ná cũng sợ. Thôi, phần số mình hẩm hiu, mình chỉ lo làm nuôi con khôn lớn, dạy dỗ nó nên người. Dạy nó đừng nhẹ dạ để không gặp cảnh khổ như mẹ nó là đủ rồi. Không nghĩ ngợi xa xôi nữa, Tuyết Nhạn ơi. Cảm ơn Tuyết Nhạn có lời an ủi mình.
Chiều thứ sáu mưa rơi tầm tã. Tôi mặc áo mưa hai mặt (bên trong màu kem bên ngoài tím hoa cà), che dù xanh đi dưới mưa dọc theo Đại lộ Hùng Vương để về nhà trọ. Mưa rơi đều đều càng lúc càng nặng hột . Một vài chiếc xích lô chạy cùng chiều mời tôi đi xe. Tôi lắc đầu từ chối và tiếp tục bước chầm chậm trong mưa.
Từ lúc nhỏ sống ở quê ngoại, tôi rất thích nhìn mưa, nghe tiếng mưa rơi. Tiếng mưa ào ào vọng từ xa. Mưa rạt rào trên mái lá nhà bếp của ngoại. Tiếng mưa rơi trong chiếc thau nhôm. Tiếng mưa rơi trong vịm sành dưới mái hiên. Tiếng mưa rơi xuống ao cá sau hè… Mọi tiếng mưa rơi có âm điệu riêng biệt.
Bà ngoại tôi thỉnh thoảng nhắc chuyện cũ có dính dáng đến mưa. Cứ mỗi lần trời chuyển mưa, là tôi chạy tìm kiếm cái vịm, rồi è ạch dời để dưới mái hiên. Lúc đó tôi còn nhỏ lại bịnh hoạn ốm yếu, lôi không nổi cái vịm. Rồi tôi loay hoay thế nào mà té chúi nhũi, đầu úp vô vịm, chổng cẳng lên trời la khóc om xòm. Từ đó ông ngoại dặn mọi người trong nhà không được dời cái vịm đi chỗ khác. Để dành cho tôi nghe âm thanh mưa rơi vào vịm. Tiếng mưa rơi làm cho tâm hồn tôi nhẹ nhàng êm ái và bao muộn phiền dễ dàng tan biến. Thuở còn học ở Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ), chiều nào tan trường mưa rơi thì tôi và cô bạn hay dầm mưa đi trên Đại lộ Hòa Bình, có lần tôi bị bịnh cúm cả tháng tưởng chết. Nhưng tôi vẫn không chừa, vẫn thích đi dưới trời mưa.
Về đến nhà, tôi thấy chị Tuyết Loan co ro đứng trước cửa chờ tôi. Đầu cổ áo quần chị ướt nhem vì mưa tạt. Bỗng dưng chiều hôm đó chị qua Mỹ Tho thăm tôi mà không báo trước. Vân Anh và Ánh Ngọc về thăm quê hồi trưa. Cửa nhà khóa kín nên chị không vào được. Chị đến bất ngờ quá, trong nhà không có gì ăn ngoài mấy trái dưa leo héo queo và hũ chao còn hơn phân nửa. Món nầy luôn có trong tủ bếp, để dành cho cả bọn hôm nào lười biếng nấu nướng. Hoặc nửa đêm nghe bụng cồn cào thì có thức ăn ngay để mà dằn bụng với cơm nguội. Tôi là đứa ăn món nầy nhiều nhứt, vì một lý do rất dễ hiểu là tôi vừa không biết nấu ăn lại vừa làm biếng.
Mưa đã tạnh. Thành phố đã lên đèn. Chúng tôi rủ nhau ra ngoài ăn tiệm. Đường nhựa bóng láng sau cơn mưa. Phố xá vắng người. Một vài chiếc xích lô chở khách chạy mau rồi mất hút sau ngã quẹo. Những lớp lá rơi trong cơn mưa chiều còn ướt nhẹp nằm ngổn ngang trên mặt lối đi. Đèn đường vàng vọt, trụ đèn đứng chơ vơ lạnh lùng.
Chị Tuyết Loan lúc còn đi học được bạn bè gọi là con chim chìa vôi vì chị líu lo suốt ngày. Tối nay chị trở nên ít nói, suy tư, trầm ngâm. Tôi định nói vài câu ghẹo chị, nhưng trông mặt chị buồn áo não nên lại thôi. Khi hai chị em ăn món mì xào đồ biển theo kiểu mì Hải Nam ở tiệm xong, tản bộ về nhà. Tôi nhìn chị dò xét, rồi e dè hỏi:
– Em thấy chị đến thăm em không bình thường. Đâu phải thời gian dài hạn chị được nghỉ hè. Cũng chưa đến lễ Bắc mà. Chị có chuyện gì, hãy cho em biết đi. Hay là ba má biết chuyện anh Toàn với chị rồi? Hoặc hai người có chuyện gì không vui?
Chị tôi vẫn làm thinh. Tôi sợ chị nghi tôi tiết lộ chuyện bí mật của chị nên vội phân trần:
– Từ hôm qua thăm chị về, sau đó em đi nhận nhiệm sở. Tuy em có ở nhà thời gian ngắn, có về thăm nhà mấy lần, nhưng em không có hở môi về chuyện chị với anh Toàn đâu.
Chị tôi thở dài thườn thượt, đôi mắt u buồn. Chị dịu giọng:
– Chị có nghi nan gì đâu. Dù em có nói cũng chẳng sao, chuyện gì đến sẽ đến. Chị không e dè nữa.
Tôi nhìn chị vừa ngạc nhiên vừa hờn giỗi. Tại sao chị thốt ra những lời như vậy? Trong thâm tâm chị, còn có ba má tôi nữa không? Tôi vẫn biết thời bây giờ con gái có thể tự do chọn người chồng lý tưởng, nhưng cũng phải thông qua sự đồng ý hay không của cha mẹ chớ. Tôi vụt nghĩ: ‘’Phải chăng mình chậm tiến. Mình cổ lỗ hủ như bạn bè thường chế nhạo?”.
Quan niệm của tôi là mình chọn người yêu theo ý mình. Tôi không thể chấp nhận người đàn ông con trai một lúc đeo dính hai ba người phụ nữ, hoặc luôn thay đổi tình nhân. Tôi cũng không phải là người đàn bà con gái thay đổi tình nhân như thay đổi áo. Trên đời nầy, gặp một người mình thương và được họ thương lại là một điều hết sức khó khăn. Khi chọn ai đó làm chồng rồi thì tròn đời mình không nên thay đổi.Và ngược lại đối tượng kia cũng vậy, hai người chung sức để lo cho gia đình, lo cho tương lai con cái. Có những người vợ tối ngày cứ bận bịu chuyện ghen tương thì mệt quá! Gia đình không lo quán xuyến, cha mẹ không còn tâm trí để chăm sóc dạy dỗ con! Chỉ trừ trường hợp bất khả kháng, chồng hoặc vợ qua đời. Hoặc cả hai không thương yêu nữa thì cả hai phải thành thật nói cho nhau, rồi đường ai nấy đi. Sống chung thì không được lừa dối nhau. Tôi không chấp nhận người vợ hoặc người chồng phản bội. Tôi không thích người chồng có nhiều vợ, nhiều mèo như ba tôi. Nhưng việc lựa chọn người chồng là quyền của mình, còn việc hôn nhân phải do cha mẹ có bằng lòng hay không. Tôi muốn nói ngày nào đó, tôi có người yêu thương định đi đến hôn nhân nhưng ba má tôi không bằng lòng, dù tôi thương yêu chàng lắm thì tôi phải tìm coi tại sao, khuyết điểm nào để ba má tôi từ chối không chấp nhận? Tôi sẽ bồi đắp, sửa chữa, khắc phục để hai bên hiểu nhau mà vui lòng chấp nhận việc tôi yêu cầu. Đó là thiển nghĩ của tôi. Nên khi nghe chị Tuyết Loan nói chuyện buông xuôi, có vẻ bất cần, tôi cảm thấy ghét chị quá đi. Chị Tuyết Loan nói bằng giọng đẫm nước mắt làm tôi giựt mình:
– Anh Toàn đi mất rồi!
Tôi chưng hửng hỏi:
– Đi mất là sao? Sao lại đi mất? Hai người giận nhau rồi ảnh bỏ đi hả?
– Không phải.
– Vậy tại sao ảnh bỏ đi? Đi với ai? Mà đi đâu?
– Không ai biết ảnh đi đâu, kể cả má ảnh.
– Trời đất! Thiệt vậy sao? Tại sao chị biết má ảnh không biết con bả đi đâu?
Chị Tuyết Loan thiểu não:
– Thường thì anh Toàn ngủ đêm ở chỗ bán xăng. Sau hai ngày không thấy ảnh đi làm, ông chủ tưởng ảnh bịnh nên cho người đến nhà tìm. Ảnh không về nhà, nên má ảnh đến hỏi thăm coi ảnh có nói với chị là đi đâu không? Tới chừng đó chị mới hay ảnh đi mà không nói cho má ảnh biết.
Tôi vừa ngạc nhiên vừa suy nghĩ. Lạ thiệt, đi đâu thì nói chớ, đâu phải còn con nít nữa mà trốn đi? Hay anh ta trốn đi với cô gái khác? Nhưng vô lý, giữa chị Tuyết Loan và anh ta về mặt pháp lý thì có dính dáng gì đâu mà sợ tội vạ? Chỉ có vấn đề tình cảm thôi. Lạ thiệt! Với người yêu mà cũng không nói mình đi đâu thì không chung tình chút nào! Gặp trường hợp của tôi thì không cần do dự gì cả, tôi sẽ bỏ ngay. Chưa chi mà anh ta đã chơi trò mất tích như vậy! Tương lai hai người sẽ đi về đâu nếu anh ta muốn đổi dạ thay lòng? Tôi rủa thầm: ‘’Đồ cái thứ cà chớn khó ưa!’’. Nhưng tôi nghĩ đi rồi nghĩ lại. Theo tôi nhận xét, anh Toàn không phải là hạng người dễ dàng đổi thay, phụ bạc. Anh nói cười hào sảng, chững chạc hơn những thanh niên ở lứa tuổi với anh. Anh lạc quan, chân thật, có tâm địa chơn chất của đa số người dân hiền miền Lục Tỉnh. Anh rất hiếu thảo và kính yêu má anh. Bà cụ lại là người chung thủy với vong linh chồng, hy sinh cuộc đời son trẻ của mình để lo cho con. Khi ba anh chết bà chỉ mới hai mươi sáu tuổi thôi, đang còn ở lứa tuổi xuân sắc và rất nhạy cảm với yêu thương. Đôi lúc tôi nghe anh tâm sự:
– Tuyết Nhạn biết không? Sau nầy nếu có điều kiện anh sẽ học lại. Anh nghỉ học là tại anh muốn phụ giúp má anh trong việc mưu sinh. Anh không muốn má anh cực nhọc vì anh cả đời.
Tôi nghĩ đó không phải là lý do chính đáng nên thẳng thắn nói:
– Em nghĩ việc đó anh chỉ nói đúng nửa phần thôi.
Anh Toàn lấy làm lạ:
– Tại sao vậy? Còn nửa phần kia là gì?
Tôi nghiêm mặt:
– Theo em nghĩ, còn nửa phần kia vì anh ưa cải lương, ưa Vọng Cổ. Ý của anh là muốn tiến thân lập nghiệp bằng con đường nầy. Có đúng không?
Anh cười tươi nhẹ gật đầu thú nhận:
– Anh có nghĩ đến, nhưng khó thành công lắm. Vì giọng ca anh không bằng nhiều người khác.
Tôi nói:
– Không bằng nhiều người khác, nhưng anh đã hơn những người khác mà. Anh thử tìm thầy có kinh nghiệm chỉ dạy, luyện giọng coi, em tin rằng việc kịch nghệ cầm ca đối với anh sẽ không khó khăn lắm đâu. Kiếm ra tiền được hay không lại là vấn đề khác. Muốn làm ra tiền bằng nghề hát xướng ngoài có giọng ca thiên phú, anh còn phải nổi tiếng nữa. Cho nên ca hát vui để giải trí cho mình thì dễ, còn kinh doanh trong việc nầy thì mấy ai biết được tương lai đời mình sẽ đi về đâu?
Lúc ban đầu chị Tuyết Loan giới thiệu anh Toàn là bạn trai của chị. Tôi ghét anh ngay: Đàn ông gì mà không ưa văn thơ, không nghiên cứu văn học, văn hóa. Trong hộc tủ nhà anh toàn là những tập sách bài ca vọng cổ, tuồng cải lương như: Dương Quý Phi, Đường Minh Hoàng, Sơn Nữ Phà-Ca, Thuyền Ra Cửa Biển, Nấm Mồ Vô Chủ, Đoàn Chim Sắt… Đi đâu, hễ rỗi rảnh, anh cũng ê a mấy câu ca vọng cổ, cùng các bài bản ướt át du dương. Có khi đắc ý quá, anh quên còn có những người chung quanh, lớn họng rống lên, gân cổ nổi đếm được bao nhiêu sợi, và chân tay đụng đâu cũng đánh nhịp. Nhà anh treo đầy hình ảnh đào kép cải lương nổi tiếng mà anh ngưỡng mộ. Thỉnh thoảng, tôi theo anh và chị Loan đi ra ngoại ô chơi, gặp buổi trưa nắng mà nghe anh mùi mẫn mấy câu Vọng cổ là tôi buồn ngủ muốn chết. Thế mà không biết sao chị Loan yêu thương anh mê mệt như vậy? Hình ảnh nầy, điệu bộ nầy, trong họ hàng nhà tôi không bao giờ có ai.Tôi cũng ít khi thấy ở ngoài đường.
ž, mà chị Tuyết Loan cũng khoái nghe Vọng Cổ lắm mà! Thật ‘’nồi nào úp vung nấy’’. Tôi cũng nhận thấy anh Toàn rất yêu thương chị Tuyết Loan. Chị tôi là người con gái nết na, có nghề nghiệp vững chắc, lại có nét duyên dáng dễ nhìn. Bao nhiêu chàng trai trẻ có tài, có địa vị hơn anh Toàn mà chị không chọn, mà lại chọn anh, trước bao nhiêu trở ngại của gia đình ở phía bên tôi. Người con gái như vậy bộ anh dễ tìm lắm sao? Tôi cũng nghĩ không ra vì sao anh Toàn mất tích? Chị Loan qua tối thứ sáu, ở chơi với tôi đến chiều chủ nhựt mới trở về Cần Thơ để sáng thứ hai đi dạy lại.
Vào sáng thứ bảy, hai chị em đi dạo phố. Thấy chị buồn, tôi rủ chị đi xem phim Tàu rồi đi ăn cháo vịt. Tôi xúi chị ăn đầu vịt để xả xui. Tôi không biết cái xui của chị sau khi ăn đầu vịt có được xả như lời đồn của thiên hạ không? Nhưng tôi muốn làm gì đó cho chị vơi đi nỗi đau ấm ách trong lòng. Tôi đưa chị đi xem bà đồng nổi tiếng ở Đạo Thạnh, gần chợ Trung Lương, cách thành phố Mỹ Tho chừng bốn năm cây số. Người ta gọi đó là hồn cô Mười Hai nhập vào người đàn ông làm nghề thợ mộc ở bên Đạo Ngạn. Ở Ngã Ba Trung Lương đến Đạo Ngạn am cô ta, chúng tôi phải đi đò qua con sông Bảo Định. Nhưng khi được lộc thánh, anh thợ mộc bỏ nghề, bỏ xã Đạo Ngạn để qua Đạo Thạnh lập am thờ vong linh cô Mười Hai, để đoán việc quá khứ tương lai cho khách đến am.
Thiệt ra, tôi và chị Tuyết Loan không tin đồng cốt, bói toán lăng nhăng. Nhưng khi nghe tôi nói bà y công làm trong bịnh viện tuần rồi đi cầu hồn về kể lại hay lắm, và chị Tuyết Loan đang lúc rầu rĩ lo lắng, nên chị bằng lòng cùng tôi thử đi coi ra sao.
Đường từ trung tâm thành phố đi Trung Lương xe lam, xe thổ mộ chạy đi chạy về dập dìu. Am là một căn nhà một gian hai chái khá rộng rãi, khang trang nằm trên bến đò Đạo Thạnh, dưới bóng mát cây sung tàn lá sum sê, trái chín đỏ, trái xanh dính đeo từ ngọn xuống tận gốc.
Cô đồng là người đàn ông mình voi xương cối đạp như lời mấy bà nhà quê thường dùng cho những người có dáng dấp vạm vỡ, ô dề, cục mịch. Khi lên đồng anh ta mặc áo dài, đội chiếc khăn vành màu vàng theo kiểu cô dâu. Mặt mày anh ta thoa son trét phấn lòe loẹt, anh ta đeo nữ trang nửa thiệt nửa giả rườm rà. Hôm đó, không mấy đông khách có lẽ vì ngoài chợ tỉnh có bang Khách Trú như bang Quảng Đông, bang Phước Kiến, bang Triều Châu làm lễ rước cộ bông ở chùa Bà (thờ Đức Thiên Hậu), có mướn gánh hát Quảng Đông về diễn tuồng Sở Vân Cứu Chúa.
Vừa thấy mặt cô đồng, tôi vội bụm miệng để khỏi cười thành tiếng. Thần thánh gì mà mắt liếc ngược liếc xuôi, lẳng lơ, dúc dắc hết chỗ nói! Miệng cố tạo nụ cười cho duyên dáng cho đẹp để lòi hàm răng vàng khè mọc mất trật tự như hàng rào ấp chiến lược. Cái giọng thì the thé, ỏn ẻn ở một người hình vóc vừa thô lổ vừa cục mịch thiệt là khôi hài trái trắc. Cô Mười Hai liếc qua chị tôi cất giọng dẻo quẹo:
– Nè cô Ba Cần Thơ, tôi biết bây giờ lòng cô đang rối rắm vì cậu Đực bán xăng xách va-li đi mất, không để lại cho má cẩu và cô một bức thơ giã từ. Có đúng không?
Hai chị em tôi nhìn nhau bàng hoàng, sửng sốt. Tuy nhiên, chị Tuyết Loan chỉ khẽ gật đầu. Cô Mười Hai tiếp giọng eo éo:
– Cô Ba Cần Thơ đừng có lo. Cậu Đực bán xăng nầy thương cô không hết, thì làm sao có ý định bỏ cô cho đành? Cô không bỏ cẩu thì thôi chớ đời nào cẩu bỏ cô? Cái cậu nầy ưa nghề lấy giả làm chơn, muốn nổi đình nổi đám, rồi có tiền để cưới cô, làm cô nở mặt nở mày. Nhưng cẩu lầm rồi. Cái nghề lấy giả làm chơn nầy đâu phải ai muốn vào cũng được. Vào được rồi chưa chắc cẩu ở lâu. Cô hãy gắng giữ lòng son sắt với cẩu, cẩu sẽ quay về sum hiệp với cô. Cẩu sẽ nghe lời cô trở lại ăn học để mai sau đỗ đạt thành tài.
Tôi mau miệng:
– Cô Mười Hai nói đúng quá!
Cô Mười Hai xòe quạt đồi mồi phe phẩy:
– Cậu Đực nầy là con một của một bà góa chồng, cho nên cẩu không bị bắt đi lính, khỏi ra chỗ cắc bùm, cắc bùm có đạn lạc tên bay. Cẩu nhờ đức của mẹ, nhứt là tướng ích phu vượng tử của cô sẽ làm cho gia đình cậu Đực rạng mặt nở mày với thiên hạ.
Chị Tuyết Loan hỏi:
– Nhưng ảnh đi đâu? Ảnh làm gì?
Cô Mười Hai liếc xéo:
– Thiên cơ bất khả lậu. Tôi chỉ tiết lộ mí mí cho cô rõ: ba tháng sau cô sẽ được tin của cẩu. Bởi cô chung tình, ông Trời sẽ ngó lại cô, giúp cô trở thành giai ngẫu với cẩu.
Tôi xía ẩu:
– Chị nầy muốn đi tu.
Cô Mười Hai dẫy đành đạch:
– É! Cô Tư đừng nói tầm xàm! Mấy cô xinh tốt mặn mòi, đời nào có ý định xuất gia lánh tục cho đành?
Rồi cô ta ngâm nga: “Tu đâu cho bằng tu nhà. Cưng chồng, có chửa, đẻ ra một bầy”. Rồi cô ta liếc hai chị em tôi một cái nháng lửa, miệng cười the thé, tay phe phẩy quạt liên hồi. Cô bồi thêm một tràng tía lia:
– Cô Ba hiện thời vừa giận vừa thương cậu Đực. Nhưng cậu Đực mà đến bên cô ba ca lên: ‘’Em Ba ơi, tội tình chi mà em phải đọa ơ…ơ…đày’’ là cục giận ứ ngang cổ của cô cũng chạy tọt xuống bụng cô liền. Cậu Đực nầy đẹp trai lắm. Thường thì những anh chàng có cái đẹp như con phụng, nhưng có cái bụng như con rắn. Cậu Đực nầy đẹp dạ đẹp lòng nên cô Ba say đắm. Cô cứ gắng chờ gắng đợi cẩu. Trước thì cẩu đổ xăng cho xe hơi, sau nầy cẩu đổ xăng đổ nhớt cho cô dài dài.
Cô đồng nguýt hai chị em tôi rồi vô duyên cười hăng hắc. Chúng tôi sượng đỏ mặt nhưng không cười, cũng không nói gì. Chị Loan cúng tiền cho cô rất hậu. Trên đường về, tôi càm ràm với chị Loan:
– Thầy bà gì mà ăn nói trây trúa, sàm sở mà không mắc cỡ miệng chút nào.
Chị Tuyết Loan hớn hở:
– Nhưng mà “cổ” đoán trúng chuyện quá khứ.
Về đến thành phố, hai chị em tôi đến rủ mẹ con chị Diệu Tâm đi ăn bún thịt nướng ở quán ăn ngoài bờ sông. Chị Tuyết Loan vì nhờ cô đồng vuốt ve cho mấy câu nên coi bộ chị lên tinh thần phơi phới, Chúng tôi ghé qua tiệm Đức Thái ở gần chợ. Tôi lựa mua cái bóp cầm tay bằng cườm đen kết cành lan tím để gởi tặng cho người bạn học cũ tôi đang học năm cuối của Quốc Gia Hành Chánh. Cô ta lấy chồng là Phó Tỉnh Trưởng ở Châu Đốc. Chị Tuyết Loan mua cho tôi một hộp kem lót Moon Drop, một cuốn tiểu thuyết của Quỳnh Dao tựa là Song Ngoại. Chị không quên mua biếu chị Diệu Tâm hộp bánh nhập cảng từ Pháp, bé Chim Bồ Câu gói kẹo và mấy cái bong bóng xanh, đỏ, tím, vàng.
Chiều tối chúng tôi đến nhà chị Diệu Tâm dùng cơm, vì trước lúc chia tay đi ăn trưa về, chị có nhã ý mời chị Tuyết Loan và tôi. Hôm đó có những món ăn thông thường như món cá duồng nấu ngót chan lên bún, cá cơm kho tương ăn với bắp chuối tra tấn (bắp chuối lấy chài đâm tiêu dần cho mềm bên trong rồi chẻ bắp chuối ra làm đôi đổ giấm hay vắt chanh vào. Chất chua làm cho ruột bắp chuối trắng ngần).
Chương 5
Chị Tuyết Loan và tôi không bao giờ để cho cuộc đời mình thả nổi theo lời bói toán của đồng cốt. Chị trở về đi dạy học, cố gắng theo cuộc sống thường nhựt. Hễ có rảnh chị đi thăm các con chị Tuyết Hồng, đi thăm má anh Toàn.
Bà bình thản bảo chị:
– Bác chắc chắn không đời nào thằng Toàn nó bỏ mẹ, bỏ người nghĩa người thương luôn đâu. Mới đây nó có gởi cho bác cái măng-đa hai ngàn đồng. Măng-đa gởi từ Sàigòn, nhưng nó không cho bác biết nó đang ở đâu và làm gì. Kèm theo cái măng-đa là vài hàng hỏi thăm sức khỏe của bác và hỏi thăm cháu. Nhưng nó bảo địa chỉ trong măng-đa là địa chỉ của người bạn nó. Nó khuyên bác yên lòng, chừng nào có địa chỉ chắc chắn nó sẽ cho biết; bây giờ thì nó chưa ở chỗ nào nhứt định cả.
Cũng như thường lệ, hễ có món ngon vật lạ, chiều đi bán về bà ghé qua tặng chị Tuyết Loan.
Nửa tháng, kể từ ngày chị Tuyết Loan đến Mỹ Tho tìm tôi, trôi qua trong công việc bận rộn của tôi tại bịnh viện. Tôi có nói sơ chuyện tình cảm của chị Tuyết Loan cho chị Diệu Tâm nghe. Chị Diệu Tâm thở dài:
– Con tim có lý lẽ riêng của nó. Người ngoại cuộc thì sáng suốt, người trong cuộc phần đông thì mù mờ, tối như đêm ba mươi. Mình là đàn bà, dù chịu thiệt thòi, nhưng đừng vì chuyện đàn ông phụ bạc mà đi ngang về tắt, để cho phẩm giá danh dự bị lấm bùn.
Tôi ngồi vuốt tóc Chim Bồ Câu, bảo:
– Em nghĩ rằng chị không thiệt thòi đâu. Trời còn thương chị, nên tặng chị một đứa con xinh đẹp và ngoan ngoãn như vầy.
Chị Diệu Tâm cười buồn:
– Nếu mình nhìn nỗi bất hạnh qua khía cạnh tốt thì nỗi bất hạnh biến thành hạnh phúc.
Gần bãi trường, hai con em dành một ngày chủ nhật đi Mỹ Tho thăm tôi. May quá, Vân Anh và Ánh Ngọc rủ nhau đi Sàigòn dạo chợ, ăn hàng, và mua sắm chiều tối mới về. Cho nên ba chị em tôi tha hồ nói chuyện khỏi phải xầm xì, giấu giếm. Tuyết Oanh bảo:
– Có một anh sinh viên Đại học Y khoa, con người bạn thân của chú Út mình đòi cưới chị Ba. Anh nầy hơi lỏng khỏng, mắt đeo kiếng cận dầy cui. Ai dè…
Nói tới đây nhỏ đỏ mặt, im ngay. Tuyết Nga cười:
– Như chị biết, chị Ba hiện giờ ở Cần Thơ. Hôm ảnh theo tía má ảnh đến viếng nhà mình, thì chị Oanh lãnh phần bưng trà ra đãi khách. Chèn ơi, vừa thấy chị Oanh nõn nà trong áo bà ba màu xanh lá mạ là ảnh đổi hướng đòi cưới chị Tuyết Oanh.
Tôi cười ngất, thừa biết con em tôi nõn nà, thân mình nẩy nở đều đặn sexy hơn chị Tuyết Loan nhiều, tuy mặt không đẹp bằng chị. Tuyết Oanh phụng phịu:
– So với em thì ảnh quá mỏng còn em thì dầy, coi không đẹp đôi đâu. Vả lại, em không thích lấy chồng cận thị. Rủi ảnh làm mất mắt kiếng rồi thấy thấp thoáng cột nhà, tưởng là em rồi ảnh ôm cột thì sao? ž, chị Tuyết Nhạn, nhỏ Tuyết Nga cũng có một anh chàng đang theo đuổi nữa.
– Ai vậy?
– Cháu chồng dì Tư chớ ai? Chắc chị nhớ anh chàng tên Khương con của ông giáo Lũy đó.
Tôi ôm bụng cười:
– Thằng đó mập và lớn đồ sộ như cái bồ lúa.
Tuyết Nga ỡm ờ:
– ž, ảnh to như con bò hống. Nhưng ảnh không tệ đâu. Em có cặp mắt khoan hồng, nên còn xét lại.
Tôi dặn hai con em đừng kiêng ăn bữa nay để trưa tôi dắt tụi nó đi ăn cơm tấm đặc biệt cuả bà Năm Bo nổi tiếng nhứt trong các quán cơm ở đây. Tiệm ăn vào giờ cơm rất đông khách, nhưng thấy tôi bà Năm Bo bận rộn cũng đon đả chào hỏi, và bảo mấy người chạy bàn:
– Chào cô y tá, còn hai cô Anh và cô Ngọc đâu? Tụi bây lau bàn bên cửa sổ, có ba chỗ cho cô y tá mau lên!
Tôi trả lời bà chủ quán, hai con bạn tôi bận việc nên không đến hôm nay. Tuyết Nga nhìn tôi cười chúm chím:
– Chị Tư nổi danh thiệt, tới bà bán cơm cũng biết mặt,
Tuyết Oanh châm thêm:
– Vậy chứng tỏ chị mình không biết nấu ăn, tối ngày chỉ ăn cơm tiệm, ăn cơm hàng cháo chợ.
Tôi trừng hai nhỏ, cười bảo:
– Tụi bây có gọi thức ăn không? Đứa nào nói nữa thì bữa ăn hôm nay đứa đó trả tiền.
Hai đứa cùng mau miệng:
– Em không nói! Em cũng không nói.
Mỗi đứa một chén nước súp trong vắt, trên mặt xanh hành lá, ngò rí xắt nhuyễn và tiêu cà. Dĩa cơm tấm lớn trải mỡ hành, nằm trên là miếng thịt sườn nướng, bên cạnh miếng chả chiên, kế mấy con tôm lột võ ram mặn. Dĩa cơm còn phủ lớp bì, rồi dưa chua được khéo léo sắp vòng tròn trên mặt. Cạnh dĩa cơm còn có chén nước mắm chua ngọt đỏ màu ớt bằm. Hai con em tôi vừa ăn, vừa chắc lưỡi hít hà khen lấy khen để.
Chúng tôi ghé qua tiệm, tôi mua cà-phê, trà, đường và bánh ngọt mà ba má tôi thích, để tụi nó đem về nhà cho kịp chuyến xe cuối chiều nay.
Hai con em tôi càng lớn càng xinh, càng xí xọn, càng diện gắt củ kiệu. Khi tiễn chúng nó ra bến xe đò, tôi tiếc nhớ thuở năm chị em sống quây quần dưới mái nhà, lòng buồn rười rượi. Năm chị em như năm nhánh sông chung nguồn, càng xa nguồn càng rẽ hướng dang xa. Hai con nầy còn đang học hành, không lo sinh kế, lại được sống chung với cha mẹ, được cha mẹ săn sóc. Đôi má Tuyết Oanh hồng hào, sinh lực toát ra trên thân vóc. Còn Tuyết Nga thì óng ả, mướt rượt thêm, tóc dài, da trắng bóc, mịn trân như hột gà lột vỏ.
Khi xe hai con em về quê bắt đầu chuyển bánh, tôi thẩn thờ về nhà, nằm dài. Đầu óc tôi lẩn quẩn từ ý nghĩ nầy sang ý nghĩ nọ, chẳng ý nghĩ nào rõ rệt. Chiều xuống chậm ngoài khung cửa. Rồi thành phố đã lên đèn. Chuyến xe Sàigòn Mỹ Tho về muộn, trả lại tôi hai con bạn ở chung nhà. Cả hai véo von khoe tơ lụa, son phấn mà tụi nó vừa mua sắm. Tôi săm soi từng món cho tụi nó vui lòng.
Tôi không quen xài mấy thứ tô hồng chuốc lục cho phụ nữ. Tôi mà giồi phấn lên mặt là phấn nổi ốc trâu lợn cợn liền. Tôi mà tô son lên môi, thì son sẽ lầy lụa lem luốt tùm lum ngay. Tay tôi lại vụng về thêu thùa may vá, làm bếp thì chặt cục, bẻ đôi, bầy hầy, không vén khéo. Vậy mà trời khiến hai bàn tay tôi lại săn sóc bịnh nhân, xoa dịu vết thương thể chất cho kẻ gặp nạn. Chị Tuyết Loan không viết thư cho tôi. Tôi thừa biết chị chưa được tin anh Toàn nên chị không có dịp viết để đía với tôi.
Rồi mùa mưa vào sâu: Cây phượng trổ đầy bông thắm. Cây dương còn tơ nẩy thêm nhánh mới, cành to lá xanh mơn mởn. Đám rau càng cua bên thềm mọc rậm thêm, mập ú tươi non. Cây thông thiên bên kia rào nhà hàng xóm trổ hoa vàng.
Tuổi thanh xuân của tôi cứ êm đềm trôi qua. Tôi không chờ, không đợi, không mong muốn bóng hình của anh chàng nào. Tôi làm bạn với những phim tình cảm Âu Mỹ, những cuốn tiểu thuyết trong Tự Lực Văn Đoàn, và nhứt là những tiểu thuyết của Quỳnh Dao, cảm thấy tác giả sao mà gần gũi với mình.
Hai con em tôi thì say sưa chụp ảnh. Tụi nó gởi ảnh cho tôi tới tấp. Trong ảnh con nào cũng ẹo, cũng cười duyên, cũng liếc mắt, chẳng hiểu tụi nó tống tình với ai? Con Tuyết Oanh ưa đưa tay áp lên má bên trái, làm như cái răng cối bên trái của nó đang lên cơn đau nhức. Còn con Tuyết Nga ưa dựa lưng vào cột, vào thân cây liễu, cây tùng, cây mai làm như xương sống của nó sắp gãy tới nơi rồi vậy.
Chừng hơn tháng sau, tôi được thư chị Loan cho biết là anh Toàn đi theo gánh hát thuộc hạng B, tức là loại gánh trung ban, chỉ hát ở làng, ở quận. Tôi âm thầm thở dài và thương cho chị Loan, nhưng trong lòng le lói niềm vui. Như vậy chuyện tình anh Toàn và chị Loan sẽ dễ tan rã. Chị tôi sẽ tìm được một người chắc chắn sẽ khá hơn anh ta. Nhưng tôi có ngờ đâu dù anh Toàn bỏ đi như vậy, chị không nửa lời oán trách anh, mà còn cổ võ tinh thần anh nữa. Bằng cách là gánh hát do anh cộng tác mỗi khi có dịp về gần Cần Thơ thì thế nào chị cũng lặn lội theo má anh đi thăm, đi xem anh có vai trong tuồng để cho anh lên tinh thần.
Thật hết ý kiến về bà chị của tôi! Một năm sau đó, gánh hát bị sa sút. Chủ gánh không có tiền trả cho đào kép, tiền anh dành dụm cũng tiêu dần mòn hết. Chủ gánh hát tuyên bố sang lại cho người khác hoặc rã gánh. Anh và ba người trong gánh hùn vốn sang lại gánh hát. Anh không có tiền, má anh phải bỏ hết tiền dành dụm và bán hết vòng vàng bà mua sắm chắc mót bao năm qua để giúp anh. Còn chị Tuyết Loan cũng trút hết hầu bao cho anh mượn!
Thật trên đời nầy không ai “khôn” như chị tôi. Tình yêu làm chị mù quáng? Tôi tức muốn chết mà không dám hé răng cho ba má tôi biết. Tôi muốn gây gổ với chị, vạch rõ, phân bày cho chị sáng mắt ra. Nhưng thấy chị ngày càng héo hon thì tôi chạnh lòng không nỡ. Gánh hát phải sửa sang lại cho bộ mặt mới hơn. Tiền bạc cứ đổ vào. Nhưng đến nửa năm sau, bị lỗ lã nhiều, gánh hát không còn cầm cự được nữa nên tan đàn rã nghé. Và tiền bạc coi như bị mất sạch.
Anh Toàn trở về nhà với tâm hồn sa sút, thân thể tàn tệ, ốm o, gầy còm. Trông anh khác hẳn lần sau cùng tôi gặp trước ngày anh theo gánh hát. Thật tình mà nói, lúc anh theo gánh hát, tôi thầm cầu khẩn cho anh gặp cô đào hát nào đó mà bỏ chị Loan, hoặc chị Loan bỏ ảnh. Nhưng lời cầu nguyện của tôi chẳng linh thiêng chút nào. Anh chị vẫn thường thư đi thư về, thăm hỏi nhau luôn. Không ai như bà chị tôi, chị hầm hừ dữ dằn với ai không biết, nhưng với anh Toàn thì chị trước sau như một, không làm sứt mẻ tình yêu của chị đối với anh Toàn chút nào cả.
Anh Toàn không đi làm công nữa mà sáng thì phụ má ảnh trong việc buôn bán, chiều đi học ở trường trung học lớp đêm để năm sau thi Tú tài một. Có lẽ nhờ vấp ngã một lần và nhờ tình yêu chân thật cùng sự khuyên lơn của chị Loan, anh cố gắng học hành. Có lần má anh gởi bánh cống cho chị Loan, anh đem đến cho, nhưng nhầm lúc chị Loan đi chợ mua thêm chút ít đồ gia vị để nấu ăn. Anh bước vào nhà, hỏi tôi:
– Tuyết Nhạn qua hồi nào vậy?
Tôi rót tách nước trà mời anh:
– Mời anh Toàn uống nước. Em qua hồi trưa. Anh ngồi chơi một chút, chị Loan sẽ về ngay.
– Được, cảm ơn Tuyết Nhạn, hai bác khỏe hả?
– Dạ cảm ơn anh, ba má em vẫn khỏe.
– Nhạn qua chơi cuối tuần hay có gì đặc biệt không, mà sao anh không nghe Tuyết Loan báo tin anh hay trước.
Tôi nhìn anh Toàn dò xét. Anh thay đổi rất nhiều: điềm đạm hơn, dè dặt hơn trước. Tôi vui vẻ bảo:
– Em đi bất ngờ, anh ơi! Bác sĩ Trưởng Ty đi họp bên nầy; lợi dụng ngày nghỉ, em có giang qua đây chơi, tiện thể thăm chị Loan vậy thôi, chớ không có gì đặc biệt đâu.
Anh Toàn cười cầu tài:
– Có khi nào Nhạn nghĩ sẽ về đây làm để chị em gần nhau không?
– Thưa anh, em chưa có ý định rời Mỹ Tho.
Anh Toàn nhìn tôi, vẫn nở nụ cười niềm nỡ:
– Ở đâu rồi quen đó, dầu sao cũng gần hai bác hơn ở đây. Từ Mỹ Tho đến Cần Thơ phải qua hai chuyến bắc, chỉ tổ mất nhiều thì giờ mỗi lần về thăm.
Tôi nhìn thẳng anh Toàn, nghiêm giọng hỏi:
– Anh Toàn à, từ lâu em muốn hỏi anh việc nầy mà em ngại quá! Nhưng nếu không hỏi thì em cứ thắc mắc hoài.
Anh Toàn dịu dàng nhìn tôi:
– Chuyện gì anh biết anh sẽ trả lời ngay, Nhạn hỏi đi.
– Anh Toàn, theo em nhận xét, chị Loan thương anh lắm. Em nghĩ anh cũng biết điều đó rồi. Nhưng xin anh trả lời thật cho em biết, anh có thương chị Loan bằng chị Loan thương anh không? Và anh có định sẽ đi đến hôn nhân với chị của em không?
Anh Toàn có vẻ khựng vì câu hỏi thẳng của tôi. Có lẽ anh nghĩ ít người con gái nào dám hỏi như vậy với người bạn trai của chị mình. Nhưng anh cười nhẹ, trả lời ngay, không do dự:
– Anh nghĩ Nhạn có thừa thông minh nhận xét anh có thương chị Loan không mà. Xin cho anh miễn trả lời. Còn việc đi đến hôn nhân lúc nào mà anh chẳng nghĩ đến? Nhưng nghĩ không thì không được, phải thực tế chớ. Anh đi học lại để có nghề nghiệp vững chắc, má anh mới chính thức nhờ mai mối đến hỏi cưới chị Loan cho anh. Bây giờ, anh không xứng với chị của em. Vả lại anh chưa chắc bước được vào ngưỡng cửa nhà em.
Tôi chặn ngay hỏi:
– Anh nói vậy nghĩa là sao?
– Vì anh học hành dở dang, chữ nghĩa không trét đầy lá mít. Nghề ngỗng không có, thì làm sao hai bác đem con gái yêu quý của mình gả cho anh? Anh nói có đúng không, Tuyết Nhạn?
Tôi mỉm cười gật đầu, thỏa mãn về câu trả lời hợp lý của anh:
– Em tán đồng ý nghĩ và quyết tâm của anh. Em cũng rất tin tưởng anh. Anh phải cố gắng, đừng phụ lòng thương yêu của chị Loan. Anh có biết chị Loan khổ thế nào khi anh bỏ nhà đi theo gánh hát không một lời từ giã không?
Anh Toàn cúi mặt nhìn xuống, có vẻ ân hận. Chị Loan đi chợ cũng vừa về tới. Chị vừa dắt xe đạp vào vừa cười thiệt tươi, thiệt hạnh phúc hỏi anh Toàn:
– Anh đến hồi nào? Lâu chưa? Có ở lại ăn cơm với tụi em không?
– Má anh bảo đem cho em mấy cái bánh cống mới chiên còn nóng. Anh không ở lại ăn cơm đâu, chiều nay anh có môn thi.
Anh Toàn nói chuyện thêm một hồi rồi từ giã ra về. Trước khi đi, anh nhìn tôi, hỏi:
– Chừng nào Nhạn về? Cho anh kính lới thăm hai bác. À, lần sau qua nhớ cho anh hay trước, anh sắp xếp công việc đưa hai chị em đi Ô Môn ăn cá nướng trui.
Tôi gật đầu cười nhẹ:
– Dạ cảm ơn anh, lần sau em có qua thì sẽ biên thư cho chị Loan trước. Chúc anh may mắn trong những lần thi.
Anh Toàn nhảy lên xe đạp, chạy đi mất dạng mà chị Loan còn mỉm cười nhìn theo anh, ánh mắt long lanh, mi chớp chớp. Tôi đánh vào vai chị, chị giật mình rủa:
– Con quỉ phá nhà chay nầy làm ta giựt mình hà. Sao? Em thấy anh Toàn dạo nầy thế nào?
Tôi nghiêm giọng:
– Có chút thay đổi. Nhưng chị cần phải quản thúc anh học hành nhiều hơn. Ảnh phải thi đậu. Đàn ông mà, phải có nghề nghiệp mới bước vô cửa nhà mình được. Không lẽ hai người cưới nhau rồi, chị đi làm, ảnh ở nhà giữ con thì coi sao được? Chị cũng biết ba má, tuy thương con, nhưng không phải chuyện gì cũng nghe lời con, nhứt là chuyện chung thân của chị. Còn bên ngoại bên nội nữa. Thương yêu vợ không chưa đủ, ảnh còn phải lấy lòng bên vợ nữa.
Chị Loan trợn mắt nhìn tôi:
– Mầy thành bà già hồi nào vậy? Tao kềm kẹp ảnh dữ lắm rồi đó. Nếu ảnh học hành theo đà nầy thì chắc chắn năm tới sẽ đậu phần một. Mầy nói quá, coi chừng có chồng sau nầy đi bán cà-rem cho coi.
Tôi cười, nhăn mặt:
– Em có nói gì đâu? Chưa chi đã binh ảnh rồi. Em có nói với chị là em sẽ lấy chồng hồi nào, mà chị trù ẻo người ta cho mắc công.
Tôi là đứa con xấu háy trong gia đình nên được bà ngoại đem về dưỡng nuôi từ thuở nhỏ. Má tôi thường kể:
– Lúc mang thai Tuyết Nhạn, má cứ bịnh hoạn hoài, nên sanh con ra cơ thể ốm yếu, một tháng bịnh hết mười chín, hai mươi ngày, phải uống hết thuốc tây rồi đến thuốc tàu, thuốc nam… Chùa miễu nào má cũng đến cúng bái, xin xâm, cầu nguyện… Nơi nào nghe đồn linh thiêng má cũng ẵm con đến, xin bùa, xin ngãi, tạ ơn, đáp lễ, nhờ Ơn Trên phù hộ cho con hết bịnh, khỏe mạnh như đứa trẻ bình thường. Lúc đầu, ba con không bằng lòng thầy bùa, bói toán. Nhưng thấy con ngày càng yếu mòn, nên ổng mới chịu để má và bà ngoại lo.
Các chị em con đứa nào cũng bú sữa má đến mười hai tháng mới dứt. Tội nghiệp con mới có mấy tháng không được bú sữa mẹ nữa. Má phải mướn chị vú Ghèn về ở bên ngoại để săn sóc và cho con bú. Chị ấy có sữa vì mới sanh con được hai tháng, nhà nghèo nên phải đi làm vú nuôi con cho người ta.
Tôi ngắt ngang lời má tôi:
– Rồi con bả ai nuôi? Ai cho nó bú vậy má?
Má tôi chép miệng, giọng nói buồn buồn:
– Vú Ghèn nghèo, tội nghiệp lắm! Vú lúc đó có ba đứa con, chồng vú bị bịnh chết trong lúc vú mang thai đứa nhỏ nhứt. Vú vất vả lắm, làm thuê làm mướn mà không đủ tiền nuôi con. Nên vú phải đi làm vú cho con và xin lãnh trước một lần ba tháng tiền công, để có vốn cho má của vú mua đầu chợ, bán cuối chợ nuôi mấy đứa cháu qua ngày. Vú Ghèn ở nhà mình ăn uống sung sướng để có sữa cho con bú, gia đình vú cũng đỡ bớt miệng ăn.
Tôi chạnh lòng lắm, hỏi:
– Vậy sữa đâu con bả uống?
– Má nghĩ chắc là nước gạo nấu với đường.
Tôi thấy xót xa thương cảm muốn khóc:
– Tội nghiệp vú Ghèn và con vú quá, hả má!
Má tôi kể tiếp:
– Vú Ghèn cho con bú đâu mười mấy tháng và săn sóc con thêm bốn tháng nữa, lúc đó con khoẻ mạnh da dẻ hồng hào như đứa bé bình thường thì vú Ghèn xin nghỉ việc. Gia đình vú dời về Sàigòn sống tá túc với người em gái. Năm rồi có người gặp vú bán bánh mì ở bến xe đò. Vú có gởi lời thăm ba má và hỏi con bây giờ bao lớn rồi?
Mặc dù tôi cố moi trí để mường tượng về vú, nhưng vô ích, trong đầu tôi không có ấn tượng gì về vú cả. Mấy chị tôi, nhứt là chị Tuyết Loan lúc tức giận gì tôi thì thường nói: “Nhỏ nầy dễ ghét, hay khóc giống như bà vú Ghèn”. Hoặc: “Tánh mầy lờ khờ, lầm lì như vú Ghèn…”. Tôi luôn nghĩ có dịp sẽ xin ba má đi thăm vú Ghèn.
Năm tôi trúng tuyển vào Trung học. Phần thưởng tôi đòi hỏi ở ba má tôi là được đi thăm vú Ghèn. Ba má tôi nhờ người thân ở Sàigòn tìm kiếm, khi biết được bà ở đâu thì dắt tôi đi. Lần thứ nhứt tôi đến thăm thì vú dắt con về quê nội đám giỗ chồng. Lần thứ hai đến thăm thì tôi đốt nén hương cho bà, vì bà qua đời bởi bạo bịnh cách đó mấy tháng!
Tôi là một đứa trẻ có diễm phúc, mặc dù lúc nhỏ tôi khó nuôi, èo uột tưởng chết. Nhưng tôi được ông bà ngoại, cậu mợ, dì dượng chăm sóc hoạn dưỡng, thương yêu chiều chuộng vô cùng. Tuy tôi sống với gia đình ngoại ở quê, nhưng chưa bao giờ ngoại cho tôi đi chân không. Khi tôi bước xuống đất là có đôi guốc sơn, quai trong ngần có vẽ chim cò, bông hoa màu sắc thắm tươi. Từ nhỏ đến khi lên bốn tuổi, tôi luôn mặc áo quần màu nâu sậm, màu lam may theo kiểu vạt hò. Đầu tôi cạo trọc lóc. Ngoại nói như vậy để ông bà không quở, trẻ nhỏ xấu xí, thì lại được ma quỉ chê bỏ, nên tôi khỏe mạnh. Khi tôi đi học vỡ lòng thì cậu dì, hoặc con mấy người tá điền của ngoại ở xóm trên thay phiên đưa rước.
Qua năm bốn tuổi, sau khi cúng căn cho tôi xong (dòng họ tôi nói đó là hạn kỳ tôi hết bị tiền căn hậu quả), ngoại mới cho mặc đồ màu mè in bông hoa tươi thắm do má tôi may gởi về. Dầu ở thành thị xa, nhưng má tôi tháng nào cũng về thăm, mang nhiều bánh kẹo, sữa hộp. Hai chị tôi gởi quà về nườm nượp cho cô em gái yếu đuối nầy. Trên cổ tôi lúc nào cũng đeo chùm niệc, bùa, chú, và phù phép được may kín trong gói nhỏ hình tam giác, màu đỏ, màu đen, màu nâu từ chùa nầy miếu nọ, am kia do ngoại đi cầu khẩn xin về cho tôi. Đến khi tôi học hết lớp ba trường làng, tôi mới trở về thành phố, nơi ba tôi dạy học và chung sống với gia đình có chị có em.
Thời tuổi dại cho đến tuổi thanh xuân, tôi chưa bao giờ gặp chuyện đau buồn. Trong gia đình, tôi được đùm bọc chở che, được tình yêu thương trọn vẹn của ông bà, cha mẹ, chị em, họ hàng. Ở tuổi học trò, tôi được thầy thương, bạn bè quý mến. Rời ghế trường học chữ, tôi vào ngay trường học nghề. Khi tôi ra trường, việc làm gần như chờ sẵn, tôi không phải đôn đáo kiếm tìm, đắn đo như bạn cùng khóa. Khi đi làm, tôi chỉ dưới quyền Bác sĩ. Tôi lại được cấp trên chỉ dạy, đồng nghiệp thương mến.
Có lẽ tôi là một đứa luôn chấp nhận những gì mình hiện có, do chính mình xây dựng đắp bồi nên. Tôi không ỷ lại vào người khác. Tôi cũng không ganh tị đua đòi. Không nghĩ ngợi xa vời viễn vông. Nhiều lúc bị bạn bè, đồng nghiệp châm chích, dèm pha, tôi nghe rồi làm thinh bỏ qua. Và tôi nghĩ rằng vì một lý do gì đó không được thoải mái trong lòng nên họ sanh tật ganh ghét. Thôi thì xem như chẳng có gì xảy ra, thì chuyện bực mình sẽ qua mau, và hơi sức đâu giận người dưng cho mệt. Bỏ vào bụng những chuyện không vui thì có ai sung sướng gì đâu. Bởi tôi sợ cái buồn lắm. Tôi có thể nhịn ăn đôi ngày mà tôi vẫn không cảm thấy khó chịu bằng cái buồn cứ theo đeo đuổi tâm tư mình hoài.
Hồi mới về nhận việc, tôi tạm ở phòng khách các Sơ trong khuôn viên bịnh viện. Vốn là người ngoại đạo nên tôi rất ngại ngùng mỗi khi các Sơ hành lễ, mặc dù các Sơ rất quý mến tôi, và dù phòng tôi ở có cửa ra vào và lối đi riêng biệt. Ở phòng khách của các Sơ được một tháng, tôi được hai bạn đồng nghiệp Vân Anh và Ánh Ngọc rủ ra ở chung để chia tiền mướn nhà cho đỡ chúng nó. Như vậy, ở nhà ngoài, tôi sẽ được tự do hơn.
Cô bạn Vân Anh của tôi thì vui vẻ, cởi mở, hoạt bát, trẻ trung. Nó có thân hình tròn trịa, nét mặt hồn nhiên, hồng hào, tươi phơi phới. Da nó trắng hồng, môi son, má lúm đồng tiền. Tóc nó đen huyền cắt cao tới ót, uốn dưới đuôi lúc nào cũng vén gọn nằm sau hai vành tai. Cha mẹ Vân Anh là người Việt 100% mà thoạt nhìn nó giống người Tàu lắm. Nó ít khi hờn giận ai, tánh tình lại phóng khoáng, nói cười hào sảng, quơ tay đá chân như nam phái. Nhưng nó rất chung tình, thương ai thương chết người đó. Nghe bạn bè cùng sở và Ánh Ngọc kể lại chuyện tình của Vân Anh mà tôi vừa ghét vừa thương và thầm thán phục con nhỏ vô cùng. Ánh Ngọc thỏ thẻ với tôi:
– Vân Anh có người yêu là Kiểm sự Nông Lâm Súc. Tụi nó ở cùng quê, cùng trường khi còn bậc Tiểu học. Rồi hai đứa trúng tuyển vào trường Trung học Nguyễn Thông (sau đổi tên lại là Tống Phước Hiệp) ở Vĩnh Long. Bọn nó yêu nhau tha thiết, thề non hẹn biển rằng học nghề xong sẽ thành hôn với nhau. Khi ra trường Vân Anh về làm việc ở Mỹ Tho. Còn người yêu nó thì làm tại trường Nông Lâm Súc ở Cần thơ. Làm ở đó được mấy tháng, hắn quen với con của chủ tiệm vàng ở Cái Răng. Cha mẹ cô ta có tiền, cô lại đẹp nên hắn đi cưới cô ta! Tội nghiệp Vân Anh buồn đau, tâm sầu bạch phát, thiếu điều muốn tự vận. Vết thương lòng của Vân Anh vừa mới nguôi ngoai thì được tin vợ của người yêu nó qua đời vì bị trúng đạn pháo kích của Việt Cộng. Tuyết Nhạn có biết không? Thằng cha ôn hoàng dịch lệ đó sau đám tang vợ, mồ vợ chưa xanh cỏ thì mò về tìm Vân Anh xin nối lại tình xưa! Mầy xem có đã đời chưa?
Tôi vừa tội nghiệp Vân Anh vừa tức giận, hỏi Ánh Ngọc:
– Trời đất! Vân Anh có chịu nhận lời cái thằng cha trời đánh, thánh đâm, gà mổ, chó cắn đó không?
Ánh Ngọc cười:
– Làm gì mà mầy nóng dữ vậy? Bộ chuyện của mầy sao mà mầy nổi lửa? Coi kìa, mặt mày mầy đỏ hừng hực, mắt đổ lửa, coi ớn xương sống quá!
Tôi bật cười thành tiếng, nhưng không dằn được lửa giận phừng cháy nên rủa bồi thêm một hơi:
– Tại tao ghét mấy thằng cha bạc tình bạt nghĩa “giàu đổi bạn, sang đổi vợ” đó! Bộ nhỏ Vân Anh tệ lắm sao? Cái đồ cà chớn! Nhổ nước miếng xuống rồi bò sát đất mà liếm! Nhục nhã quá đi thôi!
Nhỏ Ánh Ngọc nhìn tôi nheo mắt rồi đồng tình cười ngất. Chưa dằn được cơn tức giận cho Vân Anh, tôi nóng nảy chồm lên hỏi:
– Rồi sao nữa? Kể mau đi.
Ánh Ngọc chép miệng:
– Lần đầu hắn tìm đến, Vân Anh né không chịu gặp mặt. Thằng chả đi nước lì đến hoài, và đứng chờ ở cửa bịnh viện mỗi cuối tuần. Rồi ba má thằng chả đến nhà năn nỉ ba má Vân Anh và nó. Hắn dùng đủ trò khổ nhục kế. Mầy cũng dư biết: “Nước chảy đá mòn”, bởi đó nhỏ Vân Anh xiêu lòng trở lại với hắn. Nhưng nhỏ Vân Anh ra điều kiện là chừng nào mãn tang vợ hắn mà Vân Anh chưa thương chưa ưng người nào thì nó mới chịu trở lại và đính hôn với thằng chả.
Tôi hỏi:
– Ánh Ngọc, có phải thằng cha đen thui như cột nhà cháy cuối tuần nào cũng lại thăm nhỏ Vân Anh đó không?
Ánh Ngọc cười ha hả:
– Đúng rồi! “Cây đa cũ, bến đò xưa” mà, Vân Anh thương thằng chả lắm. Hắn tên là Bùi Lương Tâm.
– Lương Tâm con khỉ đột! Lương tâm con rắn thì đúng hơn. Gặp tao thì còn khuya tao mới cho thằng chả trở lại.
Ánh Ngọc nhìn tôi, cười:
– Tại mầy chưa yêu thiệt tình nên mầy mạnh miệng. Chớ còn gặp tiếng sét ái tình rồi coi, mầy sẽ mù quáng không còn bình tĩnh khi gặp cảnh tình động trời trái ngang như vậy đâu.
Tôi làm thinh, trong thâm tâm tôi công nhận nhỏ Ánh Ngọc nói đúng. Tôi dò hỏi:
– Chà, mầy kể chuyện tình của nhỏ Vân Anh có vẻ ngậm ngùi, và tỏ ra nhiều kinh nghiệm. Vậy mầy có yêu ai chưa? Hay bị thất tình mấy lần rồi? Thành thật khai báo với tao đi.
Ánh Ngọc cười buồn:
– Chuyện tình của tao dài mấy ngàn cây số, bây giờ chưa phải lúc để kể cho mầy nghe . Hôm nào rảnh, mầy ngoáy tai nghe tao kể câu chuyện lâm ly rùng rợn của tao…
Ánh Ngọc có nước da bánh mật, ốm yếu, tóc mây để dài, đen huyền và óng mượt dưới ánh nắng tươi. Nhỏ không đẹp nhưng có duyên. Bởi miệng nó hơi móm, lại có chiếc răng khểnh, cho nên mỗi lần nó cười trông rất dễ thương làm sao ấy! Ánh Ngọc tánh tình chân thật, hay giúp đỡ bạn bè, và có nhiều cá tánh rất đặc biệt, khác với những người con gái mà tôi thường gặp.
Nhớ ngày đầu tiên làm việc, nhỏ Vân Anh làm quen với tôi:
– Chị là Tuyết Nhạn hả? Hôm chị trình diện thì bọn nầy ra trực nên không gặp, hôm sau mới nghe bịnh viện mình có thêm người mới. Chị chưa đi làm ngày nào mà thiên hạ luôn miệng nhắc đến.
Tôi chưa kịp trả lời thì Ánh ngọc mắt sáng ngời, miệng cười chúm chím xen vô:
– Người đẹp trẻ tuổi được bác sĩ Giám đốc tự hướng dẫn đi giới thiệu từng phòng từng trại. Còn ông Quản lý thì luôn miệng khen ngợi. Nhưng tôi hỏi thiệt chị chớ ổng “thả dê” chị chưa?
Tôi chưng hửng, không biết hai chị bạn nầy muốn nói gì? Ngạc nhiên mở to mắt, tôi hỏi:
– Ý hai chị muốn hỏi gì, tôi chưa hiểu? Nói rõ hơn chút được không?
Vân Anh đứng chuẩn bị xe đồ nghề để đi thay băng cho bịnh nhân trại ngoại khoa. Còn tôi kiểm lại các giấy báo cáo kết quả thử nghiệm đưa cho Ánh Ngọc kẹp vào hồ sơ để trình bác sĩ khi khám bịnh. Chúng tôi vừa nói chuyện vừa làm công việc của mình thì có tiếng gõ cửa. Cánh cửa bật mở. Ông Quản lý Kính bước vào, tươi cười chào mọi người và quay về hướng tôi, thân thiện hỏi:
– Cô Tuyết Nhạn mới ngày đầu làm việc phải không? Cô có bằng lòng công việc hiện tại không? Cô hên và được nhiều ưu tiên lắm đó, nên được vào làm ở khu ngoại khoa ngay. Cô Hường về trước cô hai tháng, bây giờ còn làm ở khoa tâm thần. Mặc dù khoa tâm thần vẫn do bịnh viện quản lý, nhưng là khu biệt lập, ở xa hơn. Để trưa mai tôi sẽ đưa cô đi thăm nơi đó. Sao, cô có đi dạo thành phố Mỹ Tho chưa? Được quen nhiều đồng nghiệp chưa? Các cô ở đây tốt lắm. Chỗ ở tạm có được không? Dần dần rồi đâu vào đó cả, cô sẽ tìm được nơi vừa ý hơn. Nếu cần gì thì cô cho tôi biết nhé.
Ông quản lý người nhỏ nhắn, lanh lợi. Mặt ông khi tươi cười và lúc nhăn nhó đi liền nhau. Ông gặp bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ hoặc mấy cô y tá trẻ thì chào hỏi, tươi vui nói cười. Còn mấy người y công, tài xế thấy ông ở xa thì họ né, vì ông ưa rầy rà họ còn làm thiếu việc nầy, trễ việc kia, không được sạch sẽ, chậm chạp… Tôi nghĩ đó là trách nhiệm mà ông phải làm. Ông siêng năng nên vừa lòng cấp trên thì làm sao tránh khỏi đụng chạm với những người dưới quyền ông. Ông là người nhạy bén và linh động với mọi hoàn cảnh. Tuổi ông ở vào khoảng tuổi ba hoặc tuổi chú tôi. Đợi ông dứt lời, tôi nhỏ nhẹ:
– Dạ cảm ơn bác đã giúp đỡ mọi việc. Nơi ăn chốn ở của cháu tạm thời ổn định. Các anh chị làm việc ở đây tốt lắm. Dạ thưa bác, nếu cần gì cháu sẽ tìm bác. Cảm ơn bác rất nhiều.
Có tiếng cười khúc khích rất nhỏ, nhưng tôi nghe được, và tôi nghĩ ông quản lý cũng nghe. Ông đảo mắt quanh phòng rồi nghiêm giọng:
– Thôi chào cô. Quý vị hãy làm việc đi.
Cánh cửa đóng ập lại sau khi ông quản lý Kính bước ra khỏi phòng. Vân Anh và Ánh Ngọc cười đỏ mặt tía tai. Bà y công đang lau chùi cũng buông đồ nghề cười ngất ngất. Tôi ngơ ngác, không biết họ cười gì. Vân Anh lên tiếng:
– Ông Kính hôm nay đau hơn bị bò đá!
Tôi ngạc nhiên hơn, hỏi:
– Sao vậy?
Ánh Ngọc hai tay ôm bụng, mình cúi xuống cười từng chập, nhưng cũng cố hướt nhỏ Vân Anh để trả lời:
– Tuyết Nhạn mới về đây chưa biết đâu. Ông Kính ghét nhứt cô nào gọi ổng bằng “bác”.
Tôi càng ngạc nhiên hơn:
– Tại sao vậy? Ổng khoảng tuổi cha mình chớ có trẻ đâu. Mình kính ổng mới gọi ổng bằng bác mà.
Vân Anh cười hổn hển nói:
– Ấy vậy ổng không ưa, ổng mới ghét. Bởi chị xưng hô như thế thì làm sao ổng “thả dê”?
Ôi, thả dê là cái quyền của đàn ông. Tôi nghĩ người phụ nữ được đàn ông thả dê ít ra cũng có một vài điểm hợp nhãn họ thì có gì đâu? Miễn sao ông ta đừng lợi dụng sự thân mật giữa đôi bên rồi giở trò cọ quẹt. Hoặc đừng đi xa hơn, đừng vỗ mông, rờ ngực bậy bạ quá! Coi chừng bị cái tát cháy má vì thả dê để rồi mất mặt bầu cua hết. Nhưng ma bắt coi mặt người ta! Mình nghiêm trang đứng đắn, thì ai dám chọc ghẹo mình? “Dây mướp bò qua, thì dây dưa bò lại” mà! Chớ có trách người, hãy xét lại mình đã.
Thiệt tình tôi chưa gặp người yêu, nhưng tôi rất hãnh diện được mấy chàng thanh niên ngó trân ngó trối mỗi khi chạm mặt tôi hay khi tôi xẹt qua trước mặt họ. Chà, nếu họ không ngó tới, chắc hẳn tôi sẽ buồn vì biết rằng mình chẳng có gì đặc sắc ở khuôn mặt, ở vóc dáng cả.
Có lần tôi bắt gặp một ông đưa vợ đến đây khám bịnh. Anh ta nhìn tôi trân trối, miệng phơn phớt nụ cười, cặp mắt long lanh. Tôi bỗng nhột nhạt, tìm hiểu nụ cười và ánh mắt đó. Anh ta có thấy chấm mụn mọc ở khóe miệng tôi chăng? Anh ta đã để ý tóc tôi có vài sợi cong cong trước trán giống như cọng bún thiu chăng? Hay anh ta cười tôi đi cà nhắc vì lỡ trợt chân cách đó hai hôm?
Tôi vốn thích cái nhìn chiêm ngưỡng của người khác phái. Tôi sợ cái nhìn tinh ranh hay tò mò của họ. Ông Kính có ba cái nhìn đó để áp dụng vào trường hợp thuận lợi. Cho nên Vân Anh có ngực hơi cao vội đè nó xuống bằng cách lấy khăn quấn chặt thân thể như bó đòn bánh tét. Ánh Ngọc biết được tự sự, mắng nhiếc:
– Đừng có cà chớn. Bộ mầy điên rồi hả? Ngực cao, mông nở là tặng phẩm quý giá của Tạo Hóa. Ai ngờ mi đè đầu đè cổ cho ngực xẹp xuống, trái với luật thiên nhiên, hạch nhũ hoa không thể phát triển tự nhiên được. Có ngày mi sẽ bị ung thư ngực cho mà coi. Thời buổi nầy mấy con mụ nhà giàu ngực lép, rần rần kéo qua Nhựt bơm ngực lớn cở trái bưởi Biên Hòa, hoặc cở hai trái dừa xiêm nữa là.
Ánh Ngọc nhìn qua ngó lại thấy khắp phòng không có ai, liền cất giọng thẽo thợt vừa lấy tay nâng bộ ngực mình lên cao: “…Thiên thai, chúng em xin dâng hai chàng trai trái … dừa xiêm….” Vân Anh và tôi cười bò lăn bò càng. Tôi mắng:
– Ngực mi to chừng bao nhiêu? Trái chanh còn chưa bằng, ở đó hát dừa xiêm dừa ta.
Ánh Ngọc mắng lại:
– Mầy cũng chẳng hơn gì tao. Cũng chẳng lớn chẳng nhỏ, mầy giỏi tài độn.
– Tao độn hồi nào? Con mắt của mầy chắc bị chứng loạn thị rồi hả? Có sao tao để vậy.
Vân Anh cười, lấy chiếc đũa gõ nhịp xuống bàn và hát theo nhịp Trống quân: Thôi xin can hai đàng cãi lẫy, đàng nầy nói bậy, đàng kia nói sai. Đằng nầy xinh đẹp như mai, đàng kia thanh bai như liễu”. Bây chịu chưa? Làm ơn dịu lời một chút, đừng có cắn mổ xâu xé nhau.
Ánh Ngọc cười:
– Tụi tao giỡn nhau, nói xóc óc cho vui thôi.
Và nó bước gần tôi hơn, ngắm nghía tôi, gật gật cái đầu, rồi reo phơi phới:
– Mầy nhìn kỹ con Tuyết Nhạn đi, Vân Anh! Nó tuy không đẹp lắm, nhưng coi thiệt mặn mòi. Nó chịu ăn diện một chút thì ăn tiền lắm đa. Mai tụi mình phải dắt nó đi mua xú cheng.
Tôi xua tay, lắc đầu lia lịa:
– Độn ngực cao, cho nhọn để nhử cái nhìn ác ôn, gian tà dịch của bọn háo sắc là không có tao rồi đa! Ba tao nói: ‘’Cái đẹp của người con gái là nhu mì, đoan trang, tươi vui, dịu dàng, mềm mỏng. Làm sao mà khi đi ngang qua đàn ông con trai còn được họ chú ý và còn gây dư âm nhẹ nhàng trong lòng họ. Đó mới tốt. Còn đẹp lộng lẫy đi qua như cơn gió lốc thì không tốt lành gì…”.
Vân Anh có vẻ giác ngộ:
– Thôi đi, đừng có làm nữ thánh. Ở đời ai sao mình vậy. Thời buổi nầy mà mặc áo dài cái ngực sát rạt coi không giống ai. Mai tao sẽ mua cặp xú cheng để độn ngực thiệt bự trở lại.
Ánh Ngọc nheo mắt nhìn tôi:
– Giống con ma ho lao chứ giống ai?
Tôi cũng có vài cái xú cheng chớ sao không. Nhưng từ khi nghe danh thả dê của ông Kính là tôi hết muốn xài tới cái đồ phụ tùng không thể thiếu của phụ nữ. Có xú cheng mới làm đẹp cho cái áo dài.
Tối hôm đó tôi viết thư cho hai con bạn đồng khóa là Thu Trinh và Thúy Hiền, không quên thuật lại chuyện bó ngực như đòn bánh tét của Vân Anh . Và tôi nói láo đặt thêm, là tôi cũng đã làm như nhỏ Vân Anh để tránh những cặp mắt dê xồm, trong khi đó Vân Anh bắt đầu độn ngực trở lại. Chừng một tuần lễ sau, lần lượt tôi nhận được thư của hai con bạn có cái miệng khạc ra lửa như họng hỏa diệm sơn kia: “Sao mầy lại bắt chước con tào lao Vân Anh? Mầy chưa đi tu, mầy nỡ nào phụ rảy ngực mầy cho đành? Tao dự định ở kỳ nghỉ hè thường niên là đi thăm mầy, sẽ đi ăn hủ tíu Mỹ Tho, ăn mận hồng đào Gò Cát, ăn nhãn Vĩnh Kim, ăn nem Cai Lậy. Tao thủ sẵn cây kéo thật bén. Hễ thấy mầy ràng rịt cái ngực là tao lấy kéo cắt hết dây ràng, khăn ràng ra từng mảnh, từng mún. Con nầy bổng dưng đổ ngu ra, đọc thư mầy làm tao ứa gan nổi nóng…”.
Thư nhỏ Thúy Hiền cũng có đoạn xỉa xói tôi bằng giọng Huế: “Nì, mi làm cái chi mà dại rứa, hả con tê? Tên thả dê nớ nhìn mi thì mi cứ mặc kệ cho hắn nhìn. Hắn nhìn mi nhỏ dải mà chẳng làm chi mi được, mô có dám tiến xa hơn? Nì, vòng ngực mi số mấy? Nói cho tau biết, tau sẽ mua tặng mi cặp mắt kiếng đen bộ ngực của Cléopatre, ở Passage Eden có bán đồ lót hàng đăng-ten đen mặc vào mi sẽ trở thành Vệ Nữ ngay. Lại còn có đồ lót nớ bằng lụa valisère vừa mềm vừa mát rượi. Mi dại quá! sao mà ràng rịt cái ngực vô tội của mi? Ngu cũng vừa phải thôi chớ. Đối với hạng dê xồm nớ. Cái tánh nghịch ngợm của mi mô rồi? Mi lại khờ trước một tên già’’ôn hoàng hột vịt lộn. Rứa có tức cười lắm không?”
Tôi đã ngoài đôi mươi. Bỗng dưng tôi thường hay mơ mộng những khung cảnh xa lạ trong các phim ảnh, trong tiểu thuyết, trong các câu chuyện kể của những anh em họ hàng đã từng có dịp viếng các nước Pháp, Nhựt, Tàu, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Anh… Một thầy bói xem chỉ tay, bảo tôi có đường xuất ngoại thiệt dài, thiệt tốt nằm trong lòng bàn tay. Tôi học hành dở dang, làm gì có học bổng để đi du học ở ngoại quốc? Hay là tôi sẽ có chồng ngoại quốc, mới có thể lìa Việt Nam, theo chồng đến định cư trên đất nước của chồng. Nghĩ đến đây tôi thấy ngái cả người, rùng mình trên sống lưng, bẻ quẹo ý nghĩ theo hướng khác.
Những ngày cuối tuần không trực, hoặc sau ngày trực được nghỉ bù, tôi nằm lì ở nhà trọ. Trong tiết trời tạnh ráo, tôi hay nằm trên xích đu đặt ngoài mái hiên, mùi hương hoa lài, hương hoa nguyệt quới ở nhà hàng xóm theo gió thoảng sang. Tôi nghĩ đến những chàng thanh niên trong những phim phỏng theo tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Chừng sực nghĩ lại mấy anh Chệt miệng nói xí xô xí xào, không biết ăn nước mắm, chỉ ăn xì dầu. Tôi bật cười khan, lại bẻ quẹo ý nghĩ qua hướng khác.
Cái hướng khác của dòng tư tưởng tôi là về phía vùng tuyến lửa có những chàng lính oai hùng hiện diện trong các bản nhạc mà Hoàng Oanh, Xuân Sơn, Ngọc Minh, Giao Linh, Giang Tử, Thanh Vũ, Nhật Trường… Các bài hát “Căn Nhà Ngoại Ô, Nỗi Buồn Gác Trọ, Nỗi Buồn Hoa Phượng…”. Lời lẽ thiệt dễ thương là sao “Chinh chiến nên anh cuối tuần không đến…”. Ôi, những lời ca đó, những điệu nhạc đó đã làm dao động tâm hồn tôi. Rồi những bài kích động do Hùng Cường và Mai Lệ Huyền hát: “Anh là lính đa tình.Tình quê hương rất nặng…”. Nếu ông tiên bà tiên hiện ra hỏi tôi: “Con muốn hóa thân thành gì?”. Chắc tôi sẽ bảo: “Con muốn biến thành quê hương, để được chàng lính đa tình yêu thương”. Nhưng rồi tôi nghĩ lại: ‘ “Nếu mình trở thành quê hương thì sẽ có hàng triệu chàng lính chiến đa tình yêu mình, làm sao mình chọn cho hết”. Tôi lại bẻ quẹo ý nghĩ sang hướng khác. Đó là con đường từ nhà trọ đến nhà thương để tôi xoa dịu vết thương và các căn bịnh, của bịnh nhân. Con đường đó là con đường tôi đang đi và sẽ đi hết cuộc đời…
Tôi thường nghĩ vẩn nghĩ vơ, rồi bẻ quẹo ý nghĩ qua hướng khác đến khi buồn ngủ rũ ra mới vào giường buông mùng ngủ cho tới lúc con cu cườm đậu trên cây trứng cá già sau nhà gáy trong sương sớm đánh thức. Tôi lại nằm nướng nghĩ vẩn vơ thêm một chập. Chừng đó tôi mới thức dậy, vắt mùng, xếp mền, sửa gối. Rồi tôi mới đi rửa mặt đánh răng, chải tóc, pha cà-phê uống trước khi đến bịnh viện. Cuộc sống đều đặn trôi qua. Tôi chờ đợi vẩn vơ, nhưng chẳng biết chờ đợi điều gì?
Chương 6
Những khi ngũ long công chúa chúng tôi có dịp hội họp dưới mái nhà của cha mẹ là có dịp để má tôi làm bánh trái và các món ngon đặc biệt. Bên sui gia của ba má tôi tức là tía má chồng của chị Tuyết Hồng, má chồng chị Tuyết Loan thường biếu xén cho gia đình tôi món nầy món kia… mỗi khi mấy chị về thăm nhà. Để đáp lễ, ba má tôi gởi tặng sui gia mình gà trống thiến, vịt xiêm cồ, xoài các đen, cam sành đầu mùa…
Ba má tôi có hai chàng rể nghệ sĩ, tức là tay thợ đờn guitare tên Đặng Vĩnh Trường và kép cải lương Lê Hữu Toàn. Tay thợ đờn nầy dẹp mộng làm nghệ sĩ, không còn mê các nữ danh ca nữa. Anh lo làm giàu lo cưng vợ yêu con. Còn chàng rể diễn viên sân khấu cải lương tên Toàn bây giờ coi chuyện theo gánh hát lưu diễn từ quận nầy sang quận nọ như cơn ác mộng đã thoảng qua.
Mỗi khi có đủ mặt năm chị em cùng anh Trường và anh Toàn, tối tối chúng tôi thường ngồi ăn chè, ăn cháo, hoặc chuối nấu, hay bánh kẹo rồi tán dóc. Gặp lúc gió mát trăng thanh, Tuyết Nga yêu cầu:
– Anh Hai! Anh lấy đàn guitare lẳn tẳn vài câu Vọng Cổ để anh Ba hát cho cả nhà thưởng thức đi anh.
Chị Tuyết Hồng nhìn qua chồng, cười nụ. Anh Trường bảo:
– Lâu nay, anh không rớ tới cây đàn nên tay anh cứng đơ cứng ngắt rồi. Anh chuyền phím không mau như xưa. Ngón đàn của anh chỉ tươi thôi chứ không mấy điêu luyện, vả lại đờn tân nhạc khác đờn Vọng Cổ.
Anh Toàn nhìn chị Tuyết Loan rồi bảo:
– Còn anh, lâu nay lo gạo bài, không có dịp luyện giọng nên giọng anh sét rồi; hơi thì hụt, còn tiếng thì khàn.
Nói đến đó anh bỗng gân cổ lên, rống inh ỏi: “Ái hậu ôi, trẩm khuyên hậu nên tắm “rô-mi-nê”, tắm “đuốt”. Hậu không nghe, hậu tắm suối, tắm sông cho mấy con cá lòng tong chúng rỉa đứt mấy cọng lông…ơ…ớ…ơ mày”.
Cả nhà cười thiếu điều tróc mái ngói. Tuyết Nga rỉ tai chị Tuyết Loan và tôi:
– Có ba má và chị em mình nên anh Toàn cho mấy con cá lòng tong rỉa đứt mấy cọng lông mày của bà ái hậu. Nếu chỉ có một mình chị Loan, ảnh dám cho mấy con cá lòng tong rỉa đứt mấy cọng lông khác, chứ sức mấy mà mấy cọng lông mày?
Ai sao không biết, chớ riêng tôi, tôi tin chị em tôi có số ích phu vượng tử. Bằng cớ là hai ông anh nghệ sĩ vô danh tiểu tốt nhà nầy bởi nhờ phước đức của vợ, người thì trở thành nghiệp chủ càng ngày càng giàu có thêm, kẻ thì tuy leo trèo ạch đụi lên nấc thang khoa bảng, nhưng rồi cũng đậu được bằng Tú Tài toàn phần như ai.
Chúng tôi từ nhỏ cho đến biết chuyện, chưa đứa nào bị má chửi mắng tục tĩu, cũng không nghe ai trong nhà nói trây. Nhưng tôi không biết vì cớ gì hai con em tôi sanh tật nói trây. Tụi nó ưa làm bộ ngây thơ… vô số tội. Tuyết Oanh ỏn ẻn nhìn tôi hỏi:
– Chị có để ý không? Trong các cuốn phim Âu Mỹ, khi anh kép hun chị đào thì cả hai đều nhắm mắt. Nhắm mắt thì làm sao họ thấy mặt lẫn nhau?
Tôi cười ngất rồi nạt:
– Bộ mầy điên hả? Sao mầy không hỏi thiên hạ mà lại hỏi tao?
Tuyết Nga trớ trêu:
– Mà chị có nhắm mắt lần nào chưa?
Tôi sừng sộ:
– Có! Hễ khi ngủ là tao nhắm mắt.
Tuyết Oanh ngúng nguẩy:
– Không, tụi em không muốn biết chị nhắm mắt lúc ngủ. Hễ ngủ thì ai mà chẳng nhắm mắt? Tụi em muốn biết chị có khi nào chị nhắm mắt lúc thức kìa.
Tôi ỡm ờ:
– À hén! Lúc thức, hễ mệt là tao nhắm mắt dưỡng thần một lát.
Hai con nha đầu như đỉa gặp vôi, như cá lóc bị đập đầu, dẫy đành đạch:
– Chời ơi! Không, tụi em muốn hỏi lúc chị khỏe, chị được dịp nhắm mắt mà thôi. Có anh chàng nào giúp chị nhắm mắt rồi chưa?
Tôi nói liền:
– Chưa! Nhưng hễ khi tao đi xem hát bóng, gặp lúc anh kép hun chị đào, tao cũng nhắm mắt theo họ. Vậy bây vừa lòng chưa?
Tuyết Nga nguýt tôi:
– Tưởng gì! Chuyện đó tụi em cũng đã từng làm như chị rồi.
Nhỏ Tuyết Oanh õng ẹo:
– Để em hỏi chị Hai, chị Ba. Còn chị, chị còn chậm tiến quá, chưa có anh chàng nào giúp chị nhắm mắt thì còn non nước gì!
Tôi trợn mắt:
– Bây mà hỏi bà thánh mẫu Tuyết Hồng thì bây sẽ lãnh ngay cái tát trẹo quay hàm. Hãy hỏi bà Tuyết Loan đi.
Rầu quá! Thật là tội nghiệp cho tôi! Hồi học trường đào tạo y tá ở Sàigòn, tôi đã chịu trận với hai con cà chớn Thu Trinh, Thuý Hiền hạch hỏi về chuyện yêu đương. Khi làm việc chung với hai con Vân Anh, Ánh Ngọc tôi cũng bị tụi nó tra khảo kể chuyện bồ bịch. Rồi về thăm nhà, tôi lại bị hai con em yêu lồi kia hỏi về chuyện “nhắm mắt”.
Có một lần tôi dắt hai con em đi xem một phim chiến tranh ở rạp Định Tường để thưởng cho Tuyết Oanh đậu phần hai, Tuyết Nga đậu phần một. Tới lúc cảnh chàng hôn nàng từ biệt để trở về đơn vị. Tôi thấy lòng rưng rưng buồn muốn khóc. Bỗng bên tai tôi có tiếng thỏ thẻ của con nha đầu Tuyết Oanh:
– Chị coi đó, nữ tài tử đóng vai chánh có hàm răng hô. Khi cô hun anh kép nước miếng hai bên mép cô ta nhểu nhão.
Tuyết Nga cũng thì thào:
– Miệng chàng thì móm như miệng cá lưỡi trâu, miệng nàng thì hô như cá vồ, cá tra.
Lòng đang buồn trước cảnh chia ly, tôi không nhịn được bật lên cười thành tiếng, làm khán giả cằn nhằn, rủa sả. Tôi phải lấy khăn tay bụm miệng để tiếng cười khỏi thoát ra.
Tôi chỉ lớn hơn hai con em tôi ba, bốn tuổi thôi, nhưng tụi nó ở vào thế hệ khác thế hệ tôi. Tụi nó tiến bộ hơn tôi nhiều, biết diện mini jupe, maxi jupe, mặc áo dài hở cổ, miệng chóc chách nhai kẹo chewing-gum, biết nhảy disco, biết giựt điệu soul ào ào khi bước ra sàn nhảy trong các tiệc cưới, tiệc tất niên, họp bạn. Tụi nó ưa nhắc đến các ban nhạc kích động nổi tiếng của Âu Mỹ, nhắc các ban: Tam ca Ba Con Mèo, Ba Trái Táo, Chó Điên, ban Tam Ca Sao Băng, Đông Phương… Lên Sàigòn tụi nó ghi tên học Anh văn ở hội Việt Mỹ, ở London School để nói tiếng Anh như gió, để đọc báo Mỹ như điên.
Hai con bạn Vân Anh, Ánh Ngọc cùng chị Diệu Tâm và tôi chỉ dám mặc quần tây, quần jean, áo sơ mi tay ngắn, tay dài trôn bầu là cùng. Đi đám tiệc chúng tôi mặc áo dài, đeo nữ trang rất ít, thoa son thật lợt, dồi phấn sương sương, đánh má hồng phơn phớt, xức nước hoa nhè nhẹ.
Cuộc sống tôi đều đặn trôi qua. Chiến cuộc càng ngày càng sôi động. Thương binh càng nhiều, các cuộc tải thương liên tu bất tận, chẳng kể ngày đêm. Ra khỏi phòng mổ, phòng cấp cứu tôi thở dốc. Nhưng nhờ trẻ tuổi, nhờ thể chất không đến nỗi nào, nên cơn mệt mõi đến và đi với tôi mau lẹ. Công việc túi bụi làm tôi không có thì giờ đọc tiểu thuyết, nghe nhạc, xem chiếu bóng như dạo trước.
Vân Anh và Ánh Ngọc có vẻ kính nể chị Diệu Tâm, nhưng tụi nó không thích thân mật, không thích tâm sự với chị. Riêng tôi, nếu tôi giỡn hớt đã đời với hai con cà chớn đó, nhưng tôi lại ưa tìm chị Diệu Tâm để hàn huyên, tâm sự. Chị dịu dàng thông cảm, ưa phân tích thế thái nhân tình. Nghe chị tâm sự, tôi mới hiểu đau thương thường làm con người suy tư những điều sâu sắc. Ở chị Diệu Tâm tôi luôn bắt gặp một tâm hồn thơ mộng. Nhà chị có cái kệ sách, có cái chậu nhỏ trồng hoa hường chim (loại hường có bông nhỏ cỡ nút áo veste), một bức tranh lụa vẽ thiếu nữ nằm đưa võng, tóc xõa như dòng suối mực tàu. Chị bảo:
– Nhà không có sách, hoa và tranh ảnh coi buồn lắm.
Tôi có dịp đi Sàigòn mua tặng chị con búp bê Nhựt Bổn mặc áo kimono bằng gấm đỏ, có khuông kiếng chụp lên để chị chưng trên chiếc bàn vuông nơi phòng khách.
Những điều nhỏ nhặt đó làm cho cả hai thắt chặt tình đồng nghiệp hơn. Bé Chim Bồ Câu ngắm con búp bê hoài không chớp mắt, coi như bắt gặp của báu.
Và có điều lạ, dù nhà chị có kệ sách, có hoa, có tranh ảnh, nhưng vẫn bao phủ một không khí thê lương. Có lẽ vì chủ nhân buồn vì hoàn cảnh canh cô mồ quả. Nỗi buồn như tâm hồn chị tràn ra ngoài mà tiếng cười đùa của Bé Chim Bồ Câu không xua tan nổi.
Mỗi khi tôi đến chơi, chị Diệu Tâm vui mừng lắm, nhưng trong nụ cười và ánh mắt của chị vẫn buồn bã. Điều đó làm tôi cảm thấy gần gũi chị thêm. Tôi tự giận mình sao không chia xẻ được nỗi buồn với chị? Tôi chỉ biết nghe chị tâm sự, nghe chị mổ xẻ tình đời. Ở chị, tôi học hỏi nhiều kinh nghiệm mà khi bước ra đời sống tự lập, tôi chưa hề nghĩ tới.
Đêm hôm rồi, giặc tràn về Cái Nứa, đốt chợ, giật sập cầu ngang. Dân chúng bị thương vong nhiều quá. Tôi lại trực phòng cấp cứu, nên sáng đêm bận rộn mệt nhừ. Bảy giờ sáng hôm sau, bàn giao phiên trực cho người khác, tôi về đến nhà, tắm rửa xong, rồi chuồi lên giường thì đã hơn chín giờ. Tiếng đập cửa thình thình, và tiếng gọi ơi ới:
– Dì Tuyết Nhạn ơi! Con đây, Chim Bồ Câu đây! Mở cửa, mở cửa cho con vào.
Tôi lơ mơ trong cơn ngủ mê, nhưng cũng phải thức vì tiếng đập cửa dai dẳng của con bé. Tôi trùm mền, lấy gối áp vào hai bên lỗ tai, cũng không thể nào không nghe tiếng réo gọi liên tục của nó. Tôi cố gượng ngồi dậy, nhưng ngồi không vững vì hãy còn say ngủ. Tay tôi ôm chiếc gối nhỏ, tay kia vịn thành giường và thọc hai bàn chân xuống mò mẫm tìm đôi dép. Mắt nhắm mắt mở, tôi lê chân lẹp xẹp ra mở cửa, lè nhè hỏi:
– Làm gì gọi om sòm vậy Chim Bồ Câu?
Con bé tay đang xách một giỏ hơi nặng đối với nó, còn tay kia nắm tay một người thanh niên. Nó cười tích toác nói, tía lia thật vui nhộn:
– Dì Tuyết Nhạn, má con bảo đem cho dì bắp luộc và ổi. Ổi xá lỵ mới hái, bắp Ban-Mê-Thuộc đầu mùa dẻo lắm, má con nói như vậy.
Tôi chợt tỉnh cơn ngủ, khựng lại, khẽ gật đầu chào người thanh niên:
– Dạ chào ông.
Người thanh niên nhã nhặn chào lại:
– Dạ chào cô. Tôi là Minh, em họ của chị Diệu Tâm. Chị Tâm bận nấu cơm nên nhờ tôi đưa Chim Bồ Câu đem quà của chị đến tặng cô, và mời cô đến dùng cơm trưa với chị.
Tôi đứng bên trong ngạch cửa, người thanh niên đứng bên ngoài cửa thì Chim Bồ Câu đã chạy tọt vào nhà, đặt quà biếu trên bàn. Tôi dịu dàng nói với chàng khách lạ:
– Dạ cảm ơn ông. Nhờ ông chuyển lời với chị Diệu Tâm, hôm nay tôi bận chút việc, nên không đến dùng cơm với chị được. Xin hẹn dịp khác. Mời ông vào nhà.
Có lẽ thấy bộ tướng sật sừ vì còn say ngủ của tôi, và biết tôi từ chối khéo, chàng ta mỉm cười. Nụ cười thật tươi và có duyên làm sao!
– Cảm ơn cô, thôi để dịp khác. Chim Bồ Câu ơi, cậu cháu mình về đi.
Tôi đóng cửa lại, vào nhà ngủ tiếp. Sáng hôm sau, tôi gặp chị Diệu Tâm dưới phòng ăn ở bịnh viện. Chị vui vẻ gọi tôi lại ngồi chung bàn, hỏi:
– Sao, hôm nay tỉnh ngủ chưa Tuyết Nhạn?
– Đỡ lắm rồi. Thật không có đêm nào bận rộn như đêm qua. Các Bác sĩ gần như đủ mặt, có cả bác sĩ Giám đốc. Ông Quản lý cho chú tài xế rước hết mấy vị độc thân trong cư xá bịnh viện vào giúp nữa. Cảm ơn chị, bắp ngon lắm, còn ổi thì em chưa ăn, chị mua ở đâu vậy?
– Của thằng Minh, con ông cậu chị đó. Nó đi gác thi ở Long Xuyên về, ghé bắc Mỹ Thuận mua tặng chị. Thằng em họ nầy tốt lắm. Nó dạy học ở trường trung học Bến Tre, và vài trường tư thục ở thành phố nầy. Lúc chị mang thai con bé bị gia đình ruồng rẫy, chỉ có nó tới lui thăm viếng an ủi. Lúc chị sắp sanh, nó cũng đến thăm. Thấy chị không có ai lo lường săn sóc, nó ở lại đưa đón, cơm bưng nước rót. Trong sở làm, có người tưởng nó là cha đứa bé. Tội nghiệp thằng Minh lắm, mợ chị qua đời khi nó mới ba tuổi. Nó còn bà chị ruột có chồng ở Hòa Đồng. Cậu của chị, tức là cha của Minh lúc sanh thời làm thầy thuốc bắc. Ổng sống góa vợ trong hoàn cảnh gà trống nuôi con ở làng Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Năm đó giặc về đốt chợ, nhà cửa ổng bị thiêu rụi. Ổng mua chiếc ghe có mui, chèo ghe đi bán thuốc và xem bịnh cho người trong làng xóm xa. Minh thì được gởi về sống với ông bà ngoại mình để đi học. Ổng đi bán thuốc xem mạch như vậy, mười bữa nửa tháng mới về một lần để thăm con. Ngày 27 tháng 7 năm đó, ổng đi rồi không trở về nữa. Sau đó ít lâu, người nhà tìm được xác ổng bị giặc giết chôn dập trong cánh đồng hoang gần biển với bản án là: Việt gian tình báo của địch (tức là của chánh quyền Việt Nam Cộng hòa). Giấy tùy thân và một ít đồ dùng của ổng dân làng lén lút giữ, nên mới biết chắc là ổng đã chết. Không ai biết ổng bị giết chết ngày nào. Từ đó, ngày giỗ của ổng là ngày ổng lìa nhà ra đi lần chót.
Chị Diệu Tâm ngừng lại uống ngụm nước. Tôi hoàn toàn bị cuốn hút vào câu chuyện chị đang kể. Chị thở dài rồi tiếp:
– Tội nghiệp thằng Minh! Tang tóc đó đến lúc nó mười hai tuổi. Một đứa trẻ bỗng nhiên bị tai họa oan khiên cướp mất tình thương của một người cha khả kính. Từ đó, Minh sống nhờ họ hàng hai bên nội ngoại, thật là khổ sở thiếu thốn biết ngần nào! Nhạn nghĩ xem, một đứa trẻ không cha mẹ, ăn nhờ ở đậu với chú bác, cô dì để làm việc nhà thôi cũng hết sức khó khăn rồi, còn sự hà hiếp của đám con cái họ nữa. Cho nên, nó làm sao có tâm trí để học? Vậy mà nó vẫn bền tâm, kiên nhẫn, chịu khó, chịu cực học hành đỗ đạt thành tài. Minh là cựu học sinh của trường trung học Nguyễn Đình Chiểu. Nó học môn nào cũng giỏi và viết chữ rất đẹp.
Chị Diệu Tâm dừng lại nhìn tôi, mỉm cười xí xóa:
– Hôm nay, mình lại kể chuyện không đâu, thật kỳ quá! Thôi không kể nữa.
Tôi vừa ăn, vừa chăm chú nghe và mỉm cười nhìn chị:
– Chị kể tiếp đi, em thích nghe, và em đã bị cuốn hút vào câu chuyện nầy rồi đây.
– Khi đậu phần hai, Minh lên Sàigòn học ngành Luật. Học đâu được một năm, thì thi và trúng tuyển vào đại học Sư Phạm. Ra trường nó về dạy ở Bến Tre nay cũng được hơn ba năm rồi. Lúc ở Sàigòn nó sống nhờ nhà ông cậu Út của chị. Ổng ngoài bốn mươi tuổi mà chưa có vợ. Nhà ổng rất đông người, con mấy dì, mấy cậu đứa nào muốn ở thì ổng cũng cho ở. Thằng Minh ở đó như một quản gia kiêm luôn người làm. Mọi việc trong nhà nó phải cáng đáng hết, kể luôn phần rửa chén lau nhà. Trong khi đó mấy đứa con bạn dì ruột, cô cậu ruột ở chung mà chỉ ăn rồi học, rồi đi chơi, không làm gì ráo. Nó rất an phận, không phân bì, không than thở hay cằn nhằn gì cả. Đi học về thì nó lo làm công việc hàng ngày ở nhà cho xong, rồi mới lo công việc của mình, nó thức khuya, dậy sớm, cần mẫn học ôn bài vở. Lúc Minh học Sư phạm, thì chị cũng đang học y tá ở Sàigòn. Nhưng chị không ở nhà ông cậu, mà ở nội trú. Chị và Minh rất thân. Những chuyện buồn vui nó thường tâm sự với chị. Những ngày rỗi rảnh hai chị em thường rủ nhau đi chơi, đi xem chiếu bóng. Lâu lâu chị còn dúi cho nó ít tiền để nó tiêu xài trong những việc cần thiết. Tội nghiệp lắm, con mồ côi mà! Tánh tình nó rất dễ thương, chân thật, nhẫn nhục, ít nói. Nhưng nó lại rất khó tánh, thích trầm lặng. Nó có sức chịu đựng và kiên nhẫn hơn nhiều thanh niên cùng tuổi nó. Đó là một tánh tốt mà nhiều người ở hoàn cảnh nó không thể được như vậy. Nhờ Ơn Trên, đời sống bây giờ của nó rất vững vàng. Mặc dù chưa lập gia đình, dù được sống tự do một mình, nhưng nó rất mực thước. Không ồn ào, ăn chơi, rượu chè bê bết. Đi đâu về ngang qua thành phố nầy, nó đều ghé thăm mẹ con chị.
Chị Diệu Tâm dừng nói, uống ngụm nước nhìn tôi mỉm cười:
– Chị cầu mong sau nầy nó lập gia đình gặp được người vợ dịu dàng, có hạnh kiểm tốt.
Tâm tư tôi còn bồi hồi, thương cảm, xót xa bởi câu chuyện chàng thanh niên kia. Tiếng cười nói rổn rảng của Vân Anh và Ánh Ngọc vang lên khi tụi nó vừa bước vào, Ánh Ngọc lên tiếng:
– Hai người trốn ở đây để tâm sự lên khơi, phải không?
Vân Anh thì ong óng cái miệng phèn la:
– Ê Tuyết Nhạn, hồi nãy ông Giám đốc cho người tìm mầy.
Tôi ngạc nhiên:
– Thật hả? Chuyện gì vậy?
Ánh Ngọc cướp lời:
– Ai biết chuyện gì. Chắc là chuyện chẳng lành đâu.
Chị Diệu Tâm trấn an tôi cười nói:
– Hai đứa cứ hù Tuyết Nhạn hoài. Chắc là chẳng có gì đâu Tuyết Nhạn à. Không chừng ổng muốn làm mai Tuyết Nhạn cho cậu em đẹp trai hào hoa phong nhã của ổng là Sĩ quan đang làm ở Hành Chánh Tài Chánh số 7 đó.
Vân Anh lườm mọi người:
– Nói bậy, anh chàng Sĩ quan đẹp trai đó là của em.
Ánh Ngọc cười lớn:
– Mầy định cưới thằng chả về làm gì?
– Về đóng cái tủ kiếng thật lớn để thằng chả vào đó mà ngắm mà nhìn. Thằng chả gặp cô nào cũng cười mím chi cọp, rồi huýt sáo, rồi dùng những lời ngọt ngào bóng bẩy để thả dê, dụ dỗ con gái người ta. Mấy người thấy tôi làm vậy đúng không? Ai mà dám nhào vô với cái thứ đờn ông nguy hiểm đó!
Chị Diệu Tâm cười:
– Vân Anh có biết mặt anh ta, và có bị anh ta chọc ghẹo lần nào chưa? Sao cô lại tố khổ người ta dữ vậy?
Vân Anh cười lém lỉnh, rồi nhanh nhẩu trả lời:
– Chưa! Em chỉ nghe đồn thôi.
Cả bọn chúng tôi cười ồ lên. Ánh Ngọc đập vào vai Vân Anh:
– Thôi đi bà cố nội ơi! Chuyện gì đối với bà cũng kinh thiên động địa hết. Bà mà ưa ai thì đương sự là ác quỉ cũng hóa thành tiên, bà mà ghét ai thì dù đương sự đẹp như tiên cũng trở thành cùi đui, sứt mẻ qua cái miệng ăn mắm ăn muối của bà.
Giờ ăn trưa vừa hết, chị Diệu Tâm chào chúng tôi về trại bịnh của mình để làm cho hết những công việc trong ngày còn chưa xong. Và câu chuyện chị kể về người em họ của chị vẫn còn vương vấn trong lòng tôi.
Từ ngày về nhận nhiệm sở đến giờ nhịp sống của tôi vẫn đều đặn. Sáng đi, chiều về nhà trọ. Ngày nào trực thì sáng hôm sau mới về. Cuối tuần nào rỗi rảnh thì tôi về thăm nhà, vui với gia đình, được ăn những món ngon do má tôi nấu nướng. Nhà chúng tôi được cất trên bờ một nhánh nhỏ của sông Cửu Long, có dòng nước ngọt trong vắt quanh năm. Cá tôm dồi dào. Cần ăn cá tôm là cứ đến nơi đóng đáy chờ họ giở đáy lên mua về là làm món ăn ngay. Hoặc gọi mấy ngư phủ giăng câu, chài, lưới trên sông để mua tôm càng, cá sủ, cá he nghệ, cá mè trắng, cá mè đen, cá thác lác… tươi chong còn nhảy soi sói. Món tôi thích nhứt vẫn là món tôm càng nướng ăn với bún, rau thơm và giá sống.
Ở quê ngoại tôi, không thời nào dân chúng an cư lạc nghiệp bằng thời nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm làm Tổng Thống. Các đường sá từ Quốc Lộ Bốn vào quận, vào làng xã xa xôi hẻo lánh được bồi đắp xây dựng theo kích thước của làng xã ấn định. Cầu bắc ngang rạch nhỏ thì cột phải bằng xi-măng và lót bằng ván gỗ cây sao dầy rất khít khao. Cầu bắc ngang rạch lớn thì phải đúc bằng xi-măng cốt sắt chắc chắn. Xe lam, xe máy chạy qua được dễ dàng.
Dân cư xây cất nhà theo ý thích và theo tài chánh của mình. Nhà lợp ngói, vách tường. Nhà lợp tôn, vách bổ kho. Nhà lá, nhà tranh khang trang mọc lên như nấm. Dân chúng đi từ đầu làng đến cuối thôn, qua lại làng khác, quận khác, tỉnh khác… thâu đêm suốt sáng không có giới nghiêm, khỏi phải xin phép tắc chi hết.
Trong làng tối thiểu phải có trường sơ học; có trạm y tế. Ở các quận lớn còn có trường trung học đệ nhất cấp, có chi y tế lo sức khỏe cho dân trong quận, trong thôn xóm. Mọi gia đình vui sống đề huề. Dân chúng lương thiện làm ăn. Chùa chiền, nhà thờ được tu bổ, xây cất thêm. Mấy ông Hội đồng quận, xã, ấp; làm việc không lương hướng nhưng giúp đỡ dân chúng thôn mình tận tình. Họ xử sự theo tình cảm thân thương của người trong thôn xóm. Và gần như tôi chưa nghe trộm cắp, cướp giựt, đâm chém. Thuở ấy, từ Bến Hải đến Cà Mau, dải đất quê Nam của tôi thật thanh bình.
Trong trời đất chưa ngún ngòi chiến tranh ấy, có một chàng tuổi trẻ thoáng qua cuộc sống tình cảm của tôi. Cho đến bây giờ tôi tự hỏi, mình có thật sự yêu chàng không? Tôi không cảm thấy tâm hồn dao động khi nghĩ tới chàng. Chị Tuyết Loan thường nói:
– Tình yêu đến với mình như cú sét giáng xuống đầu, mình biết ngay không nghĩ dài dòng quanh quẹo.
Nghĩ đến chàng tôi như gặp cơn gió mát thổi qua tâm hồn rồi thôi. Nhưng tôi vẫn thích nghĩ tới chàng. Chàng tên Lê Trường Hải có đủ điều kiện để giáng cho tôi một cú sét xuống đầu. Mà ủa lạ, sao tôi đợi hoài vẫn không nghe thấy tiếng sét đó? Tôi đâu có điếc. Trái tim tôi có bao giờ khép kín đâu. Nhưng mỗi khi nghĩ tới chàng, tôi chỉ bắt gặp một cơn gió mát nhè nhẹ đến rồi rón rén đi. Tôi thầm gọi chàng trở lại. Chàng vẫn hiện thân là cảm giác dịu dàng, không đủ sức làm trời long đất lỡ trong nội giới tôi.
Từ đó, tôi đành thả chàng lùi sâu vào bóng tối quá khứ. Từ đó, tôi tin rằng nếu trai gái mà phải lòng nhau, chắc chắn từ hồi tiền kiếp, chàng cũng chỉ đến với tôi bằng cơn gió mát không gây sóng gió trong trái tim tôi.
Số là như vầy: Nhà tôi có ghe tam bản, có xuồng bơi, xuồng chèo, xuồng ghe gắn máy đuôi tôm. Những đêm rằm trăng sáng, mấy chị em tôi thường hay bơi thuyền trên sông. Lúc đầu tụi tôi đi chơi như vậy, ba má tôi bắt chị Bảy theo chèo hoặc bơi. Sau đó ba má tôi nói:
– Các con sống ở vườn thì phải tập lội, tập chèo ghe, bơi xuồng.
Chị Tuyết Loan tru tréo:
– Mai mốt khi lớn lên con sẽ đi làm việc ở thành. Tụi con không cần phải biết chèo ghe, hoặc bơi xuồng gì cả.
Ba tôi nghiêm giọng:
-Mấy đứa bây đều phải tập cho biết. Rồi đây, sẽ có lúc bây cần dùng đến việc bơi xuồng, việc chèo ghe. Biết thêm cách di chuyển trên đường sông rạch cũng tốt lắm chớ, có mất mát chi đâu.
Chị Hai Tuyết Hồng lắng nghe rồi gật đầu vâng lời ba. Còn tôi thì khều chị Tuyết Loan, dụng ý bảo đừng cãi nữa.
Tôi nói:
– Bơi thuyền trên sông để ngắm trăng mà chị Bảy đi theo mất hứng hết.
Ba tôi mỉm cười nhìn tôi, hỏi:
– Sao vậy?
– Vì đi theo mà chị ta cứ buồn ngủ, ngáp hoài. Cho nên chỉ cứ đòi về sớm.
Ba tôi cười:
– Tuyết Loan, con có nghe em con nói chưa? Nhưng bây cũng không nên trách chị Bảy được. Cảnh đêm trăng đối với các con thì khác đối với chị Bảy. Vì chị đã quen thấy cảnh nầy rồi. Vả lại chị ta làm việc nặng nhọc suốt ngày, khi xong việc chị muốn nghỉ ngơi. Cho nên các con cố gắng học cho biết bơi, biết chèo để khỏi nhờ chị ta nữa, để khỏi mất hứng khi thấy chị ta ngáp ngủ dài dài.
Ba tôi nói xong bỏ đi nơi khác, chị Tuyết Loan háy tôi con mắt dài có đuôi, cùn quằn:
– Đồ con nhỏ nịnh bợ. Bộ mầy không muốn sau nầy đi làm ở chốn thị thành sao?
– Muốn chớ, nhưng em cũng muốn biết bơi xuồng, chèo ghe. Chị cũng thấy đó, mấy cô thôn nữ nhờ chèo ghe, bơi xuồng, gánh, đội, mà cái eo đẹp.
– Mầy ham bơi xuồng, chèo ghe, gánh lúa hay gánh nước để có cái eo đẹp thì mầy học mấy thứ đó đi. Rồi sau nầy mầy đừng có hối hận tại sao bàn tay mầy chai ngắt nghen.
Chị Tuyết Hồng xen vào giảng hòa:
– Được rồi, nếu Tuyết Loan không thích học bơi chèo thì thôi. Có chị với Tuyết Nhạn biết cũng đủ rồi. Lâu lâu, mình mới bơi xuồng đi chơi một lát, bộ đưa đò sao mà sợ chai tay?
Mỗi lần đi chơi thuyền dưới trăng, thì chiều hôm đó, chị em tôi bàn tán với nhau trước. Phải đem theo món gì để ăn, thứ nước gì để uống. Thường thì một rổ ổi chua, hoặc một thau cóc gọt vỏ và tách ra từng cánh xòe ra, còn ở đít không tách nên dính chụm lại, cùng chén muối ớt. Khi thì rổ khoai lang, hoặc rổ chuối nấu nóng hổi, lại thêm mỗi đứa được một trái dừa xiêm đã gọt và chặt miệng, sẵn sàng để uống. Có khi má tôi mua cho mấy phong bánh in, mấy gói cốm chuồi, hay gói kẹo đậu phọng. Nếu hôm nào đem bánh kẹo thì chúng tôi xách theo ấm nước trà còn nghi ngút khói. Mỗi lần đi thuyền thì tôi luôn luôn ngồi bơi trước mũi, chị Tuyết Hồng bơi sau lái. Còn chị Tuyết Loan thì ngồi giữa để khỏi bơi. Vì không bơi chèo nên trước khi đi, chị Tuyết Loan có bổn phận phải cụ bị đồ ăn, nước uống, trải chiếu trên mỗi chỗ ngồi của mọi người cùng đi, và khi về thì chị Tuyết Loan phải dọn dẹp mọi thứ.
Xuồng chúng tôi thả trôi nhiều hơn bơi. Đầu hôm trăng vừa lên, tỏa ánh sáng khắp nơi. Trăng càng lên cao, trời càng trong. Mặt nước lấp lánh. Những lượn sóng nhấp nhô xô vào be thuyền. Vạn vật im lìm, chỉ có tiếng gió lùa qua đám phi lao rào rào dọc hai bên bờ sông. Tiếng chim kêu oang oác trên trời cao rồi xa dần, xa dần và mất hút. Xa xa, những xuồng câu mập mờ trên sông. Lâu lắm mới nghe giọng hò đối đáp của khách thương hồ, từ bến chợ vọng đến. Giọng hò ngân vang trong đêm trăng mơ màng huyền ảo, rồi để lại dư âm lan dìu dịu bâng khuâng. Trước thanh cảnh nước trời man mác, tôi cảm thấy tâm hồn như thiếu vắng một thứ gì mà không sao diễn tả được. Thuở đó, tôi còn nhỏ, chừng mười bốn, mười lăm. Nhưng tôi không sao quên được những đêm chèo thuyền trên sông đó.
Rồi bẵng đi những năm dài, tôi không được chèo thuyền ngắm trăng. Chị Hai Tuyết Hồng đã theo chồng. Chị Tuyết Loan và tôi đi học xa, ít khi có dịp về cùng lúc trong những đêm rằm như thuở nào. Giờ đây, trước cảnh đẹp dịu dàng của đêm trăng trong, chúng tôi không sao ngồi yên trong nhà được. Dù không có mặt chị Tuyết Hồng, nhưng bốn chị em rủ nhau chèo thuyền ngắm trăng. Hai con em Tuyết Oanh và Tuyết Nga bơi xuồng giỏi hơn hai mụ chị của chúng nhiều.
Xuồng chúng tôi rời bờ không lâu, thì có tiếng đờn ghi-ta, tiếng đờn măng-đô-lin, tiếng ca hát nhịp nhàng của bọn thanh niên vang rền cả khúc sông. Tôi và chị Tuyết Loan chưng hửng, ngơ ngác, không biết họ từ đâu đến và vận sự nầy có từ bao giờ ở vùng quê xa xôi hẻo lánh nầy? Trên thuyền kia lại toàn là thanh niên nữa. Thuyền họ khi đến gần thuyền chúng tôi thì lướt chậm lại, cách một khoảng xa chớ không đến gần sát. Cô em Tuyết Oanh hỏi nhỏ:
– Hai chị biết mấy anh thanh niên đó không?
Chị Tuyết Loan lắc đầu:
– Ai vậy? Từ đâu chui ra bọn con trai nầy?
Tuyết Nga cười, mắt sáng ngời dưới ánh trăng:
– Cháu nội ông Cả Tám cùng mấy tên bạn ở Sàigòn về nghỉ hè.
Chị Tuyết Loan hằn học:
– Kệ bọn nó chớ! Ở Sàigòn bộ ngon lắm sao? Họ làm tàng quá trời! Họ đờn ca rùm beng như dậy giặc! Thấy phát ghét!
Tôi lắc đầu cười một mình. Bà chị tôi thấy người ta có vẻ thị thành hơn mình thì không chịu được. Bỗng tiếng đàn hát ngưng bặt. Tiếng gọi từ bên thuyền kia vọng qua:
– Tuyết Nhạn, Tuyết Nhạn hả?
Tôi thắc mắc tự hỏi, sao ai đó biết tên tôi? Chúng tôi không ai trả lời. Tiếng người thanh niên bên kia hỏi lớn:
– Tuyết Nhạn về hồi nào đó? Còn nhớ Hải không? Lê Trường Hải, học chung với Nhạn ở lớp sơ học trường Ông Hưng đó. Nhớ chưa?
Vì bất ngờ quá tôi chưa kịp nhớ. Chị Tuyết Loan tưởng bọn đó chọc ghẹo tôi nên trả lời như cua đinh cắn cụt:
– Ở đây là sông chớ không phải biển, nên không ai biết Hải nào hết.
Cả bọn bên thuyền kia cười lớn chọc quê anh Hải nào đó. Rồi thuyền họ tách ra xa chèo về phía trước. Rồi tiếng đờn tiếng ca lại tiếp tục nhịp nhàng rộn rã trên sông.
Sáng hôm sau, nắng ấm trải vàng trên cây cỏ. Ngọn gió mùa hè nhè nhẹ mong manh đưa hương thơm hoa lá từ trong vườn sang tới hiên nhà tôi. Những giọt sương đêm còn đọng trên cành lá, phản chiếu ánh nắng sáng lóng lánh. Tôi mở rộng thêm cửa sổ lá sách, ngắm nhìn bên ngoài. Màu tươi xanh đầy nhựa sống của cây cam, cây nhãn và của bờ trầu chằng chịt những dây trầu quấn quanh nọc vông làm tâm hồn tôi tươi vui theo ngoại cảnh.
Đôi chim khách, con trước, con sau bay xẹt ngang. Bóng dáng chim lẫn vào cành lá cây rậm rạp, nhưng tiếng hót còn lanh lảnh véo von trong không gian. Giàn bầu sau hè gần hầm cá tra tươi tốt. Những chiếc lá xanh nham nhám lông, to bằng cây quạt xòe ra, dây bầu mập gần bằng ngón chân cái. Bông bầu phơi phới nở vàng. Những con bướm, con ong vo ve bay quanh giàn.
Mùi cá muối sả ớt chiên vàng từ nhà bếp bay đến làm tôi thèm muốn nhỏ dãi. Tôi nghĩ ngay đến tô cơm trắng tinh nóng hổi, trái dưa leo đèo mới hái, nhai dòn khưu khứu. Thật tuyệt! thật tuyệt! Hủ tíu, xíu mại, bánh bao, hay bữa cơm thịnh soạn đầy cao lương mỹ vị của hoàng gia đi nữa, đối với tôi bây giờ chắc chắn sẽ không sao sánh bằng!
Bỗng một chàng thanh niên rẽ vào ngõ nhà tôi. Tôi ngạc nhiên chăm chú nhìn chàng rồi tự hỏi: “Ai vậy cà? Hình như mình chưa gặp anh ta lần nào ở vùng quê nầy!” Ba tôi đang đứng tỉa những nhánh nhỏ mọc vô trật tự của cây mai tứ quý. Ông dừng tay lại, nhướng mắt, trễ cặp mắt kiếng lão nhìn chàng thanh niên lạ. Anh ta lễ phép chào:
– Dạ chào bác Năm.
Ba tôi vẫn chưa nhận được ra ai, nhìn anh ta dò xét:
– Cậu là ai vậy? Có phải bạn của mấy đứa nhỏ tôi không?
Chàng thanh niên lễ phép:
– Thưa bác, cháu tên là Hải, con ông Tư Hướng ở trong rạch Ông Hưng. Ngày xưa cháu học cùng lớp với Tuyết Nhạn.
Ba tôi chợt nhớ ra, tươi cười:
– Ồ, cháu Hải đó hả? Mời cháu vào nhà. Bây giờ cháu cao lớn quá, bác nhận không ra. Ba má cháu khỏe chớ? Lâu quá, bác không gặp ảnh chỉ. Nghe nói cháu học giỏi lắm, và sắp đi du học ở nước ngoài có phải không? Chúc mừng, xin chúc mừng cháu.
Má tôi trong nhà bước ra, nhìn anh ta rồi đon đả:
– Hải đó hả? Cao lớn quá! Nếu gặp cháu ở ngoài đường mà không ai giới thiệu, chắc bác sẽ không nhận ra cháu đâu. Nhớ ngày trước sáng nào cháu cũng đến nhà ngoại chờ Tuyết Nhạn cùng đi học. Những ngày nước nổi cháu còn cõng nó qua cầu và qua những khúc đường nước ngập nữa. Bẳng đi thời gian dài, cháu bây giờ là một thanh niên tuấn tú. Cháu vào nhà chơi. Tuyết Loan và em Tuyết Nhạn về hôm qua, nghỉ lễ Bắc xong, chúng nó mới đi.
Má tôi giục anh ta:
– Vào nhà đi cháu, bác sẽ gọi chúng nó ra.
Ba tôi vẫn tiếp tục tỉa cho xong bụi bông của ông. Hải đi theo má tôi, tươi vui nét mặt. Tôi nhảy lên giường kéo mền chị Loan, trùm lên tới cổ, nhắm mắt làm như đang ngủ. Má tôi lắc mạnh chân tôi và kéo tốc mền hai đứa ra:
– Mặt trời lên đến đỉnh đầu rồi mà bây còn ngủ hả? Hai đứa thức dậy đi, mau lên, có bạn đến thăm.
Chị Tuyết Loan một tay kéo mền đắp lại, một tay đẩy tôi với giọng lè nhè:
– Bạn biển dài của mầy đó. Thức dậy tiếp người ta đi mầy ơi. Đi đi, để tao ngủ thêm một chút. Ngày xưa hắn cõng mầy đi học. Tương lai mai mốt, hắn sẽ cõng mầy đi làm. Ra tiếp người ta đi.
Chị trùm kín đầu và cười cúc cúc làm rung rinh mền đắp nơi vai. Tôi không nhịn được, cũng cười, vói tay đánh vào mông chị và nói với má:
– Má ra ngoài nói chuyện đi, con phải đánh răng và thay quần áo.
Má tôi gật đầu:
– À, thì mau lên đi.
Tôi chỉ nhớ mơ màng khi nghe anh Lê Trường Hải nhắc lại những mẫu chuyện lúc chúng tôi còn học lớp một, lớp hai. Khoảng tôi lên sáu bảy tuổi. Mỗi tích tắc của kim đồng hồ là bao nhiêu thay đổi của cuộc đời. Thời gian quá lâu, vả lại anh đến thăm hết sức bất ngờ, tôi không sao nhớ hết những chuyện xưa trong lúc ngồi nói chuyện với anh được. Họa chăng sau nầy ngồi ôn dĩ vãng, may ra tôi nhớ lại ít nhiều? Anh Hải cho biết anh đã vào binh chủng Hải quân, và sau khi học xong quân sự, anh sẽ đi ngoại quốc hai năm, học về ngành chuyên môn.
Anh Hải cao lớn, khỏe mạnh, tánh tình hoạt bát, vui vẻ. Lúc nói chuyện, mắt anh long lanh nhìn sâu vào mắt người đối diện, như đoán được trước câu trả lời hoặc câu họ sắp nói ra. Anh hỏi thăm tôi về những sinh hoạt hàng ngày, và tôi có dự định gì ở tương lai không? Anh duyên dáng nhắc lại một vài mẫu chuyện xưa:
– Tuyết Nhạn còn nhớ không? Có một chiều Hải dẫn Nhạn đến vườn ông Cả Kẹo ăn cắp nhãn. Nhạn đứng bên kia cầu khỉ, vì sợ té Nhạn không dám đi qua. Hải chưa hái được trái nhãn nào thì bị chó rượt cắn sứt hết lai quần. Phải dỗ Nhạn nín khóc vì Hải không hái được nhãn. Về nhà Hải còn bị trận đòn nên thân. Sáng hôm sau, Hải lén ra vườn thật sớm, leo lên cây sắn cao hái sắn. Hải lựa nhánh có nhiều trái chín, đem vào lớp cho Nhạn. Vì còn giận hôm qua bị chó rượt, Nhạn xách nhánh sắn thảy xuống hầm cá sau trường.
Tôi mỉm cười, lí nhí trong miệng:
– Nhạn thành thật xin lỗi. Lúc đó Nhạn còn nhỏ có biết chi đâu. Thời gian qua mau quá! Mười mấy năm rồi còn gì! Vậy mà anh vẫn nhớ, hay thiệt!
Anh Hải nhìn sâu vào mắt tôi mỉm cười. Suốt buổi nói chuyện, tôi chỉ cười và trả lời chấm câu khi nào anh hỏi. Ít khi tôi hỏi về anh. Anh rất duyên dáng, dí dỏm và tếu tếu trong lúc nói chuyện. Trong từng câu chuyện kể, anh dễ dàng thu hút người nghe. Tôi nghĩ con người nầy chắc chắn có cả hàng tá bồ.
Anh Hải lúc tuổi thơ trong trí tôi: hiền lành, ít nói, chân thật. Anh Hải hôm nay, sóng thời gian đã làm anh đổi thay quá nhiều. Nếu có dịp tôi sẽ giới thiệu anh với hai con Thu Trinh và Thúy Hiền thì hay biết mấy. Tôi thấy bọn nó mới hợp “gu” với anh trong nhiều phương diện. Anh đến thăm chơi chừng hai giờ thì xin phép ra về. Ba má tôi có mời anh ở lại dùng cơm, nhưng anh từ chối, xin hẹn lại dịp khác. Trước khi ra về, anh xin địa chỉ và hứa viết thư cho tôi. Anh còn dặn tôi khi được thư phải nhớ hồi âm cho anh.
Bây giờ nghĩ lại, tôi nhận thấy anh Hải và tôi có hai cảnh đời khác. Anh thích trời cao biển rộng và cuộc đời thủy thủ. Tôi không thể làm vợ anh, để khỏi có cảm tưởng anh yêu biển hơn yêu vợ nhà, trong lúc đó tâm hồn tôi lại gắn bó với quê cha đất tổ.
Hãy cho tôi ngắm ruộng đồng bao la và man mác gió, có những nhà nông cày bừa. Tôi được nghe tiếng ào ào của quạt nước từ rãnh lên ruộng, tiếng mục đồng la hét ví thá đàn trâu, tiếng cười nói của các cô thôn nữ khi cấy lúa, nhổ mạ, cào rơm, hay đắp bờ…Hãy cho tôi nhìn bầu trời trong nắng đẹp, cao vời vợi, không gợn chút mây giữa trưa hè. Hãy cho tôi nghe tiếng mưa rào rạc trên mái lá, tiếng sấm sét giòn tan như vỡ kiếng. Những tia chớp sáng rồi tắt ngấm, nhường chỗ cho bóng đêm dầy đặc. Hãy cho tôi ngắm trời trăng mây nước ở thôn quê, cho tôi đi dự những buổi lễ Tết ở trước sân đình làng, những buổi hát chầu vào lễ Thượng Nguyên rằm tháng ba ở đình Thần. Hãy cho tôi đi dự lễ chùa, ăn xôi chè vào mùa Đoan Ngọ. Như vậy tôi sẽ thích hơn cho tôi đi thăm Thảo Cầm Viên, đi dạo phố đêm để ngắm thành phố lên đèn, đi xem hát, đi vũ trường.
Lần nào đó, lâu lắm rồi, lúc tôi còn học y tá, nhỏ Thúy Hiền và bồ nó cùng nhỏ Thu Trinh và bồ nó, lại thêm ông anh trai mà Thu Trinh khoe là tuấn tú đẹp trai văn võ song toàn, tất cả đến đón tôi đi vũ trường Maxim’s ở đường Tự Do. Bọn nó đi trên xe mới tinh của ông già, bồ của nhỏ Thúy Hiền cò-măng mới về tuần trước. Đêm đó hai nhỏ mặc đầm xòe màu hường tươi sáng, mang giầy cao, tóc búi thả một bên. Trông hai nhỏ quý phái sang trọng như bà hoàng. Ba chàng kia thì tướng tá khôi vĩ, mặt mày tươi vui rạng rỡ, diện com-lê đúng mốt.
Còn tôi hãy còn là con nhỏ nhà quê, chỉ mặc chiếc áo dài cố hữu màu hoàng anh, hơi tân một chút là: hở cổ, dưới hai tà có thêu hoa cúc tím hồng, lá xanh, tay áo ráp phùng. Tóc tôi xõa ngang vai, được cài băng-đô cũng màu vàng nhưng nhạt hơn màu áo. Cổ quấn phu-la màu xanh lông két mỏng, nhẹ. Đi bên tụi nó, tôi chẳng khác nào con bé lọ lem. Thật sự thì tôi không muốn đi, vì tôi không biết khiêu vũ, nên đã từ chối mấy lần rồi. Nhưng lần nầy thì đành chịu, tôi không từ chối được nữa. Vả lại, tôi cũng muốn đi một lần xem cho biết không khí vũ trường ra sao!
Vũ trường là một thế giới riêng. Ở đây có ánh đèn màu dìu dịu. Có tiếng nhạc êm đềm du dương. Có tiếng hát ngọt ngào trầm bổng của ca sĩ. Có tiếng mở nắp rượu champagne. Có mùi thơm nồng nàn của rượu, của nước hoa. Có từng cặp, từng cặp dìu nhau ra sàn nhảy. Trong vũ trường không có bóng tối của chiến tranh, không có khổ đau vì giặc tàn sát hàng vạn dân lành như ở Huế vào Tết Mậu Thân. Ở đây không thấy hỏa châu rơi, không nghe tiếng súng nổ, tiếng đạn pháo rót vào thành phố, tiếng còi xe cứu thương chạy giục giã trên đường. Và ở đây không có bóng dáng người lính chiến trên đường bôn tập ra đến tuyến đầu.
Tâm hồn tôi se thắt. Tôi không cảm nhận được cái vui hiện tại ở chốn nầy! Tôi giả bộ mặt mày bí xị, khều Thu Trinh và kề tai nó nói nhỏ:
– Tao đau bụng quá! Chắc hồi chiều ăn gì không tiêu.
Nó lườm tôi:
– Mầy giả bộ hả?
Tôi cười như mếu:
– Đã đến đây rồi, còn giả bộ gì nữa.
Thúy Hiền ngồi với bồ nó đàng kia, thấy tôi với Thu Trinh thì thầm liền õng ẹo bước lại:
– Chuyện gì mà hai đứa bây thủ thỉ có vẻ bí mật quá vậy?
Thu Trinh xịu mặt:
– Nhỏ Tuyết Nhạn kêu đau bụng đòi về.
– Sao zdậy? Anh của Thu Trinh dở thấy mồ, không biết nịnh đầm, nên Nhạn mới đòi về.
Tôi đánh vào vai nó, nhăn mặt nói:
– Đừng nói bậy, tao đau bụng thiệt. Tụi bây nếu không cho tao về thì chút nữa sẽ gọi xe cứu thương đó.
Thu Trinh cười:
– Gọi xe cứu thương đưa mầy vô bảo sanh Từ Dũ hả?
Tôi vừa tức vừa mắc cười:
– Bộ tụi bây điên rồi hả?
Hai đứa cười. Thúy Hiền nói:
– Được rồi, để bọn tao đưa mầy về.
Đưa tôi về đến cư xá. Bọn nó kéo nhau đi ăn mì. Còn tôi thì đi tắm và lên giường trùm mền cố tìm giấc ngủ, cố quên đi nỗi buồn chợt đến trong vũ trường Maxim’s.
Tôi ngủ no giấc sau đêm trực vừa qua. Chiều nay chủ nhựt, chị Diệu Tâm rủ đến nhà ăn cơm. Sướng quá! Vậy là tôi khỏi phải ăn mì gói, ăn cơm nguội, ăn cơm tay cầm với hai con heo nút lưỡi (pa-tê hộp, ngoài hộp có in hình hai con heo châu mỏ vào nhau). Bởi một tuần tôi chỉ ăn cơm họ nấu tháng có ba ngày, hai ngày cuối tuần, ngày trực và sau ngày trực thì tôi ăn cơm nhà.
Tôi vừa bước vào nhà chị Diệu Tâm, thì con bé Chim Bồ Câu chạy ra kéo tay tôi, tía lia cái miệng. Nó lôi tôi đi giới thiệu:
– Dì Tuyết Nhạn, dì Tuyết Nhạn. Đây là cậu Minh của con, chắc dì chưa quên?
Người thanh niên ngọt giọng, thân mật chào tôi:
– Chào cô, mình lại gặp nhau nữa rồi.
Tôi bẽn lẽn chào lại, và chợt nhớ Minh đến nhà trọ của tôi hôm trước trong khi tôi còn say ngủ.
Chị Diệu Tâm vui vẻ dưới bếp chạy lên lăng xăng nói:
– Ngồi chơi Tuyết Nhạn, chờ món xào xong thì chúng mình có thể ăn được rồi.
Rồi chị quay qua Minh định giới thiệu, nhưng ngần ngừ, rồi hỏi:
– Ủa, bộ hai người gặp nhau rồi hả?
Minh mỉm cười nói:
– Bộ chị quên rồi sao? Hôm trước chị nhờ em đưa Chim Bồ Câu đi mời cô đến ăn trưa đó.
– Vậy à? Vậy mà chị quên mất. Minh tiếp Tuyết Nhạn dùm chị nghe. Chị bận tay một chút. Ngồi đi, ngồi đi Tuyết Nhạn.
Tôi cười thầm: «Bà nầy muốn giở trò gì đây? Tiểu sử anh chàng nầy đã kể cho mình nghe hết rồi mà còn làm như không chuyện gì xảy ra vậy». Không hiểu sao, tôi không dám nhìn thẳng Minh. Có lẽ mỗi khi chàng không cười, ánh mắt chàng buồn, oai nghiêm và hơi dữ một chút. Nhưng khi chàng cười, nụ cười chàng lại hiền, niềm vui như chiếu sáng làm rạng rỡ khuôn mặt chàng.
Minh hơi thấp người. Nhìn chàng tôi bật ra ý nghĩ so sánh trong đầu. Tôi mà cao lớn hơn ai? Tuy vóc vạc tôi trung bình, nhưng đứng gần chàng dù có mang giầy cao gót chừng ba phân tôi cũng thấp hơn chàng là cái chắc! Trong vóc dáng cuả chàng, tôi bắt gặp một tiềm lực mạnh, một ý chí vững vàng. Minh ăn mặc trẻ trung và tươm tất mà không đỏm dáng. Tóc chàng hơi quăn ôm sát đầu, nên chàng thả mái tóc nhỏ bồng bềnh trên vầng trán cao rộng và sáng sủa. Chàng mặc áo sơ mi ngắn tay màu vàng lợt bỏ trong quần màu xanh rêu không rộng, không bó sát mông. Dù không dám nhìn thẳng vào Minh, nhưng tôi có cảm giác cái nhìn cảm tình đặc biệt mơn man của chàng luôn xoáy về tôi. Đó là linh cảm hay tưởng tượng? Thú thật, tôi không rõ. Trước mặt những người con trai mà tôi quen biết hơn chàng như anh Trúc, hay anh Hải, tôi không bao giờ có cảm giác như vậy.
Minh ân cần và dí dỏm mời:
– Mời cô Tuyết Nhạn ngồi, cô muốn uống nước trà, nước lọc, nước ngọt, hay la-ve?
Tôi hơi khựng, nhưng lịch sự trả lời:
– Dạ cảm ơn ông, xin cho tôi nước lọc tốt hơn.
Minh đến bàn lấy ly vặn nước lọc đem lại cho tôi, và ngồi xuống ghế đối diện gợi chuyện:
– Mời cô dùng nước. Cô ở tỉnh nào đến đây làm việc?
– Dạ tôi chào đời ở Cần Thơ, học Trung học ở đó, khi học nghề tôi phải lên Sàigòn và ra trường thì về làm ở đây. Nhưng gia đình ba má tôi dời về quê ngoại tôi ở Cái Bè lâu rồi.
Minh chăm chú nghe, khi tôi dứt lời, chàng cũng tự kể:
– Tôi cũng không phải người Mỹ Tho, nhưng Mỹ Tho với tôi rất gần gũi. Tôi học Trung học ở đây. Mặc dầu đi dạy học ở Bến Tre, nhưng hai ngày trong tuần tôi có giờ dạy ở vài trường Trung học tư thục trong thành phố nầy. Cô có thích nghề của mình không?
Tôi nhẹ trả lời:
– Ngày xưa thì không, bây giờ thì thích.
Minh ngạc nhiên, cười hỏi:
– Sao vậy? Bộ ai chọn cho cô hay sao mà lúc đầu cô không thích?
Tôi cũng vui vẻ:
– Không ai chọn cho tôi cả. Tôi tự chọn lấy. Lúc đậu xong đệ nhị cấp tôi định học ngành Nông Lâm Súc. Ngành nầy gần gũi với thiên nhiên và thích hợp tôi hơn. Nhưng thi hai lần tôi đều bị trợt vỏ chuối, lại thôi. Thi rớt vào trường học nghề, tôi cũng lo lắm. Mấy người bạn rủ thi vào trường Sư phạm hoặc trường y tá. Năm đó, tôi rớt trường Sư phạm, nhưng đậu vào trường Y tá. Tôi nghĩ là Ơn Trên bắt tôi phải học nghề nầy. Tôi học y tá mấy tháng thì lại muốn bỏ.
Minh nhìn tôi ngạc nhiên:
– Tại sao cô có ý định bỏ học trường ấy?
– Cực quá! Vào thực tập tôi thấy bịnh nhân khổ sở đau đớn với cơn bịnh của họ, tôi cũng cảm thấy đau đớn theo họ.
– Rồi tại sao cô học tiếp?
– Ba tôi lên Sàigòn ở với tôi cả tháng. Ông khuyên lơn, chỉ dạy, nhắc nhở…Và tôi trở lại trường. Để rồi mới có dịp về làm ở đây.
Tôi giật mình tự hỏi sao hôm nay mình nói chuyện nhiều quá? Minh chỉ gặp tôi lần nầy là lần thứ hai thôi mà! Tại sao vậy kìa? Tại Minh dạy học nên có cách gợi chuyện để người đối diện phải nói? Hay tại tôi nghe chị Diệu Tâm kể về tiểu sử của anh ta nên tôi có cảm tình với anh ta? Tôi không biết nữa! Nhưng tôi chắc chắn thấy mình rất gần gũi, và như quen biết anh ta tự lâu rồi.
Chị Diệu Tâm từ dưới bếp bước lên, vui vẻ cho biết mọi thứ đã nấu nướng xong. Tôi đứng lên, theo chị phụ bưng thức ăn ra. Còn Minh thì kéo bàn xa vách, kéo bốn cái ghế lại, cho cả chỗ ngồi của bé Chim Bồ Câu. Trên mâm cơm tươm tất, những món bình dân mà tôi rất thích: Canh cải bẹ xanh nấu với cá thác lác vò viên thêm gừng xắt mỏng. Tôm thẻ lột vỏ ram mặn với khóm và thịt ba chỉ. Măng tre xào thịt bò. Cá lóc muối sả ớt chiên giòn. Cuối bàn còn có hai dĩa trái cây hấp dẫn: dĩa long nhãn, dĩa quít đường đựng chung với mấy chùm trái lý chín vàng.
Chúng tôi ăn uống, truyện trò vui vẻ. Ăn xong tôi phụ chị Diệu Tâm rửa chén thì đêm đã xuống, phố xá đã lên đèn. Tôi xin phép ra về. Chị Diệu Tâm nói với Minh:
– Trời tối quá! Chị phải tắm cho Chim Bồ Câu, và dỗ cháu ngủ. Em đưa Tuyết Nhạn về dùm chị.
Minh mắt sáng lên, gật đầu và đi lại gần bàn viết lấy xâu chìa khóa trong túi áo blouson. Bỗng chị Diệu Tâm quay lại nói vội:
– Minh à, Tuyết Nhạn không thích ngồi xe gắn máy đâu, em hãy cuốc bộ đưa cô về nghen.
Vẫn nụ cười tươi nhẹ trên môi, Minh gật đầu. Còn tôi thì thối thoát:
– Không sao đâu chị, em về một mình được rồi. Cảm ơn anh Minh. Cảm ơn chị Diệu Tâm cho em một bữa cơm ngon. Dì về nhé, Chim Bồ Câu.
Tôi bước ra cổng rào thì Minh cũng vừa ra tới. Chàng ngọt giọng:
– Tôi đưa cô về, coi như cô cho tôi quá giang cô một quãng đường dạo mát. Cô có ngại gặp ai khi tôi đi bên cạnh cô không?
Tôi mỉm cười nói nhẹ:
– Dạ không, tôi có quen ai ở đây đâu mà ngại!
Minh nửa đùa nửa thật:
– Vậy cô quen ở nơi khác, phải không? Cô không sợ ma sao?
Tôi lờ đi, không trả lời câu hỏi đầu:
– Làm ở bịnh viện thì sợ ma nổi gì nữa? Nhưng ban đêm đi qua các hành lang vắng, qua phòng nào vắng một mình thì tôi cũng ớn xương sống lắm.
Tôi đi chầm chậm bên anh trên đường Nguyễn Trung Long (từ nhà chị Diệu Tâm). Đến ngã Ba Cây Xăng, rẽ phải theo đường Nguyễn Trải, vượt qua hông viện dưỡng lão có nhiều cây me già, mỗi gốc lớn hơn vòng tay ôm, cành lá sum sê tỏa bóng mát quanh năm. Những chiều gió lộng, mưa rơi thì lá me bay tua tủa ngập vàng cả lối đi. Con đường nầy gợi nhớ tôi con đường Nguyễn Du ở Sàigòn. Tôi đã cùng Thu Trinh và nhỏ Thúy Hiền, sau những lúc học hành đầu óc căng thẳng quá, thường rủ nhau ra đó, đi dạo dưới nhưng tàn cây râm mát hai bên đường. Có hôm, chúng tôi bị ướt như chuột lột, vì bỗng dưng trời đổ cơn mưa lớn. Minh lại hỏi:
– Tuyết Nhạn đang nghĩ gì vậy?
– Dạ, tôi nghĩ lúc đi học ở Sàigon. Nghĩ về con đường lá me bay. Con đường tình sử Nguyễn Du.
– Con đường tình sử của Nhạn hả?
– Dạ không, tôi làm gì có diễm phúc đó. Tình sử của các cô các cậu choai choai.
Minh hướng qua đề tài khác:
– Về giải trí, Tuyết Nhạn thích gì? Đọc sách? Xem phim? Hay thứ khác?
Tôi tươi nét mặt trả lời ngay:
– Tôi thích rất nhiều thứ lắm anh ơi! Tôi thích đọc sách, xem phim, và du ngoạn.
– Nhạn thích đọc sách và xem phim loại nào?
– Tôi thích đủ thứ. Nhưng sách hay phim ma quỉ, phim chiến tranh có nhiều cảnh giết chóc máu me nhiều quá, hay loại dâm đảng, độc ác, tôi không dám coi. Anh có nhiều sách không?
– Tôi có vài cuốn của Tự Lực Văn Đoàn, chắc Nhạn hợp với loại sách nầy, nhưng tôi nghĩ Nhạn đọc hết rồi, như cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Anh Phải Sống, O Chuột… Tôi cũng có nhiều sách giáo khoa nhưng khô khan lắm, chỉ ngại Nhạn không thích thôi. Hôm nào có phim hay, tôi mời Nhạn đi xem nghen.
– Anh cho tôi mượn sách đi. Có những cuốn sách tôi xem qua rồi, nhưng xem lại nhiều lần mà vẫn thấy thích thú. Sách giáo khoa cũng được. Nhà sách ở đây nhỏ nên sách bày bán ít quá!
Chúng tôi quẹo trái qua đại lộ Hùng Vương, qua trường Taberd rồi tới nhà tôi. Trên đường đưa tôi về, Minh và tôi nói nhiều chuyện, nhưng là những chuyện tào lao không đâu vào đâu cả. Tới cổng rào, tôi cảm ơn Minh và vẫy tay từ giã. Tôi không mời Minh vào nhà. Minh cười vẫy tay chào lại. Trước khi đi, Minh nói:
– Tuyết Nhạn vẫn chưa trả lời có bằng lòng đi xem hát với tôi không?
– Được chớ anh, nhưng phải coi phim gì? Và phải có mẹ con chị Diệu Tâm cùng đi cho vui được không?
Minh tươi cười:
– Được, vậy hẹn hôm nào nghe Tuyết Nhạn.
– Dạ, hôm nào Nhạn rảnh. Chào anh.
– Tạm biệt, chúc Nhạn ngủ ngon.
Tôi mở cửa vào, nhà tối om, vắng tanh, vì từ chiều thứ sáu Vân Anh cùng Ánh Ngọc về thăm nhà rồi. Tôi bật đèn, căn nhà có vẻ lạnh lẽo. Tiếng chuột rúc rích trong kẹt bếp. Tiếng mọt ăn cây trèo trẹo trên kèo nhà. Tiếng nước chảy róc rách trong mương rãnh ăn luồn dưới sàn nhà nghe rõ mồn một. Trên tường, chiếc đồng hồ treo chạy tíc tắc tíc tắc đều đặn.
Tôi thay nước cho bình thủy tinh cắm bông huệ trước khi đi tắm. Nước mát cuốn trôi mồ hôi đọng nhờn da thịt. Giờ nầy đã trễ rồi, tôi không thể gội đầu. Vả lại, tôi không thích gội với xà bông gội. Thường thì tôi gội với nước bồ kết hoặc nước hương nhu mà bà ngoại thường nấu cho tôi vào những trưa hè nóng nực.
Tôi ngã lưng xuống giường thì đã hơn mười giờ. Vặn nhạc trong chiếc cassette nhỏ cầm tay để bên gối, tôi kéo tấm mền mỏng đấp ngang ngực, nhắm mắt đợi giấc ngủ. Nhưng lạ thật! Tôi cứ thao thức với niềm hạnh phúc xao xuyến không biết đến tự bao giờ ở trong tim? Tôi ôn lại những lời nói mềm mỏng của Minh, mường tượng ánh mắt, cái nhìn, nụ cười của chàng; tất cả, tất cả sao mà âu yếm và nồng nàn làm tôi cảm thấy da thịt mình rờn rợn một cảm giác khó hiểu. Rồi tôi tự trách, thật là điên quá đi, sao mình nghĩ ngợi tầm bậy tầm bạ gì đâu không. Nhưng chèn ơi! Tôi cố xua đuổi nó thì nó lại cuồn cuộn đến, cái hơi thở ấm, cái hơi hướm khả ái của chàng dường như quen thuộc từ hồi kiếp nào lúc tôi đứng gần chàng, lúc cả hai sóng bước đi bên nhau trên đường. Câu hát ru em bỗng từ nhà hàng xóm đưa sang: “Chim quyên ăn trái nhãn lòng/ Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi…”
Tôi lắc đầu, mỉm cười trong bóng đêm, xoay ý nghĩ qua hướng khác để cơn buồn ngủ đè nặng lên mi mắt.
Chương 7
Chiều tối chủ nhật, Vân Anh và Ánh Ngọc trở về nhà trọ. Sáng thứ hai cả ba đi làm việc. Cuộc sinh hoạt tiếp diễn. Tôi không dám hỏi chị Diệu Tâm cuối tuần nầy Minh có trở qua Mỹ Tho không? Những bữa ăn trưa chung giờ với chị ở bịnh viện, trong những mẫu chuyện vui buồn tôi cũng không dám hỏi hoặc nhắc chi đến Minh, nhưng trong thâm tâm tôi rất muốn nghe chị nói về chàng, kể về chàng. Rồi tối thứ sáu, tôi thả bộ đến chơi nhà chị Diệu Tâm. Bé Chim Bồ Câu mau miệng:
– Cậu Minh con hồi xế có ghé qua đây trước khi về Bến Tre.
Tôi thất vọng! Cơn buồn chợt đến vì đã có nguyên nhân, nhưng tôi làm bộ lờ đi, làm như không để ý Chim Bồ Câu nói gì. Tôi nói với chị Diệu Tâm:
– Ngày mai, chúng mình được nghỉ, sáng chủ nhựt em mới vào ca trực. Tối nay em muốn rủ chị và cháu đi ăn sâm bổ lương trên chợ Hàng Bông.
Chị Diệu Tâm cười nụ, ánh mắt có vẻ tinh quái. Chị ngăn:
– Bé sổ mũi, ho hen, cữ ăn đồ mát. Em hãy ở đây chơi và ngủ luôn, sáng mai hẳn về. Tối nay, chị em mình ăn chè trôi nước. Chị làm món nầy xong thì em đến thăm.
Rồi chị nhìn tôi như dò xét:
– Em có vẻ buồn, việc gì vậy?
Tôi lấp liếm:
– Có gì đâu? Em thấy trong người hơi khó chịu.
Chị Diệu Tâm bắt bẻ:
– Đã khó chịu mà còn mất công cuốc bộ đến đây. Lại còn toan rủ cháu đi ăn sâm bổ lương là món tăng bịnh cảm cúm nữa. Có việc gì không vậy, hả Tuyết Nhạn?
Tôi gượng cười:
– Em đã nói với chị rằng chẳng có việc gì hết mà.
Chị Diệu Tâm nhìn sửng tôi:
– Hay là em bị cảm? Nhà có sẵn thuốc Aspirine. Em bị cảm thường hay cảm đặc biệt?
Thôi tiêu rồi, cái chị chòi mòi tọc mạch nầy muốn chọc quê tôi vì chị thấu rõ trái tim đen, tim xám, tim chì, tim vàng của tôi rồi! Óc tinh nghịch chợt nổi lên, tôi nheo mắt cười với chị:
– Em chẳng rõ cảm thường hay cảm đặc biệt, nhưng thuốc Aspirine chẳng nhầm nhò chi. Aspirine trị không nhằm bịnh em đâu.
Vậy là tôi và chị cùng nhau cười xòa. Chị Diệu Tâm bước lại tủ áo, lôi ra gói quà bọc giấy kiếng đỏ sẫm đưa cho tôi, rồi bảo:
– Đây mới là món thuốc giúp em hết cảm…đặc biệt.
Tôi ngạc nhiên, hỏi chị:
– Cái gì đây? Quà của em hả? Tại sao vậy? Em chưa tới tháng ngày sinh nhựt mà.
– Thì mở ra đi, đã nói là đặc biệt mà.
Tôi cầm gói quà và tháo gở giấy kiếng ra, bên trong một chiếc ví cầm tay bọc nhung hai màu đen và tím tươi. Nắp đậy được viền vàng, chỗ khóa là con bướm cũng mạ vàng sáng chói.
Chị Diệu Tâm nhìn như dò xét phản ứng của tôi, và nói:
– Quà tặng của Minh đó, em thấy đẹp không?
Tôi để ý ngắm nghía cái ví cầm tay, nhưng không trả lời câu hỏi trực tiếp của chị. Tôi nói:
– Em rất ngại nhận quà của người lạ, nhứt là người khác phái. Em không muốn mang tai tiếng.
Rồi tôi chép miệng nói tiếp:
– Thôi, quà nầy em nhận, và em sẽ trả lễ anh Minh sau.
Chị Diệu Tâm nhìn tôi dịu dàng:
– Minh cũng khó tánh lắm! Tuyết Nhạn có đòi hỏi Minh gì đâu? Tại cậu ấy thích tặng và tình nguyện tặng mà.
Ăn chè trôi nước xong, tôi nhứt định về nhà. Chị Tâm và Bồ Câu kèo nèo chi tôi cũng không ở lại. Trên đường về tôi nghĩ: Mình có áo dài màu tím tươi, hôm nào đi dạo phố với mẹ con chị Diệu Tâm và anh Minh, mình sẽ mặc áo nầy với quần sa-teng đen, tóc cài băng-đô tím, mang giày nhung đen kết cườm tím, cầm tay cái ví Minh tặng. Chà! Ăn diện như vậy sẽ trông đẹp thơ mộng! Rồi tôi lại mỉm cười với tôi. Tôi cũng cần về để khoe với hai con bạn ác ôn côn đồ là Vân Anh và Ánh Ngọc để chia xẻ niềm vui của tôi. Tôi bồng bột không che giấu cái hạnh phúc mới mẻ kia. Nhưng tôi chỉ bảo:
– Giữa anh Minh và tao chẳng có gì cả. Chỉ là khởi đầu sự quen biết, xin tụi bây làm ơn đừng thêm thắt vẽ vời cho câu chuyện thêm hoa lá cành rườm rà. Và tao cũng xin bây chớ bô hô cái miệng. Nếu thiên hạ biết được, rồi chuyện không đi đến đâu sẽ trở thành rắc rối và sẽ làm tao mắc cỡ, tội nghiệp tao lắm. Trong tương lai có diễn tiến gì thêm, tao sẽ báo cáo cho tụi bây rõ, không dám giấu một chuyện nhỏ như mảy lông sợi tóc.
Ánh Ngọc sốt sắng:
– Ê, chừng nào mầy đi chơi với chàng Minh, tao sẽ cho mượn đôi bông tai đá đen chen đá tím.
Vân Anh nhìn tôi lắc đầu:
– Con nầy quên rằng trong bộ ba tụi mình nó đẹp trội nhứt. Nhưng nó không dám trang điểm mạnh tay dưới ánh đèn đêm. Thôi, được rồi, để hôm đó tao sẽ tô hồng chuốc lục cho nó đẹp trội hơn.
Chỉ có chuyện món quà tặng thôi mà cả ba đứa cứ rù rì bàn tán cho tới quá nửa đêm. Hai con quỉ nầy có mèo rồi, nên tụi nó cũng muốn tôi có bồ bịch như tụi nó. Ánh Ngọc trước khi vào giường, xức kem nuôi da lên mặt. Y thị phàn nàn:
– Con Tuyết Nhạn đẹp mà không biết làm màu mè để rù quến mấy anh chàng lượn qua đảo lại quanh nó. Nó ngó ai là ngó thẳng, cái nhìn lạnh ngắt, làm đương sự hết dám tiến tới. Phụ nữ phải biết luyện cặp mắt mời, coi vậy chớ con nầy hãy còn khờ…
Tôi cười:
– Tao không biết luyện cặp mắt mời. Thôi thì, hễ gặp anh chàng nào đẹp trai, thấy được, thì tao nhắm mắt lại để đương sự khỏi nhìn thấy cặp mắt lạnh ngắt của tao.
Minh có hẹn “hôm nào” sẽ đưa tôi đi xem chiếu bóng “Hôm nào” đó chắc chắn không lọt vào cuối tuần nầy rồi. Sáng hôm sau, tôi theo Ánh Ngọc, Vân Anh ngồi xe lô Minh Chánh lên Sàigòn. Cả ba đi ăn phở và uống cà-phê ở đường Võ Tánh. Sau đó chúng tôi đưa nhau ra Passage Eden để hai con kia mua chút ít son phấn. Còn tôi thì hít-tu-kinh (nghĩa là đi vòng vòng, mũi hít vào tủ kính để xem họ trưng bày hàng bán bên trong). Tới cửa hàng đồ giả mạ vàng và mạ bạc không bay, tôi chợt thấy cái cài cà vạt dành cho đàn ông hình cây đờn violon bằng bạc, có cẩn chung quanh những hạt pha lê li ti màu đen pha tím. Tuy hai màu đen tím tối hù, nhưng ánh pha lê vẫn chiếu lập lòe. Món quà trang nhã nầy tôi mua ngay sau khi kỳ kèo trả giá, cốt để tặng lại Minh vì anh đã tặng tôi ví tay.
Sáng thứ hai, tôi giao phiên trực cho người khác. Vừa bước ra khỏi phòng cứu cấp thì gặp bác sĩ giám đốc đi ngược chiều của hành lang khu tai mắt, mũi họng. Tôi chào ông rồi đi thẳng. Ông gọi:
– Cô Tuyết Nhạn!
Tôi quay lại lễ phép:
– Dạ, ông Giám đốc gọi tôi?
Ông ta cười rạng rỡ, phơi phới, vô tư lự, sắc mặt hồng hào, cái nhìn hớn hở. Ông ân cần:
– Cô có khỏe không? Chúa nhật rồi tôi về Sàigòn có gặp người bạn nhờ tôi chuyển lời thăm cô.
Tôi ngập ngừng:
– Dạ, cảm ơn bác sĩ, tôi vẫn khỏe. Nhưng thưa Bác sĩ, ai nhắn lời thăm tôi vậy?
– Bạn tôi, giáo sư Trúc, dạy trường Y Khoa. Cô còn nhớ ảnh không? Hình như cách đây khá lâu, hai người quen thân thì phải?
Chắc là Trúc nói gì đó với ông ta rồi. Tôi điềm đạm trả lời:
– Thưa Bác sĩ, ổng là thầy tôi lúc tôi còn học trường y tá.
– Vậy hả? Thôi chào cô.
Tôi chào ông vừa đi vừa cười thầm. Trúc có dạy tôi giờ nào đâu. Tôi quen Trúc vào mùa hè khá lâu, khi anh về trường tôi cắm trại. Nói đó là cuộc tình thì không đúng chút nào. Anh tỏ vẻ ân cần với tôi, tôi cảm thấy mến anh, nhưng tôi chưa nghe cú sét giáng xuống đầu, tôi chưa nghe cái búa tạ dộng lên đầu như lời chị Loan bảo. Lúc học ở Sàigòn, tôi có đi chơi một vài lần với anh và rồi đó cả hai không còn gặp nhau nữa. Tôi không mấy quan tâm. Giờ đây, tôi cảm thấy lời thăm hỏi của Trúc không thể kéo tôi lại gần anh thêm một phân hay một ly nào. Còn anh Lê Trường Hải và anh của nhỏ Thu Trinh dù họ là hai đấng anh hào, anh kiệt, nhưng sao hình ảnh họ lại lu mờ, lạt lẽo trong tâm tưởng tôi.
Cái “hôm nào” đó đến vào tối thứ bảy tuần kế tiếp. Vân Anh khuyên:
– Đi coi hát với kép mà có mụ Diệu Tâm và con bả theo thì chán ngắt! Mụ Diệu Tâm cốt bà vãi, ưa mặc chiếc áo dài màu dà, màu lam. Mầy mặc áo dài bông hoa màu sắc tươi trẻ đi chung với chị ta coi không ổn đâu. Người ta nói: “Gái một con trông mòn con mắt”. Còn bả hả? Trông đui luôn thì có.
Tôi nhắc nhở:
– Thôi đủ rồi, làm gì mầy chê chỉ dữ vậy? Bỏ đi, hãy nghe tao nè. Tụi bây quên, anh Minh cho tao ví tay màu đen pha tím sao? Tao sẽ mặc toàn bộ đen và tím. Ban đêm mà, tụi bây thấy có nhã không?
Vân Anh vỗ đầu, chợt nhớ ra:
– Quên, tao hứa cho mầy mượn đôi bông cẩn hột đá cẩn hai màu đen tím. Thôi của không đáng bao nhiêu, tao tặng mầy luôn. Đôi bông nầy tao ít có dịp đeo. Hai màu nầy hợp với mầy lắm đó.
Ánh Ngọc xen vào:
– Để tao trang điểm cho mầy, cây son thoa môi của tao màu hường phớt tía rất hợp với màu áo nữ sinh lãng mạn của mầy.
Tôi xua tay, lắc đầu nguầy nguậy:
– Thôi được rồi! Cảm ơn mỹ ý của tụi bây, tao mặc vậy đủ rồi, khỏi trang điểm. Tao không muốn hóa trang để ra sân khấu. Đi chơi, đi ăn, hoặc xem hát chớ có gì đâu mà sửa soạn dữ vậy? Hãy để cho tao tự nhiên một chút, tụi bây làm riết tao tưởng tao là hình nộm.
Minh đến sớm. Chàng mặc theo kiểu cao bồi, áo kẽ ca-rô xanh đỏ, quần jean xanh dương, chân mang giầy Bata. Quần áo đều cũ, nhưng Minh thủ sẵn chiếc blouson màu đen trên tay. Chàng bảo:
– Xế nầy, tôi theo mấy người bạn cũ đi ca-nô trên sông Mỹ Tho rồi qua cồn Rồng ghé chơi nhà thằng bạn học đi lính, đã bị thương giải ngũ mấy năm rồi. Nó lập nghiệp ở đó. Vừa về tới đây, nên tôi không kịp thay quần áo tươm tất, chắc là thiếu tác phong mô phạm?
Vân Anh cười:
– Nhưng được cái trẻ trung.
– Anh ăn mặc như vầy lại coi hay. Ngọc ghét đàn ông chăm sóc kỹ việc ăn mặc lắm.
Minh khoác áo blouson cùng tôi cuốc bộ đến rạp hát Định Tường. Hôm nay họ chiếu phim Tàu, phỏng theo tiểu thuyết Quỳnh Dao. Khi tới rạp, tôi đã thấy chị Diệu Tâm đứng đợi. Hôm nay chị mặc áo dài màu ve chai sậm, thêu rải rác những bông vàng lá xanh. Còn Chim Bồ Câu thì diện bộ đầm tôi tặng hôm Tết. Áo cháu ngắn tay, màu hồng, bỏ trong củn đỏ có hai dây choàng qua vai và gài tréo sau lưng, mang giầy trắng. Hai bính tóc để trước ngực trông rất dễ thương.
Con bé thấy tôi, chạy lại nắm tay miệng nói tía lia. Vậy mà vào rạp hát chừng hai mươi phút là nó ngủ khò. Phim dài hơn hai tiếng đồng hồ. Chuyện phim buồn, mắt tôi đỏ, chị Diệu Tâm cũng sụt sùi sụt sịt. Phụ nữ mà, hễ cảm động là lệ rơi, ai cười thì hở mười cái răng!
Tan hát, tôi rủ chị Diệu Tâm ghé qua quán gần Cầu Quây ăn uống gì đó rồi hẵng về. Chị Diệu Tâm từ chối:
– Cháu đang ngủ. Nó nặng như cục đá. Chị phải ẵm nó về. Thôi để dịp khác.
Minh gọi xích lô cho chị. Trời về khuya, gió hơi lành lạnh. Hồi chiều, khi rời nhà, tôi đã mang theo chiếc áo len mỏng. Chúng tôi vào quán gọi hai tô cháo và một bình trà nóng. Tôi dặn dò Minh:
– Anh Minh, bữa ăn nầy để Nhạn trả.
Minh ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao Nhạn trả?
Tôi mỉm cười:
– Anh trả giấy hát rồi. Chúng ta ai cũng đi làm có lương cả, nên để Nhạn trả chầu cháo khuya nầy.
Minh cười hiền:
– Sao Nhạn tính kỹ quá vậy? Lần nầy để anh trả hết. Lần sau Nhạn trả. Có dịp, hãy để anh ga-lăng một chút chớ!
Tôi cười gật đầu. Có lẽ tôi quen rồi, khi đi chơi hoặc đi ăn uống với bè bạn. Lần nầy mầy trả, lần sau tao trả, hoặc chia ra mỗi đứa cùng trả. Như vậy mọi người đều vui vẻ, không ai ngại ngùng chi cả.
Chúng tôi ba đứa, Ánh Ngọc, Vân Anh và tôi cùng đi một chuyến nghỉ hè về Hậu Giang. Tôi hẹn thêm một cô bạn lúc còn học Đoàn Thị Điểm Cần Thơ đi chung. Đó là Hồng Vân đang dạy Anh văn ở Hội Việt Mỹ tại đây. Dù chị Tuyết Hồng có nhà cao cửa rộng, dù chị Tuyết Loan đi dạy học có căn phố riêng ở đây, nhưng tôi không ở nhà hai chị. Chúng tôi, đứa nào cũng muốn ở chung trong khách sạn cho tự do, vui vẻ những ngày nghỉ hè với bạn bè. Cả Hồng Vân cũng vậy, khi chúng tôi đến đây thì cô ả cuốn gói chạy theo nhập bọn ngay. Tôi có rủ chị Tuyết Loan cùng đi, nhưng chị trề môi dài cả tấc:
– Ai thèm đi với tụi bây, đám con nít. Nói giỡn chớ tao bận rộn lắm, anh Toàn sắp thi phần hai rồi.
Tôi cười, chọc quê chị:
– Chị thành người lớn hồi nào vậy? À, thì ra có người ở nhà kèm trẻ thi.
Chị cười vói tay đánh tôi:
– Con quỉ, dạo nầy mầy cũng chanh chua lắm. Thôi để bọn bây tự nhiên đùa giỡn cho vui, có tao vô, tụi nó sẽ ngại bà chị nầy.
Trên tuyến đường nghỉ hè của chúng tôi gồm có: Cần Thơ, Rạch Gía, Hà Tiên. Nhưng tôi nại đủ mọi lý do để ghé qua ngang Hòn Chông và Hòn Trẹm. Nơi đây đã cho tôi kỷ niệm đẹp tuổi học trò khó mà quên được. Sau cùng chúng tôi về Long Xuyên, và sẽ chia tay ở nơi đây.
Đến Cần Thơ, chúng tôi được Hồng Vân làm hướng đạo đưa đi thăm thành phố. Với tôi thì thành phố nầy không xa lạ lắm, mặc dù có nhiều thay đổi. Đêm chèo thuyền từ bến Ninh Kiều ra dòng Bassac. Đi thăm chùa Phổ Đức ở lộ Mười Chín, thăm chùa Nàng Tiên, viếng Bến Nhị Kiều, vườn ổi. Chiều về ăn hàng chỗ nào vừa ngon vừa rẻ. Đến quán kem có nhạc hay, tiệm nào ngồi uống cà-phê có tình điệu vv…
Chúng tôi đến Cần Thơ hai ngày rồi, mai là ngày tự do, đứa nào muốn đi chơi riêng rẽ, thăm bồ thì tùy tiện, nếu không có mục nào đặc biệt thì nhỏ Hồng Vân dẫn đi mua sắm. Ánh Ngọc cho biết đã hẹn bồ nó sáng mai. Cả bọn tôi dãy nãy, Vân Anh lên tiếng trước:
– Lâu lắm mầy mới có dịp qua đây, sao thằng chả không đến thăm sớm hơn, mà phải hẹn đến sáng mai mới chịu gặp mầy? Tao nghi quá! Chắc thằng cha nầy có vấn đề rồi.
Hồng Vân mới quen với hai đứa nó, nên chỉ ngồi nghe và cười trừ chớ không có ý kiến. Tôi chen vào đỡ lời cho Ánh Ngọc:
– Mầy đạp vỏ dưa rồi thấy vỏ dừa cũng sợ. Bồ của Ánh Ngọc là lính mà, lại đóng đồn ở xa. Sáng mai không biết anh ta có đến được không nữa, ở đó mà cằn nhằn. Lính bộ dễ có phép lắm sao?
Vân Anh nhìn tôi cười:
– Mầy làm như bồ mầy là lính không bằng. Mà nầy, anh chàng Minh của mầy đâu? Làm gì? Chui vào hang ổ nào mà không đi theo hộ giá mầy?
Hồng Vân cười cười nhìn tôi như ngầm trách “À há, thì ra mầy giấu tao!”
Ánh Ngọc cũng xía vô:
– Phải đó, khai báo đi Tuyết Nhạn.
Tôi cười có chút e thẹn, đánh vào vai Ánh Ngọc rồi trả lời chúng:
– Con Ánh Ngọc là đứa phản bội, tao vừa giải vây cho mầy với nhỏ Vân Anh, không cảm ơn thì chớ, mà còn tấn công tao nữa. Với anh Minh tao chỉ mới quen thôi, chớ bồ bịch gì đâu.
Vân Anh cười hí hí để lộ hai đồng tiền trên má rất dễ thương. Ả ta chẩu mõ nói:
– Mầy nói nghe cũng có lý, thôi tha cho mầy đó. Nếu mai sau mà bọn tao khám phá mầy giấu giếm câu chuyện đá bóng với nhau thì mầy sẽ biết tay bọn tao.
Nắng đẹp miền Nam có khác. Chưa tới tám giờ sáng mà nắng rực rỡ xuyên qua cửa sổ, chói chang ngập cả phòng. Tôi nằm nướng trên giường, nhỏ Hồng Vân còn ngáy khò khò. Vân Anh đang tắm. Ánh Ngọc trang điểm xong, xách cây dù ra cửa, biết tôi đã thức, quay lại nói nhỏ:
– Chiều tao mới về.
Tôi cũng nói nhỏ vói theo:
– Ờ đi chơi vui vẻ, nhưng đừng có quên đường về nghe mậy.
Nó nguýt tôi rồi đóng ầm cửa lại. Hôm nay nhỏ Ánh Ngọc diện đẹp quá. Nhỏ mặc áo dài soie Thái-Lan màu hồng phấn, thêu dưới tà hoa lan tím lá xanh, cùng chiếc quần trắng. Nhỏ mang giày trắng, tay cầm bóp trắng, mắt kẻ chì đen lay láy, môi son trơn ướt bóng ngời. Mái tóc nó dài óng mượt được ôm gọn trong chiếc băng-đô hồng. Tôi thấy còn chạnh lòng, đừng nói chi bồ nó. Vân Anh từ trong phòng tắm bước ra, tôi nhảy vào tắm ngay kẻo trễ. Chút nữa hai bà chị Tuyết Hồng và Tuyết Loan sẽ đến, để ba chị em tôi đi chợ ăn hàng, và tôi còn mua ít trà bánh biếu cho ba má chồng chị Tuyết Hồng, và ít quà cho các cháu con chị. Sau khi đi chợ xong, tôi và chị Tuyết Loan sẽ đến thăm chúng nó và dùng cơm ở đó luôn. Hôm nay, tôi mặc quần jean xanh đen bó sát mông, giầy san-đan da cao gót, áo hở cổ tím hoa cà. Tóc tôi cột cao với chiếc nơ cùng màu áo.
Ba chị em tôi tay xách, tay ôm ra tới cửa nhà lồng chợ thì nghe tiếng gọi ơi ới:
– Tuyết Nhạn! Tuyết Nhạn!
Tôi ngạc nhiên rảo mắt nhìn quanh. Thì ra, nàng Ánh Ngọc nhà tôi đang ngồi oai phong trên xe díp. Tài xế là anh chàng lính chiến, chiến y còn bám bụi đường xa. Trên ve áo, ba bông mai vàng chói. Nàng cười tươi như hoa mới nở. Tôi cười lại và gật đầu chào người tài xế của nàng vừa chào tôi. Chiếc xe dừng hẳn lại. Chợ buổi sáng rất đông, kẻ mua người bán ồn ào. Hai chị tôi đứng bên lề chờ tôi, tôi bước đến gần xe, bởi Ánh Ngọc nói gì tôi không nghe rõ. Ánh Ngọc tươi vui giới thiệu:
– Anh Tân, đây là Tuyết Nhạn, bạn em. Tuyết Nhạn, còn đây là anh Tân, bạn của mình.
Tôi khẽ chào lần nữa:
– Dạ chào ông.
Ông ta có đôi mắt ti hí, lúc cười chỉ thấy hai cái gạch ngang. Ông chào lại tôi và nói:
– Không dám, chào cô. Đi chơi với tôi mà Ánh Ngọc luôn nhắc về cô, nếu cô là phái nam chắc tôi phải ganh tị rồi đấy! Và hôm nay mới hân hạnh được diện kiến dung nhan kiều diễm của cô. Tôi nghe mấy cô du ngoạn vui quá, mà phát thèm. Rất mong có dịp được tháp tùng cùng quý cô.
Tôi mất tự nhiên, và tay chân muốn nổi da gà, khi nghe những lời văn hoa bóng bẩy đầy vẻ khách sáo của ông ta. Tôi không trả lời, chỉ mỉm cười. Ánh Ngọc nói với tôi:
– Hôm nay chắc mình về trễ. Thôi, chào nhé. Mình đi đây.
Ánh Ngọc nhìn về phía hai chị tôi đang đứng chờ, vẫy tay chào. Xe lăn bánh.
Anh rể tôi, chồng chị Tuyết Hồng, bây giờ khỏe mạnh, linh hoạt, nói cười tươi rói. Như vậy mới có vẻ là người chồng và là người cha của hai đứa bé xinh xắn chớ. Nhớ hồi mới cưới chị tôi, anh ít nói, lầm lì, ốm nhom như con còng gió. Chị Tuyết Loan ghét cay ghét đắng anh. Đôi lúc chị nói lén với tôi:
– Nè Tuyết Nhạn, tao không biết tại sao ba má gả chị Hai mình cho anh Trường. Cả năm tao chưa thấy ảnh cười. Chị Hai mình đẹp mà gả cho thằng cha cái mặt lúc nào cũng chừ bự, thiệt là uổng!
Quây quần với mấy đứa cháu, với má chồng chị Tuyết Hồng trong bữa cơm khách của gia đình do họ đãi, tôi mệt đừ. Vậy mà tối nay, khoảng bảy giờ, chị Tuyết Loan sẽ đến dẫn chúng tôi đi nghe nhạc, uống cà-phê ở một quán rất thanh lịch mà chị giới thiệu. Dĩ nhiên, tối hôm nay, chị sẽ bao tất cả những người bạn của em mình.
Bốn giờ chiều, tôi trở lại khách sạn, đinh ninh chưa có đứa nào về, để tôi ngã lưng, nhắm mắt dưỡng thần cho thoải mái chừng nửa giờ. Đêm nay, có lẽ cả bọn phải thức trắng, vì chị Loan hứa sau khi uống cà-phê về, sẽ ở lại khách sạn ngủ với chúng tôi. Chị Loan mà ở lại thì còn khuya cả bọn mới ngủ được, chị có nhiều trò lắm. Nội cái nói tếu của chị cũng làm chúng tôi cười bò lăn rồi thì còn ai ngủ nghê gì được nữa? Và ngày mai, cả bọn còn phải ngồi xe trên tuyến đường dài đưa về Rạch Giá, theo đúng thời khóa biểu cho chuyến nghỉ hè của chúng tôi.
Tôi vừa thọc chìa vào ổ khóa, thì cánh cửa bật mở. Vân Anh đứng chờ tôi bước vào, còn Ánh Ngọc ngồi cúi đầu. Tôi tươi cười chọc quê hai đứa nó:
– Ủa! Tụi bây sao về sớm vậy? Về nghỉ mệt rồi đi nữa hả? Nhớ đừng có vui quá rồi quên về đó nghe. Ngày mai khoảng sáu giờ sáng chúng mình đi Rạch Giá. Đường nầy không bằng phẳng như Quốc Lộ Bốn đâu. Có nhiều ổ gà nên xe xóc dữ lắm.
Không nghe đứa nào hưởng ứng câu nói của tôi. Lấy làm lạ, tôi nhìn Vân Anh, dò xét. Vân Anh ra hiệu bằng cái liếc mắt và hất mặt về phía Ánh Ngọc. Bỗng Ánh Ngọc như chiếc lò so đứng bật lên sấn đến chỗ tôi hậm hực, dằn từng lời:
– Mầy chịu không? Mầy chịu thì tao giới thiệu mầy cho thằng chả ngay…
Tôi còn đang chưng hửng, lơ láo, không biết nó nói cái gì? Tôi chưa kịp phản ứng thì nó bồi tiếp:
– Tao biết mầy đẹp, có hàng tá đứa sắp hàng chờ mầy. Tao không tranh giành với mầy đâu…
Nói đến đây thì nỗi ấm ức không cầm giữ được, Ánh Ngọc úp mặt lên hai bàn tay, qụy xuống giường kế bên khóc òa. Tôi càng ngạc nhiên hơn và vẫn không biết nó nói gì vậy? Tôi há hốc mồm, hỏi Vân Anh:
– Ánh Ngọc nói gì vậy? Tao không hiểu chi ráo?
Vân Anh chép miệng thở dài, thay vì trả lời tôi, nó lại quay sang nói với Ánh Ngọc:
– Lỗi nầy không phải ở Tuyết Nhạn. Mầy tức giận hằn học với nó như vậy là không đúng. Nó có biết gì đâu. Lỗi nầy là do người yêu mầy…
– Mầy câm miệng, từ đây thằng chả không phải người yêu của tao nữa.
– Ờ, ờ thì tao câm miệng. Nhưng mầy phải biết là Tuyết Nhạn đâu có lỗi gì. Sao mầy giận nó vô lý vậy? Người mà mầy nên nguyền rủa là anh chàng Tân kìa. Đồ cái thứ trời đánh thánh đâm. Cái thứ mặt thỏ mõ dơi, đầu heo, bụng rắn, lưng trâu, lỗ tai bò!
Ánh Ngọc càng khóc lớn. Tôi càng không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nên la lại hai đứa nó:
– Tụi bây làm tao ngớ ngẩn không biết gì cả. Tại sao tao có lỗi với không? Chuyện gì đã xảy ra? Hãy kể cho tao nghe với chớ. Tụi bây một đứa xướng, một đứa họa, tao có biết chi đâu. Vân Anh, mầy kể trước đi:
Vân Anh còn đang ngần ngừ thì Ánh Ngọc lên tiếng:
– Mầy hãy kể cho Tuyết Nhạn nghe đi Vân Anh.
Vân Anh nhìn tôi e dè nói:
– Thì hồi sáng, lúc đi chơi, Ánh Ngọc và thằng cha Tân gặp chị em mầy ở cửa nhà lồng chợ. Thấy mầy thằng chả khoái, nên bảo Ánh Ngọc giới thiệu mầy cho thằng chả đi. Thế là hai người cãi lộn, Ánh Ngọc giận bỏ về.
Tôi ái ngại nhìn Ánh Ngọc còn đang thúc thít khóc, tôi bước gần đến, lay nhẹ vai nó:
– Xin lỗi nghe Ánh Ngọc. Tao không biết gì cả. Nếu mầy buồn giận tao thì tội nghiệp và oan cho tao lắm! Thôi quên đi, ngày mai mọi việc sẽ trở lại bình thường, đừng buồn nữa nha. Tao nghĩ chắc là thằng chả nói giỡn không chừng, để xem mầy có ghen không, có yêu thằng chả nhiều không? Nhưng mầy lại nổi tam bành lên rồi cãi lộn với thằng chả, làm thằng chả quê quá nên xì nẹc luôn.
Ánh Ngọc giọng lè nhè trong nước mắt:
– Không phải như mầy nghĩ đâu. Thằng chả nói thiệt.
Vân Anh xen vào:
– Trong lúc mầy giận, làm sao mầy biết thằng chả nói thiệt hay nói giả? Vậy mà tao nghĩ không ra. Tuyết Nhạn à, mầy rành tâm lý quá. Bây giờ tao nghĩ đúng như mầy vừa nói đó Tuyết Nhạn ơi. Ánh Ngọc, mầy phải diện lại cho đẹp, chút nữa thằng chả đến, đừng để thằng chả thấy mầy tiều tụy như vậy. Phải làm cho thằng chả biết mầy có thằng chả cũng được, không có cũng không nhằm nhò gì. Đi, đi thay đồ và trang điểm lại, mau lên!
Ánh Ngọc coi bộ tin về nhận xét của tôi, nên nét mặt không còn ủ dột như lúc nãy. Thiệt tình mà nói, rơi vào trường hợp nầy, tôi thấy không vui chút nào hết. Vì tội nghiệp Ánh Ngọc nên tôi lựa lời khuyên cho nó đỡ buồn, không ngờ cả con Vân Anh cũng nghĩ là thật. Tôi sợ bồ nó đến lại gặp tôi, tôi lại sợ giờ đến tối bồ nó không đến, nó càng thêm buồn, tôi càng thêm khó chịu. Tôi liền viện cớ bỏ quên đồ đạc ở nhà chị Tuyết Loan, cần đến đó lấy, chắc là tối lắm mới về.
Thôi, thế là chương trình nghe nhạc, uống cà-phê, chị Loan đến ngủ đêm nay coi như hủy bỏ. Tiếc thiệt!
Chị Loan và anh Toàn đưa tôi về khách sạn lúc chín giờ. Phòng vắng tanh, mấy con ma đầu kia đi chơi đâu mất chưa về. Một lúc sau, Vân Anh và Hồng Vân mua về một đống trái cây, nào chôm chôm tróc, long nhãn, măng cụt, bòn bon… Tôi hỏi ngay:
– Ánh Ngọc đâu?
Vân Anh lắc đầu cười, rồi vươn vai uể oải, nói:
– Thằng cha Tân lại rước đi, hai đứa nó huề rồi. Thật hết ý kiến, tao không biết cuộc tình tụi nó sẽ đi về đâu?
Gánh nặng trong lòng tôi được đặt xuống. Thật hú hồn!
Từ Cần Thơ đi Rạch Gía không xa lắm, nhưng đường sá không được tu bổ nên xe bị dằn xóc làm hành khách nghiêng ngã khi xe chạy qua những đoạn đường có ổ gà. Đến ngã ba Long Xuyên, xe dừng lại để rước khách, chở hàng hóa. Tôi gọi cho mỗi đứa một ly nước mía và mua một chùm bánh ú nước tro (loại bánh cúng cô hồn). Bánh nhọn ba góc, lớn bằng ngón chân cái. Nếp được ngâm nước tro tàu nên có màu nâu nâu trong vắt thấy lồ lộ cục nhưn xào với đường tán vàng. Bánh khi lột ra ráo hoảnh, ăn giòn và có mùi thơm đặc biệt. Không nơi nào gói bánh nầy ngon bằng ở đây.
Xe đi qua kinh Một, kinh Hai, kinh Ba, kinh Tư… Khoảng giữa đoạn đường Rạch Giá và Long Xuyên, dân cư có đời sống yên vui sung túc nhờ ruộng rẫy. Dọc theo lộ, hầu hết là nơi lập nghiệp cũa người miền Bắc di cư vào năm 1954 (Thời nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm).
Càng đi gần về Rạch Giá, gió biển càng mát rượi. Bên phải xe chạy, tôi có thể ngắm từ chân trời xa tít, chập chùng dãy núi xanh đen ẩn hiện. Bầu trời trong và cao thăm thẳm. Cánh đồng bao la bát ngát được chia ra từng ô rộng lớn bởi những bờ mẫu ngoằn ngoèo. Nông phu đang cắt lúa chín vàng, kẻ bó, người ôm chất lên cộ trâu. Một bức tranh quê êm đềm sống động trải dài dưới tầm mắt tôi làm cho tôi có cảm tưởng đây là thời thái bình thịnh trị. Hồn tôi lâng lâng theo cánh cò trắng lượn bay. Gió từng chập lùa qua cửa sổ xe làm tóc tôi bay về phía sau và lòa xòa trên trán. Ba cô bạn tôi thì ngủ gà ngủ gật sau khi uống ly nước mía mát lòng. Hồng Vân, mắt nhắm hít, miệng lè nhè hỏi tôi:
– Tới chưa mậy?
– Chưa tới, mấy con lười biếng nhớt thây!
Hồng Vân đêm qua thỏ thẻ cho tôi biết, cuối năm chàng hôn phu Mỹ của nó sẽ làm đám cưới, và nó sẽ theo chồng về Mỹ. Gia đình nó không ai chấp nhận cuộc hôn nhân nầy. Nó bất cần, tụi nó đã làm giấy tờ hôn thú xong rồi, và giấy tờ nhập cảnh vào Mỹ cũng xong, chỉ chờ chồng nó hết nhiệm kỳ dạy ở Việt Nam thì tụi nó đi. Nghe nó kể xong lòng tôi buồn buồn như làm mất một cái gì đó mà không diễn tả được!
Xe vẫn chạy vùn vụt. Gió ào ạt tạt vào từ các cửa sổ xe. Tôi cố dỗ cho mình một giấc ngủ ngắn, nhưng tôi không tài nào ngủ được. Bao nhiêu chuyện xưa trở về ký ức, vui có, buồn có, nhứt là những chuyện vụn vặt hàng ngày trong sở làm, chuyện lúc còn học các lớp phổ thông, lúc học nghề. Có những chuyện làm tôi bật cười thành tiếng. Có những chuyện làm tôi nơm nớp âu lo.
Làng xã nơi ba má tôi cư ngụ bây giờ không còn được an ổn như xưa. Một vài tuần, giữa đêm khuya tối trời, tiếng trống mõ dựng đứng mọi người dậy nghe giặc xóm tuyên truyền báo tin tức mà dân lành không ai muốn nghe, không ai để ý. Rồi tin ở làng thôn lân cận có một vài người trong thôn bị giết bằng mọi hình thức tàn bạo như chặt đầu, cắt cổ, thả trôi sông. Người dân sống trong lo âu sợ sệt, không biết đêm nào lại đến phiên mình. Nhưng họ an phận, không dám hé môi vì sợ bị trả thù, sợ bị thanh toán… Ba má tôi không cho chúng tôi về quê thường xuyên như dạo trước. Chỉ có ngày giỗ, ngày Tết tụi tôi mới về. Nhà bây giờ chỉ còn có ba má tôi và mấy người phụ chăm lo vườn tược mà thôi. Hai cô em tôi Tuyết Oanh và Tuyết Nga đi học xa.
Tuyết Oanh học năm thứ nhứt Văn Khoa. Trong trường, nó hoạt động văn nghệ, viết báo, làm thơ, ca hát líu lo như tên của nó. Tuần trước về thăm tôi, nó cho biết, nó đã quen với anh chàng học cùng trường, hơn nhỏ ta hai lớp, người Đàlạt. Tôi nói với Tuyết Oanh:
– Em quen với ai thì quen, nhưng đừng có bậy bạ nghe. Em phải nghĩ đến ba má, đừng làm những chuyện vượt vòng lễ giáo để ba má khỏi buồn lòng. Mình là phụ nữ, luôn bị thiệt thòi trước nhứt, có biết chưa?
Tôi nghiêm nghị nhìn Tuyết Oanh nửa căn dặn nửa dò xét, xem phản ứng của nó thế nào? Tuyết Oanh liến thoắng trả lời:
– Em biết rồi. Chị giống má, không khác chút nào hết. Cả mấy tháng trước ngày em đi học xa nhà, đêm nào má cũng nhắc nhở em như vậy. Chị đừng lo, em biết giữ mình mà. Chị Hai, chị Ba và chị như vậy thì em với Tuyết Nga không tệ đâu.
Tôi nhớ ông ngoại khi dạy chúng tôi thường nói: “Trong bầy trâu, con dẫn đầu đi ngay thì mấy con sau không chạy bậy”. Tôi thầm cảm ơn chị Hai tôi và đôi lúc tôi nghĩ, ngoài tình yêu kính cha mẹ ra, hai bà chị và hai cô em được tôi thương sâu đậm nhứt. Chắc trên đời nầy tôi không yêu ai hơn họ. Hèn gì mấy ông già bà cả có câu “yêu nhau chị em gái, kháy nhau chị em dâu”.
Với số lương tôi lãnh được, sau khi trả tiền nhà, ăn uống sắm sửa cho riêng mình, tháng nào tôi cũng có dư. Tôi đưa hết cho ba má số còn lại nhưng ông bà không nhận, bảo hãy để dành, khi cần thì có mà dùng, khỏi phải xin cha mẹ. Tôi đề nghị với ba má tiền sách vở, hàng bánh linh tinh của Tuyết Oanh để tôi lo. Lúc đầu, ba má tôi không bằng lòng, sau ông nói:
– Thôi cũng được, tiền con lo cho em, ba má giữ đây, khi nào con lấy chồng ba má cho lại chúng con làm vốn.
Tôi mỉm cười nghĩ một mình, chắc ngày đó không có đâu ba ơi. Em Tuyết Nga thì ở Cần Thơ với chị Tuyết Loan. Nhỏ ta đang học năm cuối đệ nhị cấp của trường trung học Đoàn Thị Điểm, còn mấy tháng nữa thi phần hai. Nga định sẽ thi vào Kiểm Sự Nông Lâm Súc, nếu không đậu nó sẽ lên Sàigòn ở trọ chung với Tuyết Oanh và ghi danh vào Đại Học Luật Khoa. Con bé nầy càng lớn tánh tình rặt như chị Tuyết Loan, nhưng dễ dãi và cởi mở hơn. Mặt mày nó có nét giống chị Tuyết Hồng. Thấy nó có nhiều bạn, chị Tuyết Loan thường bảo:
– Tuyết Nga lấy xong phần hai, vào Đại học rồi mới được có bồ.
Tôi cười nhỏ giọng hỏi chị:
– Chị độc tài quá vậy? Nó có bồ cũng phải đặt điều kiện nữa sao? Ngày xưa ai ra điều kiện với chị?
Chị lườm tôi rồi nói:
– Mầy khùng quá, có bồ sớm, nó sẽ bị bao nhiêu sự việc chi phối, rồi học hành không vô rồi việc học sẽ bị dở dang. Có nghề nghiệp, nó vào đời càng vững chắc hơn. Dầu lập gia đình mà không đi làm việc, nhưng nếu mình có chút it kiến thức cũng đỡ hơn chớ. Đó là kinh nghiệm của tao.
Tôi nghĩ chị nói cũng đúng. Vì vậy, vị hôn phu của chị điêu đứng bị kềm kẹp trong việc học hành. Sau khi anh theo gánh hát trở về, chị Loan bắt anh đi học chữ lại. Anh thi đậu phần một, phần hai đã thi hai lần, nhưng bị trợt vỏ chuối. Là con trai độc nhứt anh khỏi đi lính, nhưng anh tình nguyện vào quân trường Thủ Đức, và được về ngành Tâm Lý Chiến công tác ở Quân Đoàn IV.
Chị Tuyết Loan sau thời gian dài cố gắng, bền bĩ chịu đựng, chị đã thắng cuộc. Chị được đính hôn với anh Toàn, sau bao nhiêu sự ngăn cấm, cản trở của ba má tôi và hai bên nội ngoại tôi. Năm tới anh chị sẽ kết hôn. Chị Tuyết Loan thường bảo tôi:
– Anh Toàn hoạt bát bao nhiêu thì anh Trường trầm lặng bấy nhiêu. Vợ chồng chị Tuyết Hồng ít khi trò chuyện trước mặt mọi người. Chẳng biết trong phòng the họ có tâm tình với nhau không đây?
Anh Toàn nói giỡn:
– Chắc là họ dùng ngôn ngữ riêng, không ai hiểu nổi.
Tôi cũng nói:
– Em cũng nghĩ rằng, họ tạo một thứ ngôn ngữ… im lặng để thông cảm với nhau chớ bộ.
Tuyết Oanh và Tuyết Nga trờ tới. Anh Toàn bảo:
– Anh Trường đối với anh rất thân mật. Ảnh cũng thích bàn cãi chuyện nầy chuyện nọ, cách nói của anh khoan thai, giọng nói nhỏ nhẹ, mềm mỏng, văn nói chọn lọc. Tâm hồn ảnh không quá thực tế đâu. Ảnh cũng nói về thú tiêu khiển, nói đến những chuyến du lịch, phê bình những quyển tiểu thuyết, những truyện phim Tàu. Các cô đừng quên ảnh đã đậu bằng Thành Chung, và đã từng làm nhạc công ở đài Pháp Á rồi.
Tuyết Nga nhìn Tuyết Oanh:
– Anh Trường rộng rãi với chị Oanh và em. Ảnh có hoạt bát hay lầm lì thì em cũng chẳng để ý.
Chị Tuyết Loan bảo:
– Ảnh hiền, nhưng cộc lắm. Ông bà mình thường nói: “Lầm lì lụt lịt địt ra khói”.
Tuyết Oanh cười lăn rồi bảo:
– Dù sao khi về thăm quê vợ, ảnh cũng phải tỏ ra đạo mạo để làm gương em út chớ.
Chị Tuyết Loan trề môi:
– Ai là chồng bà Tuyết Hồng, dẫu có xạo, có đía thế mấy cũng bị bả ép vào khuôn khổ khít khao, vào nề nếp vững chắc. Đương sự không dám thở mạnh, không dám ho lớn.
Anh Toàn nheo mắt nhìn người yêu:
– Còn ai làm người yêu em thì bị em bắt học té thở, bắt gạo bài mệt nghỉ, làm bài mệt đến phờ râu tôm luôn!
Chị Tuyết Loan dẫy nẫy, nguýt anh:
– Vậy nhờ ai mà anh đậu bằng Tú tài? Hứ, vừa qua cầu thì rút ván cầu phải không?
Đến Rạch Giá, chúng tôi đi thăm vườn dừa, đi dạo bờ biển. Người địa phương cho biết biển ở đây sản xuất nhiều hải sản quý, nhiều loại cá ngon, cá hiền, chớ không phải là vùng biển có bãi tắm lý tưởng như Vũng Tàu, Nha Trang… Tụi tôi ăn bún nước lèo trong nhà lồng chợ nằm dọc sát bờ sông có thể nhìn ra biển. Các ghe lưới cá, các ghe câu đậu chen chúc dưới bến. Bún nầy nước lèo nấu bằng mắm sặc chứ không phải mắm bồ hóc như người Miên. Trên tô bún có cá luộc rỉa thịt bỏ xương, có tôm thẻ, thịt ba chỉ và bắp chuối xắt ghém, còn rắc ngò gai, ớt, hành phi, chanh…
Đến Hà Tiên chúng tôi viếng Thạch Động, viếng lăng Mạc Cửu, chùa Phù Dung, luồn qua hang Đá Dựng. Ở đây, chúng tôi được thưởng thức những món đồ biển nấu theo lối người Hải Nam. Đặc biệt là hủ tíu Hải Nam nấu với tôm, mực, cua, cá thu quết nhuyễn vò viên. Bà chủ tiệm ăn còn giới thiệu cho chúng tôi món lẩu cá sạo nấu dưa cải, cháo cá hường nấu với giò heo ăn đệm với bún tươi.
Chúng tôi dong thuyền buồm qua hòn Chông, hòn Trẹm, nhìn biển mù khơi, sóng chập chùng, từng đợt, từng đợt tiếp nối đuôi nhau không bao giờ dứt. Xa tít mù xa là hòn Nghệ, hòn Tre, hòn Rái… Các hòn đảo nằm giữa nước trời mênh mông như cảnh tiên giới trong những phim thần thoại. Gió thổi tung hất mái tóc tôi về phía sau. Tôi lần bước qua hàng thùy dương, nằm dọc bờ cát trắng, khuất sau đám sậy đám lau rậm rạp. Trên dốc đá cao là nhà thờ, cha sở coi xứ đạo nầy là bác ruột của anh Tịnh.
Hơn tám năm trước, tôi quen anh Tịnh, khi tôi về đây nghỉ mát gần hai tháng trong mùa hè năm đó. Thi bằng Trung học Đệ nhứt cấp xong, tôi cứ bịnh rề rề, cơ thể yếu đuối. Bác sĩ khuyên phải dưỡng bịnh một thời gian nên nghỉ ngơi, ăn uống bồi dưỡng cho cơ thể trở lại bình thường thì sau hè mới đi học lại được. Các chị và em tôi kẻ thì khuyên tôi đi Vũng Tàu, người thì bảo đi Đàlạt, Nha Trang thơ mộng hơn. Nhưng tôi không bằng lòng, mà thích về miền cuối nước Việt nầy.
Thế là anh Trường, chồng chị Tuyết Hồng giới thiệu tôi ở nhà ba má chú lơ xe của chiếc xe anh chạy tuyến đường Rạch Giá – Hà Tiên. Từ Rạch Giá, xe chạy đến cuối quãng đường dài đến ngã ba gần biển. Ở ngã ba có hai ngã quẹo: phải vào Hà Tiên, trái ra hòn Chông, hòn Trẹm. Nhà ba má anh lơ xe gần biển ở hòn Chông. Phòng tôi ở rộng rãi, có cửa sổ nhìn ra biển, và tôi có thể nghe được tiếng sóng vỗ ầm ỳ, tiếng gió thổi rào rào của bờ phi lao sau nhà gần bãi biển. Trước kia phòng nầy là của con gái ổng bả, nay cô ấy đi theo chồng, nên phòng để trống. Anh chị tôi trả tiền tháng cho tôi ăn ở đây. Ông bà chủ nhà không bằng lòng nói là nhà có sẵn, cá tôm bắt ở biển, rau cải vườn nhà, có tốn kém chi đâu, thêm một người chỉ thêm một đôi đũa trên mâm cơm mà thôi. Chúng tôi không bằng lòng, nên cuối cùng ông bà chỉ lấy một trăm đồng tiền ăn cho một tháng thôi.
Mỗi sáng sớm, tôi đi dạo một mình ngoài bờ biển, nhìn mặt trời lên. Khi thì tôi đi qua chợ chồm hổm xem người ta buôn bán, đổi chác những thổ sản trong vùng. Chiều, tôi ưa nhìn hoàng hôn xuống, những con hải âu vỗ cánh nhàn hạ trên bầu trời quang đãng. Mưa gió vùng biển bất thường, nhưng mưa xong thì mặt đất ráo khô, bởi toàn là cát nên không lầy lội như vùng đồng bằng. Ở đây có không khí trong lành, tôi được ăn những món ăn tươi, bà chủ nhà nấu nhiều món ngon và ép tôi ăn, nên chừng mươi ngày sau thì da dẻ tôi hồng hào, thể chất nở nang.
Đến một ngày kia, tôi bắt gặp chàng thanh niên ngồi bên kia bờ đá nhìn tôi mỉm cười nhẹ rồi gật đầu chào. Tôi lịch sự, chào lại. Anh ta bước sang làm quen hỏi chuyện. Tôi được biết anh tên Tịnh, học năm cuối của trường Mỹ Thuật. Anh vẽ và điêu khắc rất giỏi. Sau đó chúng tôi thường hẹn đi dạo biển, đi vào khuôn viên nhà thờ, dạo dưới những tàn cây cao tỏa nhiều bóng mát. Bổn đạo trong vùng không được đến đây, nếu không phải là những ngày lễ lớn, hay chưa được phép của cha Sở. Có khi chúng tôi theo những người dân chài ra bãi bắt cua, bắt cá, bắt ốc mượn hồn. Anh Tịnh còn cho tôi biết, anh đã đính hôn, bọn anh định sau ngày anh tốt nghiệp sẽ làm đám cưới. Khi biết mình bị bịnh bất trị, anh liền từ hôn, mặc dù trước sau anh vẫn một lòng yêu thương hôn thê mình. Hôn thê anh không biết tâm ý của anh. Cô nguyền rủa anh là kẻ bạc tình, rồi tức giận thành hôn ngay với người khác sau đó mấy tháng.
Thời gian qua mau, những ngày hè của tôi dần hết. Tôi về nhà để trở lại trường tiếp tục niên học mới. Anh Tịnh tiễn tôi ra xe và tặng tôi món quà nhỏ. Anh còn dặn lúc mở phải cẩn thận. Khi về đến nhà tôi lôi mấy món quà thổ sản mua được ở Hòn Chông tặng ba má và các chị em, còn quà anh Tịnh cho tôi dấu kỹ, chờ không có ai mới mở ra xem.
Tôi ngồi trên giường, cẩn thận mở gói quà anh Tịnh ra, món quà tặng gì mà nhẹ hều vậy cà? Trong tuýp Optalidon bằng nhôm quấn giấy quyến, một tượng thiếu nữ khắc trên cây phấn trắng của học trò. Anh khắc rất tinh vi, đường nét rõ ràng sắc sảo, mà các chị và em tôi đều nói giống tôi. Năm Đệ tam, việc học hành không bận rộn bằng năm đệ tứ, nên tôi thường gởi thư thăm hỏi anh.
Thế rồi mùa Giáng Sinh năm đó, tôi được một bì thư rất dầy, của cha Sở ở hòn Chông gởi. Cha cho biết anh Tịnh đã qua đời, và anh nhờ cha gởi cho tôi những bức vẽ bằng chì trên giấy trắng: lúc tôi ngồi vọc nước, lúc đứng nhìn biển, lúc ngồi trên bờ đá… Ngoài bì thư nhỏ nầy còn có bút tích của anh: “Hương xuân chợt thoảng cuối đời quạnh hiu”.
Giờ đây, đứng trước mộ anh, tôi chắp hai tay lên trán xá xá và thành tâm cầu nguyện cho hương linh Huỳnh Kiến Tịnh an bình nơi đất Chúa. Mấy con bạn đồng hành cũng đứng lên xá xá, mặt đứa nào cũng buồn dàu dàu. Ánh Ngọc thì mắt đỏ hoe, chứng tỏ nó vừa mới khóc. Tôi nói:-Bây giờ tụi bây biết tại sao tao nằng nặc đòi ghé Hòn Chông, Hòn Trẹm rồi chớ?
Như đã dự định, chúng tôi rời Hà Tiên trở về Rạch Giá rồi mới đi qua Long Xuyên và chia tay. Ghé lại Rạch Giá, tôi mua các món quà bằng đồi mồi cho gia đình. Tôi mua cho ba tôi hộp đựng thuốc lá, mấy cây nỉa ghim mứt cho má, hai cái lược cài tóc cho hai đứa em, cây quạt rất mắc để dành cho chị Tuyết Loan trong ngày đám cưới sắp tới của chị.
Chúng tôi chụp rất nhiều ảnh để lưu niệm. Tôi chụp lúc tắm biển ở Mũi Nai, đứng bên nầy biên giới Việt Miên, hái bông sen trong giếng cẩn đá ong tại chùa Phù Dung… Nhỏ Hồng Vân, một hôm nhìn ra mặt nước Đông Hồ phẳng lặng như mặt kiếng soi mặt, than thở:
– Trước cảnh đẹp như vầy, con người dễ khao khát tình yêu. Có lẽ đi du ngoạn với bồ bịch thì thích hợp hơn.
Không ai nói gì, tôi biết mấy con nhỏ kia cũng đều đồng ý với Hồng Vân. Tôi làm bộ bắt bẻ:
– Rũi bồ mình có tâm hồn thi sĩ, hay là thi sĩ thứ thiệt, đương sự mê cảnh đẹp hơn mình thì sao? Tụi bây đẹp, bồ tụi bây mê tụi bây hơn mê cảnh. Còn tao thì…
Tôi chưa kịp nói tiếp, thì ba cái miệng kia xúm lại cắn xé tôi ngay. Vân Anh sừng sộ:
– Trong bốn đứa tụi mình, nó trội nhứt, đẹp hơn cảnh Đông Hồ, đẹp hơn Hòn Chông, Hòn Trẹm, mà nó còn làm bộ làm tịch nói nữa. Thiệt nghe ứa gan!
Ánh Ngọc hùng hổ:
– Nó đâu thích cùng người yêu dạo chơi trước cảnh hồ thơ núi mộng, trước cảnh đất rộng trời cao. Nó chỉ thích cùng người yêu ở trong buồng gói kín bưng kín mít.
Hồng Vân từ tốn hơn:
– Các chị biết không? Con nầy quỷ quái lắm, nó muốn mấy chị khen nó đẹp hơn mười thắng đẹp danh tiếng ở đất Hà Tiên đó đa.
Vân Anh điểm mặt tôi:
– Cái thứ gì ỏn ẻn thấy mắc ghét!
Ánh Ngọc đay nghiến:
– Cái thứ giả dối điêu ngoa, chằng ăn, trăn quấn, ưa ăn nói tréo hèo lươn lẹo.
Hồng Vân trề môi:
– Biết rồi, đẹp lắm đừng có làm bộ ỡm ờ bắt tụi tao khen mầy nữa.
Tôi nheo mắt cười, tấn công trả đũa ba con chót chét kia:
– Tụi bây còn lời mật ngọt nào hơn ở trong ba cái miệng hỏa lò, có răng hùm, lưỡi rắn của tụi bây hay không? Tao sợ mấy con có cái mặt dơi, mắt chuột, tai lừa, lỗ mũi heo như tụi bây, luôn xúm nhau, cắn mổ, xóc xỉa tao hoài. Bộ tụi bây đang cô đơn trong lúc vắng bồ nên sanh ra cáu kỉnh với tao hả?
Chương 8
Tôi về Mỹ Tho trước ngày làm việc trở lại hai hôm để quét dọn lau chùi căn nhà trọ. Xong công việc, tôi nấu một nồi nước bồ kết gội đầu. Sau đó tôi đi chợ mua một tập giấy bìa cứng màu xanh nổi vân xám để làm quyển nhựt ký. Và khi xẹt qua hông chợ, tôi mua một bó bông huệ trắng để cắm trong lộc bình.
Nhưng tôi chưa viết nhật ký liền đâu. Tôi viết thư cho Thu Trinh và Thúy Hiền kể lại chuyến du ngoạn vừa qua. Sau đó tôi đến thăm lại mẹ con chị Diệu Tâm và ở ăn cơm chiều với họ.
Hôm sau, Vân Anh và Ánh Ngọc mới trở về nhà trọ. Cuộc sống tiếp tục trở lại bình thường. Mươi ngày sau tôi được thư của Thúy Hiền. Nhỏ báo tin cho tôi là sắp đính hôn với anh chàng Dược sĩ, cha Bắc, mẹ Huế, nhưng sanh đẻ tại Sàigòn. Tên nầy nói thạo ba giọng Nam,Trung, Bắc nên nhỏ không dám trổi giọng Huế ba sồn bốn sực nữa.
Mấy hôm sau thư của Thu Trinh tới. Nhỏ nầy báo cáo rằng ông anh văn võ song toàn của nó sắp cưới một cô gái Huế nói trọ trẹ được tiếng Nam, thuộc giòng hoàng phái, có bốn chữ “Công tằng tôn nữ” trước cái tên Phương Anh. Gần cuối thư Thu Trinh viết bằng giọng Huế: “Nì, tau không thích có chị dâu Huế mô. Tau thích mi làm chị dâu tau hè. Rứa là mi nợ tau. Kiếp sau mi phải làm chị dâu tau, tau mới ưng nghe chưa con tê!”,
Tôi gởi thư chúc mừng Thúy Hiền và viết thư xạo đía với Thu Trinh. Cuối thư tôi hứa: “Ừ, kiếp sau tao sẽ làm chị dâu của mầy, với điều kiện là người yêu tao đầu thai làm anh của mầy”.
Tôi đem bức thư mình viết cho Thu Trinh khoe với Vân Anh và Ánh Ngọc. Hai con ma đầu nầy chìa môi nhọn mỏ. Vân Anh cong cớn:
– Viết như mầy đâu có độc. Thôi để tao với Ánh Ngọc “gà” cho mầy viết thêm ở phần tái bút.
Hai con chuột chù và khỉ nầy bắt đầu ở phần ‘’tái bút’’. Ánh Ngọc thay lời tôi thêm vào: T.B: “Tao nghe đồn anh mầy có máu dê. Rũi kiếp sau tao đầu thai nhầm thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, còn anh mầy đầu thai thành con dê đực thì sao đây?”
Vân Anh thêm vào ở phần “nối bút” giọng Huế như sau: N.B: “Ủa quên, nì Thu Trinh, kiếp ni tau rán tu hành để kiếp sau khỏi đầu thai thành đờn ông và phải cưới một con vợ trời đánh như mi. Cưới con vợ như mi thà tau tự tử sướng hơn…”
Thư tôi gửi đi chừng một tuần thì tôi được thư hỏa tốc của Thu Trinh. Nhỏ ta mắng vãi tôi bằng những lời nặc nô ác ôn ở phần chót lá thư: “Kiếp sau, tao sẽ đầu thai làm mẹ chồng mầy và sẽ dùng roi mây, gậy tầm vông để trị cái thói ngang ngược hổn hào của mầy. Còn anh tao đầu thai làm quan tòa, xử án mầy chung thân trong tù…”
Tôi được may mắn trong tình bạn. Có bạn để đùa giỡn tâm sự nên tôi quen dần đời sống xa nhà. Rồi tới giai đoạn tình yêu. Tôi biết thế nào là cú sét giáng xuống đầu, thế nào là búa tạ đập vào đầu. Nhưng tôi không biết ‘”người ta” nghĩ gì về tôi. “Người ta” có biết tình cảm của tôi đặc biệt dành cho “người ta” không? “Người ta” có bị cú sét, búa tạ từ phía tôi giáng xuống không?
Chị Tuyết Loan tôi nói chuyện tình yêu qua những danh từ dữ dằn nẩy lửa nào là sét đánh, nào là búa tạ khện vào đầu. Tình yêu vốn khả ái thiêng liêng mà qua cái miệng bả thì trở thành tai ương, ác mộng. Nhưng nhờ chị mà tôi rõ cái tình cảm chân thật của mình, hiểu ngay thế nào là tình yêu, hiểu trực tiếp, hiểu tức khắc, không rồng rắn quanh co, không vòng vo tam quốc gì ráo!
Mùa mưa vào sâu rồi thoảng qua dần. Bắt đầu qua tháng mười mà tiết trời vẫn còn khô ráo, nắng sáng rạng rỡ. Cây huỳnh anh và cây bông giấy uốn cong theo khung cửa rào vẫn trổ bông lai rai. Hoa bông giấy đỏ tím, hoa huỳnh anh vàng. Màu tím đỏ không buồn, màu vàng thì hớn hở. Tôi như sống trong giai đoạn mới trong cuộc đời. Tim tôi là mảnh đất phì nhiêu, sẵn sàng đón nhận hạt giống tình yêu từ tim Minh để nhìn được chân trời hạnh phúc và đi đến hôn nhân.
Một hôm tôi nhận được hai gói quà nhỏ của Dư Khải Minh đi gác thi từ Huế gởi về, qua sự chuyển giao của chị Diệu Tâm. Mỗi gói quà đều có sách, có thiệp ép hoa kèm theo lời thăm hỏi. Dòng chữ của anh nắn nót, đẹp bay bướm. Anh than thở rằng nhớ Mỹ Tho, mong khóa thi chóng xong để trở về. Và thú vị chưa trên tấm thiệp chàng vẽ cánh nhạn bay giữa chòm mây. Tôi cười nhẹ và nghĩ thầm: “Nhạn đâu có bay cao như vậy?”
Tôi cũng được thư của anh Lê Trường Hải đang học quân sự ở đảo Uamp. Anh kể cho tôi nghe những thắng cảnh ở chốn hải đảo thần tiên kia. Anh khoe là đi một tấc đàng, học một sàng khôn. Ở đây anh được mở mang nhiều kiến thức. Nước người giàu đẹp làm anh không muốn trở về quê cha đất tổ nữa. Tôi thấy buồn buồn khi đọc thư người bạn thời thơ ấu. Tôi nghĩ thầm: “Người gì mà chưa chi muốn rời xa nơi chôn nhau cắt rún!”
Tôi được hai thơ tỏ tình của Nguyễn Hồng Tân (bồ của Ánh Ngọc). Thiệt tình, hết nói nổi! Tôi đưa thư cho Vân Anh và dặn nó phải dùng lời khéo léo mà khuyên Ánh Ngọc, cho nó biết là bồ nó là người không chung tình, và đừng nói gì có hơi hám tôi trong đó.
Minh đi gác thi ở Huế về, đến thăm và tặng tôi chiếc nón bài thơ, tập truyện Nắng Trong Vườn của Thạch Lam, gói kẹo mè xửng. Minh, nét mặt tươi vui, nói:
– Trước ngày về, anh định mua gì để tặng mẹ con chị Diệu Tâm và Tuyết Nhạn. Nhưng theo mấy người bạn đi dạo phố đêm, anh chỉ chọn được quyển sách. Hôm sau mới mua được nón và kẹo. Sao, Nhạn có khỏe không? Công việc ở nhà thương vẫn bình thường chớ?
Nói đến đây, Minh mỉm cười nhìn sâu vào mắt tôi rồi hỏi tiếp:
– Chuyến đi chơi ở miền Tây thế nào? Có vui không? Có gặp lại người… quen không?
Trong vòng rào, trước sân nhà chúng tôi mướn, chủ nhà có trồng cây hoa nguyệt quới cao khỏi cổng rào. Những đêm hoa nở, hương thơm tỏa bay khắp xóm. Dưới tàn cây có chiếc bàn nhỏ và mấy chiếc ghế chân lùn. Tôi lấy khăn lau và phủi những chiếc lá rơi còn vướng mắc trên bàn để ngồi tiếp Minh ở đó. Tôi mời chàng uống nước lọc rồi kể:
– Chuyến nầy, Nhạn đi thăm gia đình người chị lớn và thăm bà chị kế. Rồi cùng mấy đứa bạn đi vòng vòng. Đi chơi thì vui lắm, nhưng hơn nửa tháng trở về làm việc, Nhạn cảm thấy lười biếng quá. Còn anh thì sao? Ngoài Huế thế nào? Xứ của vua chúa thì tuyệt phải không? Sông Hương, núi Ngự… Cố đô Huế thơ mộng thần tiên. Các cô gái Huế có giọng nói ngọt như mía lùi, thanh và êm như chuông chùa Thiên Mụ, đúng không? Nhạn mơ ngày nào có dịp ra thăm đất Thần Kinh nguy nga tráng lệ đó.
Minh điềm đạm bảo:
– Đây là lần đầu tiên anh đi công tác ở Huế, vì rất bận rộn nên anh không có thì giờ đi đâu. Suốt ba tuần ở Huế, anh chỉ có hai ngày rảnh trước khi trở về đây, mới là ngày của mình thôi. Ngày đầu anh ngủ mờ con mắt, để bù lại những ngày đêm lu bu với công việc. Ngày sau, anh cùng mấy người bạn đồng nghiệp đi dạo chợ, mua quà rồi về. Các cô gái Huế có giọng nói ngọt ngào đâu thì anh chưa thấy, mà khi đi vòng chợ nghe hai mụ bán hàng chửi lộn. Những lời lẽ chanh chua của hai bên làm người vô tình nghe nhức óc đau tai muốn chết được. Ở đâu cũng vậy, cũng có mặt thật và mặt trái của nó, tùy theo cảm nhận của mỗi người thôi.
Chiều hôm đó, Minh rủ tôi ra ngoài ăn và đi dạo phố đêm. Minh rất tế nhị, khi nói chuyện với ai, lắng nghe người nói nhiều hơn anh nói. Nhưng khi nói, câu nào của anh cũng vững chắc, lời lẽ chân thành tự nhiên, không kiểu cách văn hoa. Anh có đôi mắt lúc nào cũng buồn vời vợi, dễ làm mềm lòng người đối diện.
Trên đường anh đưa tôi về nhà, bỗng dưng trời đổ mưa. Ban chiều, trời trong vắt. Chớm tối thì sao sáng ngời, trăng cũng vừa lên. Ngồi trong quán ăn ven bờ sông, tôi có thể nhìn suốt nhánh sông Cửu Long rộng thênh thang, dài ngút mắt. Cơn nước lớn, nhưng gió chỉ hiu hiu. Sóng vỗ nhè nhẹ vào bờ. Phương Đông, vầng trăng thật tròn và ngạo nghễ tỏa ánh sáng dịu dàng lên vạn vật. Những chiếc xuồng câu ảo ảo, mờ mờ lác đác ven sông bên kia cồn bần. Những đám bần dầy đặc cắt lên nền trời những vệt đen. Nếu đêm nay không trăng thì ánh chớp tắt của đom đóm sẽ đẹp như bóng đèn mắc trên cây thông trong đêm Giáng Sinh.
Vậy mà khi cả hai ra khỏi quán chừng mươi phút thôi, thì trời chuyển động, gió vùn vụt, sấm chớp ầm ầm. Giấy tạp, lá khô bay long lóc trên mặt đường. Những người bán quà ban đêm phải tìm chỗ ẩn núp, phải che hàng lại trước cơn thịnh nộ của đất trời. Minh vội nắm tay tôi lôi vào hàng hiên tiệm thuốc tây giờ nầy đã đóng cửa. Mưa nặng hột như trút nước. Ở nơi đây cũng có người đã đến trước để tránh mưa. Tôi đứng nép vào vách, Minh đứng bên ngoài để che mưa tạt vào tôi. Lần đầu tiên tôi đứng sát một người thanh niên có nhiều mỹ cảm, tôi cảm thấy lòng mình dao động, hồi hộp và mất tự nhiên. Tôi nhìn trời mưa và len lén nhìn Minh. Anh tỉnh bơ, không nói gì, cũng đôi mắt buồn đó nhìn mưa rơi ào ạt. Bỗng Minh lên tiếng:
– Nhạn có lạnh không? Mưa nổi bong bóng dưới mặt đường như vầy thì dai dẳng lắm. Hay mình gọi xích lô về nghe?
Tôi giật mình trở về hiện tại, nói khẽ:
– Chờ chút nữa mưa sẽ tạnh mà.
Thật ra, tôi đã thấm lạnh, muốn về sớm, nhưng ngại ngồi chung xe xích lô với Minh. Bởi từ nhỏ đến lớn tôi chưa ngồi chung xe xích lô với bất cứ anh chàng nào, cũng chưa ngồi ôm eo ếch người khác phái trên xe gắn máy hay xe đạp của họ, trừ những người thân trong gia đình. Tôi cũng chưa nắm tay nắm chân người con trai nào. Tôi luôn giữ khoảng cách giữa tôi và họ.
Đó là cách tự vệ của riêng tôi. Tôi cảm thấy người con gái không thích hợp khi ngồi chung chạ như vậy với người khác phái. Đôi lúc tôi tự hỏi, có phải mình khó tánh lắm không? Hay đó là phản ứng tự nhiên của mình? Tôi không biết. Nhưng bạn bè, chị em thường chê tôi cổ lỗ sỉ, và còn cho biệt danh “Nhạn tăng hăng tó hó teo héo!” nữa. Tôi nghe được, bật cười chấp nhận “cũng chẳng sao”.
Tôi luống cuống bắt gặp cái nhìn của Minh xoáy vào tôi. Anh chăm chú nhìn đồng hồ rồi lên tiếng:
– Gần mười giờ, mà trời vẫn còn mưa lớn. Anh gọi xích lô về nghe, ở đây lâu, về tới nhà Nhạn sẽ bị cảm lạnh. Ngày mai, Nhạn còn phải đi làm nữa.
Tôi chợt ách sì và rùng mình vì cơn gió hắt qua. Minh không chờ ý kiến tôi, ngoắc chiếc xích lô chạy ngang. Xe dừng lại, Minh như đẩy tôi lên xe mau để khỏi ướt. Anh mở bóp phơi lấy tiền trả cho ông xích lô khi tôi lên xe, ông chờ sẵn, mau tay cài tấm vải che mưa khỏi tạt vào người ngồi bên trong. Xe bắt đầu lăn bánh, và vọt mau theo đà đẩy của ông xích lô. Tôi đập tay bình bình vào vách xe gọi lớn:
– Bác ơi dừng lại, dừng lại đi, bác ơi!
Bác xích lô thắng xe lại hỏi:
– Có chuyện gì vậy cô?
Tôi quay đầu về phía sau, nói lớn để ông ta nghe rõ:
– Bác quày xe trở lại chỗ hồi nãy, để chở ông đó đi luôn. Mưa lớn thế nầy ông ta không dễ đón xe. Tôi sẽ trả tiền thêm cho bác.
Ông xích lô “dạ” rồi quay xe trở lại. Minh ngạc nhiên nhìn tôi, khi ông xích lô loay hoay mở tấm vải che mưa.
Tôi nói:
– Anh Minh, lên xe mau đi, kẻo không thì ướt hết.
Minh hơi khựng, rồi bước lẹ ngồi vào xe. Tôi ngồi tréo chân để có rộng chỗ cho Minh, nhưng anh chỉ tựa lên băng xe cho khỏi té, chớ không ngồi gần sát vào tôi. Tôi và Minh không nói lời nào trên quãng đường từ nơi đụt mưa về đến nhà.
Trong nhà tối thui, chứng tỏ hai con kia bị mắc mưa đâu đó chưa về. Hú hồn, hú vía, cảm ơn Trời Phật, nếu bọn nó mà bắt gặp tôi và Minh ngồi chung xe xích lô thì tôi sẽ khổ với hai con mỏng môi dài lưỡi đó dài dài.
Minh bước ra khỏi xe, đưa bàn tay cho tôi nắm, mắt nhìn tôi như hối thúc “nắm đi, để bước xuống xe cho vững”. Tôi ngại ngùng đưa tay nắm, nhưng buông ngay khi vừa bước xuống, và toan mở bóp trả tiền thêm cho ông xích lô, thì Minh ngăn:
– Để ông đưa anh về nhà, anh sẽ trả luôn. Vào thay đồ rồi đi ngủ, coi chừng bị cảm lạnh.
Rồi mắt anh long lanh, giọng mềm như làn gió thoảng:
– Cảm ơn Nhạn cho anh ngồi chung xe. Thôi anh về. Chúc Nhạn ngủ ngon.
Tôi chẳng thèm nhìn mặt Minh, cũng chẳng trả lời, bỏ đi vào nhà. Tôi thấy Minh đáng ghét, và tôi giận luôn cả chính mình. Tôi không biết lý do gì mà tôi có cái tình cảm lạ lùng, phức tạp như vậy!
Đồng hồ báo thức, tôi thấy dã dượi, uể oải, khô cổ, miệng đắng và trán hâm hấp nóng. Tôi muốn nằm thêm một hồi nữa, nhưng lòng bảo lòng phải ngồi dậy, nếu nằm thêm nữa thì sẽ ngã bịnh luôn.
Theo thói quen hàng ngày, khi chuông đồng hồ reo báo thức, tôi ngồi dậy, rồi xuống bếp múc nước đổ vào ấm đốt rề-sô để đun. Khi tôi đánh răng xong thì nước cũng vừa sôi. Tôi múc sữa hộp vào ly và pha cà-phê phin. Cà-phê nhỏ xuống từng giọt, từng giọt, mùi cà-phê bay tỏa khắp nhà. Tôi đi thay quần áo, chải tóc, uống hết ly cà-phê là cuốc bộ đến sở làm. Hôm nay, cà-phê pha xong, tôi ngần ngừ không muốn uống, lấy nắp đậy lại, xách giỏ đi làm.
Đến sở, tôi nghe người ngợm lửng thửng, lười biếng làm sao, nhưng tôi lờ đi, không uống thuốc men chi cả. Đó là cái bịnh gần như của hầu hết các người làm y tá. Y tá chích thuốc, và dặn bịnh nhân phải uống thuốc đúng liều lượng, uống đều đặn, còn mình thì không bao giờ chịu uống thuốc hoặc chích thuốc, chỉ trừ trường hợp bất khả kháng. Tôi vẫn làm việc, và cố cầm cự cho đến hơn mười giờ, thì gọi bà y công xách thùng cùng tôi đi lãnh thuốc ở phòng y dược trên lầu, để về phát cho bịnh nhân. Vừa đến chân cầu thang, tôi thấy cảnh vật chung quanh như xoay mòng mòng.
– Cô Nhạn! Tuyết Nhạn! Tuyết Nhạn!
Ai gọi thức? Tôi mở mắt ra, thấy bác sĩ Hương, bác sĩ giám đốc bịnh viện, và nhiều người làm chung. Lấy làm lạ, tôi định ngồi dậy, Bác sĩ Hương ngăn:
– Cô vừa mới tỉnh, hãy nằm nghĩ dưỡng sức đi.
Bác sĩ giám đốc nhìn tôi, cười hiền:
– Cô là y tá mà để thiếu dinh dưỡng. Bác sĩ Hương đã ra toa thuốc cho cô, từ rày cô phải biết làm sao rồi chớ? Thôi hãy nằm dưỡng bịnh vài hôm và giữ gìn sức khỏe nhé.
Bác sĩ Hương và bác sĩ giám đốc vừa ra khỏi phòng. Mấy nhỏ bạn tôi đứng sau họ cùng ùa tới, tíu tít hỏi han đủ thứ. Nào là tại sao mầy bịnh? Hôm qua mầy ăn gì? Chiều hôm qua mưa lớn quá mầy có bị mắc mưa không? Mầy ốm tong teo, nhớ ăn uống thêm cho khỏe nghe Nhạn, nhứt là phải uống thuốc nhe, không thể lơ là được v.v…
Mọi người thăm hỏi một hồi thì ai trở về phòng nấy làm việc. Tiếng gõ nhẹ, cánh cửa bật mở, bà y công bưng cháo và nước vào cho tôi. Theo sau bà ta là chị Diệu Tâm và bà Nhứt (Sơ trưởng, trong các Sơ ở đây) cũng đến thăm. Khi hai người kia đi rồi, chị Diệu Tâm nói với tôi:
– Tối qua, Minh về áo quần cũng ướt nhem. Sáng sớm trước khi đi dạy, nó ho và nhảy mũi quá chừng, không biết có bị bịnh không nữa? ž, Nhạn có cần gì không? Cứ tự nhiên, chị sẽ giúp cho, đừng ngại gì cả.
Tôi bảo:
– Cảm ơn chị, chắc là không gì quan trọng đâu. Chút nữa chị có đi ngang phòng làm việc của Vân Anh hay Ánh Ngọc, đứa nào cũng được, chị bảo với tụi nó rằng khi về nhớ ghé qua đây dùm em, em nhờ tụi nó lấy vài món đồ cần dùng ở nhà và mấy bộ đồ ngủ thôi.
Tôi và chị Diệu Tâm đang nói chuyện thì Tuyết Oanh đẩy cửa bước vào. Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao em biết chị bịnh mà về mau như vậy? Bộ có ai điện thoại cho em à?
Tuyết Oanh có vẻ lo lắng:
– Chị khỏe chưa? Bác sĩ nói sao? Bịnh gì? Em về thăm ba má, ghé qua nhà chị ở lấy chút đồ đạc mà kỳ rồi về thăm em lại bỏ quên, mới hay chị bị xỉu hồi sáng nầy. Chị có cần gì, em đi mua?
– Không cần đâu, có đủ cả rồi.
Chị Diệu Tâm đứng lên từ giã tôi và Tuyết Oanh và bảo chiều rước Chim Bồ Câu về sẽ dẫn cháu đến thăm. Trước khi chị đi, sực nhớ tôi vội bảo:
– Thôi, chị đừng gọi Ánh Ngọc hay Vân Anh, em nhờ Tuyết Oanh lấy đồ đạc cho em được rồi.
Chị Diệu Tâm gật đầu, rồi bước ra khỏi phòng. Tôi đưa chìa khóa nhà cho Tuyết Oanh, bảo nó về lấy những thứ cần dùng cho tôi. Chiều, gần đến giờ chuyến xe cuối về Cái Bè, tôi bảo Tuyết Oanh về thăm ba má tôi . Con nhỏ không bằng lòng, vì không muốn để tôi ở lại một mình. Tôi phải nói đủ thứ để nó yên lòng mà chịu đi. Và tôi dặn đừng nói với ba má bất ngờ tôi bị bịnh, để ông bà khỏi phải lo. Giờ thì tôi cảm thấy khỏe lắm rồi. Trước và sau giờ làm việc, gần như nhân viên làm ở bịnh viện đều ghé thăm tôi. Bịnh không làm tôi mệt nhiều, nhưng tiếp người thăm bịnh làm tôi mệt hơn.
Sáng sớm hôm sau, ba má tôi và Tuyết Oanh đến thăm. Tôi trừng mặt với con nhỏ, có ý trách nó, tại sao cho ba má biết. Nó cười hì hì, rồi bảo:
– Làm sao em giấu ba má là chị bịnh được? Vì đó là bổn phận và trách nhiệm ba má phải lo mà. Có phải không ba má?
Má tôi gạt ngang:
– Con nhỏ nầy lộn xộn quá! Sao Nhạn, con có khỏe không? Bác sĩ có nói con bịnh gì không?
Rồi bà nhìn tôi rưng rưng, nói tiếp;
– Chỉ mấy ngày thôi mà con ốm nhom. Thật tội nghiệp cho con tôi quá!
Ba bước lại sờ trán tôi rồi nói:
– Không còn nóng nữa, con có dầm mưa không? Ốm yếu như vầy thì dễ bị bịnh. Bác sĩ có nói con bịnh gì không?
– Thưa ba má, bác sĩ nói con bị cảm cúm thường thôi, phải ăn uống nghỉ ngơi thì vài hôm sẽ khỏi. Ba má coi, không phải con khỏe lắm rồi sao?
Trên nét mặt ba má tôi không còn âu lo như lúc mới bước vào. Má tôi cười hiền lành:
– Ngồi trên xe mà má cứ tưởng như mình ngồi trên bàn chông, trong lòng nóng như lửa đốt. Xe chạy vùn vụt má cứ thấy chậm rì. Bây giờ thấy con tươi tỉnh, má thiệt an lòng. Chiều tối hôm qua, má sai con Bảy vào nhờ cậu Tám bây ra coi cho mối lái hái xoài.
Tôi nhỏ giọng tiếp lời má:
– Con đã nói với Tuyết Oanh, mà nó có nghe lời đâu. Con nhỏ nầy lanh chanh làm cho ba má lo.
Ba tôi cười:
– Con không có gì thì tốt rồi. Vậy má con mới chịu rời nhà để bả dạo chợ Mỹ Tho. Công việc nhà thì quanh năm suốt tháng, có hết đâu mà bả lo quá!
Má tôi cười:
– Ông thì sung sướng quen rồi, còn tôi thì chừng nào xuôi tay mới hết cực.Tại cái số mà. Không làm lụng thì tôi sẽ bị bịnh đó ông ơi!
Khi ba tôi còn dạy học ở tỉnh thành, má tôi lúc nào cũng mặc bộ đồ lụa màu trắng, hoặc màu mỡ gà. Bây giờ ba tôi về hưu, sống ở thôn quê, má tôi ở nhà luôn mặc áo túi trắng, hay áo túi màu nâu màu xám, và mặc quần lãnh đen. Đi đâu thì bà mặc thêm bên ngoài chiếc áo bà ba bằng the đen hoặc áo mình the bông nhung ép màu nâu sậm. Hôm nay đến thăm con gái làm việc trong bịnh viện lớn ở tỉnh, nên bà trang trọng, mặc chiếc áo dài lụa lèo màu kem, đầu đội khăn có in hoa màu xám lục, quần mỹ a, chân mang dép da. Vóc dáng má tôi vừa phải, không mập ú, cũng không ốm teo. Tóc bà đen có lấm tấm bạc, được bới đầu lèo quấn qua quấn lại mấy vòng quanh ót. Mắt bà mang kiếng lão nên trông má tôi như một cô giáo già ở thành thị hơn là bà đứng tuổi ở nhà quê. Bỗng má tôi nói:
– Ông à, con Nhạn đỡ nhiều rồi, chút nữa con Tuyết Oanh phải về Sàigòn, còn tôi cũng về nhà. Ông ở lại chơi với con mấy ngày. Chớ giao nhà cho cậu Tám nó, tôi không yên tâm chút nào.
Ba tôi lắc đầu cười:
– Bà thì lúc nào cũng vậy. Đi thăm con, ngồi chưa nóng ghế thì muốn về.
Có tiếng gõ nhẹ, Tuyết Oanh nhanh nhẹn lại mở cửa. Minh bước vào, chào ba má tôi, chào Tuyết Oanh, rồi nói với tôi.
– Chị Diệu Tâm nhờ đem cháo cho Nhạn, Nhạn đỡ chưa?
Tôi ngồi dậy, sửa lại mái tóc rồi giới thiệu:
– Cảm ơn anh, đỡ nhiều rồi. Thưa ba má, đây là anh Minh em họ chị Diệu Tâm. Chị Tâm làm chung sở với con. Anh Minh, đây là ba má Nhạn, và Tuyết Oanh em gái kế.
Minh cúi đầu chào mọi người lần nữa. Hôm nay Minh mặc áo ngắn tay màu gạch cua như vôi ăn trầu, quần màu bao giấy dầu. Màu mè y phục thì cũng thường thôi, hai màu nầy đi chung với nhau trông hay đáo để.
Cô em Tuyết Nga của tôi ưa thanh niên ăn mặc quần đậm, áo lợt. Nhỏ bảo là: “Màu hôn màu, màu cưới màu, màu hiệp cẩn màu, màu giao hợp với màu”. Chèn ơi, cô út gia đình tôi giàu ngôn từ để ca tụng quần đậm áo lợt của đàn ông nên tôi cũng bị nó đầu độc. Cho nên hôm nay Minh ăn mặc như vậy, tôi thấy chàng trẻ trung, sáng mát thêm ra.
Con nhỏ Tuyết Oanh đứng dựa tường, miệng cười chúm chím và nheo mắt ngầm trách với tôi “Ờ, vậy mà dấu há!”. Ba tôi thân thiện bắt tay Minh, mời:
– Ngồi đi cháu, cứ tự nhiên. Cháu cùng nghề và chung sở với Tuyết Nhạn hả?
Minh cười cười, lắc đầu:
– Dạ thưa không bác, cháu dạy học ở Bến Tre.
Đến xế chiều thì má tôi và Tuyết Oanh ra về. Ba tôi nói chuyện huyên thiên với Minh. Cả hai có vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Hai người hình như đã quên mình đến đây để thăm bịnh. Vì muốn để tôi yên tịnh, hai người ra đứng ngoài hành lang, một già, một trẻ nói chuyện tiếp. Suốt hai ngày cuối tuần, ba tôi được Minh làm tài xế riêng và phục vụ chu đáo hơn người bịnh nầy nhiều. Minh đưa ông đi ăn, đưa về nhà trọ, đưa vào thăm tôi… Bởi đó, lúc nào ba tôi đến thì Minh theo đến. Anh xách một bịch vừa chất lên bàn, sát đầu giường tôi vừa nói:
– Bác nói Nhạn kén ăn, và thích ăn vặt nhiều hơn ăn thịt cá, nên ốm nhom. Những bánh kẹo nầy Nhạn thích nên bác mua đó.
Tôi cười và nhăn mặt nhìn ba tôi:
– Ba à, sao ba nói xấu con gái mình trước kẻ lạ vậy?
Ba tôi cũng cười hỏi lại:
– Cháu Minh bộ cũng lạ với con sao?
Tôi ngập ngừng, trong khi Minh mỉm cười, mắt sáng long lanh chờ câu trả lời của tôi. Tôi nhỏ giọng:
– Dạ, cũng lạ!
Minh như muốn nói điều gì, rồi lại thôi. Miệng mỉm cười nhẹ, mắt mơ màng nhìn cây phượng hoa nở hồng ngoài cửa sổ.
Ba tôi trở về nhà chiều chủ nhật, tôi cũng xuất viện sáng thứ hai, được phép nghỉ thêm ba ngày dưỡng sức. Bác sĩ giám đốc nói nếu tôi muốn nghỉ thêm thì cho y tá trưởng biết, khỏi cần phải gặp ông. Hổm rày nằm trên giường bịnh thấy cái giường là tôi muốn bịnh thêm rồi, cho nên đúng ngày hết phép là tôi đi làm trở lại.
Minh dạy ở Bến Tre ba ngày đầu tuần, những ngày còn lại thì dạy ở các trường tư thục trong thành phố Mỹ Tho. Sau lần tôi bất ngờ ngã bịnh đó, gần như những ngày ở Mỹ Tho, Minh đều đến thăm tôi. Anh chàng viện đủ mọi lý do. Nào là cuốn sách nầy hay, trái cây vườn nầy ngon, bánh trái nầy bác trai nói Nhạn ưa thích… Trong những lần gặp gỡ như vậy, chúng tôi đi ăn, đi tản bộ, hoặc ngồi trước nhà tôi kể lể những chuyện vui buồn lúc còn đi học.
Rồi có một hôm, Minh rủ tôi đi Chợ Bưng chơi. Anh nói:
– Tuyết Nhạn lên vùng đó sẽ thích lắm, lại gần Tết, có nhiều loại hoa đua nở, nhứt là hoa mai. Lại còn có nhiều trái cây đầu mùa. Bà nội anh tức là bà ngoại của chị Diệu Tâm ở đó, anh muốn về thăm bà trước ngày Tết. Cuối tuần nầy mình đi nghe Nhạn, có được không?
Tôi nghĩ thầm. Nội anh, thì mắc mớ gì tôi, mà tôi phải đi thăm? Nên tôi trả lời không sốt sắng:
– Để coi. Cuối tuần nầy hả? Chắc là Nhạn bận.
Minh nài nỉ:
– Tuần rồi Nhạn trực, tuần nầy cũng không về quê thì đâu có bận gì? Đi nghe Nhạn. Bà nội anh thấy Nhạn sẽ vui lắm. Bà già rồi, ở với đứa cháu nội gái mười hai tuổi, con của chú anh, cho nên nhà vắng vẻ. Có khách đến thì bà mừng lắm, vì có người để bà hỏi han, nói chuyện và trổ tài nấu ăn.
Tôi hay cảm động với hoàn cảnh cô đơn của bất cứ người già nào, nên nhận lời đi với Minh. Tôi nửa đùa, nửa thật hỏi:
– Anh đã đưa bao nhiêu người khách con gái về thăm bà nội anh rồi?
Minh cười, nhìn sâu vào mắt tôi như dò xét:
– Anh đã đưa hai cô về rồi! Đó là mẹ con chị Diệu Tâm, giờ thì đến cô nàng Tuyết Nhạn. Nhạn biết không? Bà nội anh khó tánh lắm, anh mà lạng quạng bà sẽ đập cho què giò.
Tôi cười hỏi tiếp:
– Vậy Nhạn đến đó, bà đập không trúng anh, mà trúng Nhạn rủi Nhạn què giò thì sao? Thôi, Nhạn không đi đâu.
Minh cười, xua tay:
– Không đâu, không đâu, đi với Nhạn chắc chắn bà không đập anh đâu.
– Có thật không đó? Vậy mình đi bằng cách nào đây?
Minh vui vẻ trả lời:
– Mình không đi bằng Quốc lộ Bốn vì có nhiều xe cộ và nắng lắm. Đi bằng đường vườn, qua chợ Vòng Nhỏ, chạy thẳng lên hoài thì tới. Đường đấp đất, hễ gặp trời mưa thì mình phải vác xe.
Tôi mở to mắt, ngạc nhiên hỏi:
– Xe lam, xe tàu mo không chạy được sao?
– Được, nhưng ở lộ lớn, còn lộ tẽ vào làng chỉ có xe đạp mới đi được thôi.
– Vậy có xa lắm không?
– Không xa lắm.
– Sao không đi xe lam? Rồi khúc nào không đi xe được thì mình đi bộ.
– Không được tiện, vì phải chờ đợi xe lam, lâu lắm mới có một chiếc, nhiều khi đầy khách rồi, họ chạy luôn không ngừng. Đi xe gắn máy càng ngại hơn, vì gặp trời mưa anh sẽ cõng xe không nổi. Chỉ có xe đạp là tiện đủ mọi bề.
Hiểu ý Minh, tôi nói:
– À, thì đi xe nào cũng được. Nhưng Nhạn không có xe đạp. Nếu có, Nhạn cũng ít khi dùng đến, cho nên mỗi lần lên xe đạp là Nhạn hay té lên té xuống.
Minh cười:
– Anh cũng không có xe đạp, nhưng anh sẽ mượn được một chiếc của người bạn thân. Anh sẽ chở Nhạn đi.
Tôi ngần ngừ định nói, thì Minh nói tiếp:
– Yên ngồi của người đạp xe, và chỗ boọc-ba-ga dành chở người ở phía sau cách nhau một khoảng nhỏ và thấp hơn một bậc. Người ngồi ở phía sau không cần ôm eo ếch người đạp xe, chỉ nắm cái yên, như vậy ngồi vững mà lại không có bị đụng chạm. Vậy thì Nhạn còn ngại gì? Anh có ăn thịt ăn cá Nhạn đâu mà Nhạn sợ dữ vậy?
Tôi chẳng nói gì, và biết được Minh hiểu tâm ý của mình. Tôi cảm thấy mắc cỡ, nên cúi đầu.
Sáng hôm đó, trời quang mây tạnh. Minh đến đón tôi bằng chiếc xe đạp đàn bà, mượn của người bạn đồng nghiệp. Tôi mặc quần sa-teng đen rô-đê dưới lai. Áo bà ba tím thẫm màu trái vú sữa, cổ viền tròn và có thêu hai bên ngực áo, Tôi đội nón bài thơ mà hôm Minh đi gác thi ở Huế đem về tặng. Tóc tôi kẹp gọn bằng chiếc kẹp ba lá, chân mang dép da đen. Minh nhìn tôi, mỉm cười khen:
– Hôm nay Nhạn như một cô gái quê thật đẹp.
Tôi không trả lời, lên ngồi phía sau xe để Minh chở đi. Qua chợ Vòng Nhỏ một quãng đường xa, thì Minh rẽ vào con đường nhỏ đất sét, sạch sẽ, mát rượi nhờ có nhiều cây cao che bóng rậm trồng hai bên đường. Tôi nghĩ đường nầy mà trời đổ một đám mưa lớn thì lầy lội, nhớp nháp.
Nhà nhỏ của bà nội Minh nằm trên hai công đất lập vườn có trồng nhiều cây ăn trái. Có lẽ những cây nầy mới trồng không được bao lâu. Chỉ có vài cây ở cuối vườn như cây sầu riêng, cây xoài voi và vài ba cây dừa lão.
Bà nội Minh tuổi ngoài sáu mươi, khỏe mạnh, ăn nói giòn giã, vui vẻ và không khó tánh như tôi tưởng qua vài lần Minh nhắc về bà. Chúng tôi gặp bà ngoài sân nhà. Bà đang cắt mấy tàu lá chuối khô mềm rũ rồi thảy xuống mương độn. Từ một khoảng xa biết có người quẹo vào nhà, nhưng chưa thấy rõ là ai, nên bà che tay trên chân mày cho ánh mặt trời khỏi chói, nheo nheo mắt để nhìn rõ hơn. Đi gần đến, Minh chào trước rồi giới thiệu:
– Nội à, cháu là Minh nè. Nội có khỏe không? Và đây là cô Tuyết Nhạn, bạn của chị Diệu Tâm. Biết con về thăm bà, cổ cũng muốn đi theo, vì nghe bà nấu đồ ăn vừa ngon vừa khéo.
Minh quay lại nhìn tôi cười nheo mắt. Anh biết rằng có bà anh, tôi không dám trả treo:
– Tuyết Nhạn, đây là bà nội hiền lành, bà nội thần thánh của anh.
Tôi lườm Minh rồi lễ phép chào bà cụ:
– Dạ, cháu xin chào bà. Thưa bà, theo lẽ chị Diệu Tâm và con gái chị cũng cùng về thăm bà, nhưng hôm nay chị trực nên không về được. Chị nhờ cháu thưa lại với bà hôm khác chị sẽ về thăm. Và đây là bánh trà, anh Minh mua bảo cháu tặng bà.
Minh chới với trước câu trả đũa bén nhọn của tôi. Anh nhìn tôi cười trừ. Bà cụ cầm gói quà, cười vui vẻ như nói một mình:
– Thằng Minh có đối thủ rồi! Đứa nào mua cũng được, nhưng người mang quà đến vẫn có công hơn. Hai cháu về bất ngờ, nên bà không có cụ bị sẵn đồ ăn. Hay để bà bắt gà nấu cháo?
Minh nhìn tôi ngầm hỏi ý kiến. Tôi nhẹ lắc đầu. Minh quay qua bà cụ nói:
– Thôi nội à, mất công lắm. Ăn đơn sơ được rồi. Bộ bà không có chuyện gì để nói với cô Tuyết Nhạn nầy sao? Con nghĩ cổ rất thích nghe bà kể chuyện đó.
Tôi tức muốn chết, lầm bầm rủa trong bụng: “Thật là đồ mắc toi, lại muốn giở trò gì nữa đây?”. Tôi hơi lấy làm lạ, hình như bà nội Minh biết ít nhiều về tôi rồi, nên bà nói gì với tôi cũng rất tự nhiên và thân mến. Bỗng bà nói với Minh:
– Cháu dẫn cô Nhạn ra sau vườn tìm trái cây chín mà ăn, mấy cây gần nhà, con Bé Hai (tên con của người chú Minh đang sống với bà) nó ăn hết sạch rồi.
Tôi còn hờn Minh chọc ghẹo tôi, nên nói với bà:
– Thưa bà, để cháu phụ bà nấu cơm. Cháu không đi hái trái cây đâu.
Bà đẩy vào tay tôi chiếc rổ nhỏ, nói:
– Cháu nên đi ra ngoài hái trái, mấy cây ổi sẻ trái chín vàng và sai trái lắm. Đi hái dùm bà đi, trong bếp nhỏ không có chỗ cho nhiều người, để mình bà làm, có cháu sẽ làm vướng tay, vướng chân bà. Thôi đi đi cháu.
Tôi lấy rổ theo sau Minh mà trong lòng còn ấm ức lắm. Minh thấy mặt tôi bí xị càng cười già. Thấy ghét quá, nên tôi hỏi:
– Bộ mặt tôi dính lọ sao anh cười hoài vậy?
Minh chưa kịp trả lời thì tôi bỏ đi nơi khác và lầm bầm: ’’Vô duyên!’’. Minh hái ổi, leo lên cháng ba để hái chùm mận chín trên cao chót vót. Hái xong chùm mận thì anh bị bụi rơi vào mắt, nên vừa bước xuống đất, anh réo tôi:
– Anh bị bụi rơi vào mắt rồi, nên không thấy đường. Nhạn ơi, đến thổi bụi dùm anh đi.
Tôi vẫn còn hờn trong lòng nên nín thinh không thèm trả lời. Minh gọi tiếp có vẻ khẩn khoản hơn:
– Nhức mắt quá! Nhức mắt quá, lại đây đi Nhạn.
Tôi trả lời vặt một:
– Không lại! Ai biết anh sẽ giở trò gì nữa đây?
Minh rên rỉ ai oán lắm:
– Muốn đui con mắt rồi đây nè, còn giở trò gì nữa? Làm ơn lại giúp anh mau lên.
Tôi bước lại, tay anh vẫn giữ chặt mắt bị bụi rơi vào. Tôi giở mí mắt anh thấy bên trong có chấm bụi đen rất nhỏ. Tôi nói:
– Anh cứ giữ như vậy, đừng chà mắt. Trong nhà có bông gòn không?
Minh trả lời:
– Có, hỏi bà nội anh, bà sẽ chỉ cho Nhạn.
Tôi đi lẹ vô nhà, mang bông gòn ra chặm vào mắt anh bị dính bụi, hạt bụi nằm trên miếng gòn trắng nõn. Tôi nói:
– Đâu, anh nháy mắt coi còn xốn nữa không?
Minh chớp chớp mắt, cười nói:
– Hết rồi, cảm ơn cô y tá.
Tôi háy Minh, mắt có đuôi:
– Đáng đời cho mấy người có miệng bép xép hay chọc quê người ta.
– Xin lỗi nhe, đừng giận anh nữa. Anh chỉ giỡn thôi mà.
Trong rổ nào mận, nào ổi gần đầy. Tôi đi trước, Minh vác lồng theo sau. Bỗng tôi trợt vũng sình chúi nhủi muốn té. Minh chụp tay tôi kéo lại, tôi lí nhí trong miệng cảm ơn thì nghe tiếng bà nội của Minh gọi vào ăn cơm. Trên mâm cơm chỉ có hai cái chén và hai đôi đũa. Minh hỏi:
– Sao chỉ có hai cái chén vậy nội?
– Bà ăn rồi, hai cháu ăn đi.
Quay sang tôi bà nói;
– Cháu Nhạn tự nhiên nghe, cơm canh đạm bạc ở miệt vườn, lần sau có đến chơi, nhớ nói với Minh cho bà biết trước, bà sẽ làm nhiều món hơn.
Tôi dạ nhỏ cảm ơn bà. Trên mâm cơm có dĩa tôm kho tàu, dĩa bầu xào tôm khô, tô canh chua chuối cây nấu với khô cá lăng phồng, có nhiều ớt, ngò gai rắc trên mặt. Không biết có phải lúc nãy ăn nhiều trái cây nên tôi đã đói bụng, hay đồ ăn bà nấu vừa miệng tôi ăn rất ngon, chiếu cố nhiệt tình từng món.
Ngoại và má tôi nấu ăn ngon nổi tiếng ở làng tôi. Nhưng ở đây bà nội của Minh chỉ nấu canh chua cá lăng phồng sao mà ngon quá! Nói nấu với cá khô, chớ thật sự tôi không thấy miếng cá khô nào hết. Cá khô đã rã lẫn vào chuối. Xương thì bà vớt ra quăng đâu mất hết rồi. Trong tô chỉ còn nước canh trắng đục như màu cà-phê sữa lợt, mùi thơm của khô, mùi nồng nàn của ngò gai, lá quế, rau cần nước xắt nhuyễn, quyện mùi nồng cay của ớt, mùi ngọt chua của con mẻ. Tôi ăn ngon hơn ăn bữa giỗ. Ăn xong, tôi bưng tô chén ra sàn lãn để rửa. Minh đi theo, múc nước đổ vào thau cho tôi, thì bà nội chàng bước ra nói:
– Minh vào nấu nước pha cho bà bình trà. Để bà múc nước cho.
Minh đi khuất sau tấm vách thì bà hỏi tôi:
– Ba má cháu có khỏe không? Ổng bả ở đâu? Cháu được mấy chị em?
Tôi nhỏ nhẹ trả lời:
– Thưa cảm ơn bà, ba má cháu vẫn khỏe, đang lập nghiệp ở Cái Bè. Cháu có hai chị đã có gia đình và hai cô em gái còn đang đi học. Cháu không có anh em trai.
Bà nội Minh khen:
– Tốt quá, vậy là ngũ long công chúa. Sau nầy năm cô gái chắc chắn sẽ quyền quý cao sang.
Rồi bà bắt đầu khen cháu Minh của bà:
– Cháu biết không? Thằng Minh hiền lành, hiếu học mà lại hiếu thảo. Mấy công đất nầy là của nó mua cho bà ở dưỡng già và nó cũng dễ đi thăm lom bà. Còn chú nó ở vùng xôi đậu nên không được bình yên. Tội nghiệp, nó cực khổ từ nhỏ vì cha mẹ mất sớm!
Nói đến đây bà mủi lòng, lấy khăn lau nước mắt. Tôi cũng thấy se lòng. Bà nói tiếp:
– Sau nầy cô nào gặp nó sẽ có phước. Nó rất kiên nhẫn và biết lo lường đủ mọi thứ…
Chiều hôm đó, tôi và Minh trở về Mỹ Tho. Lúc đưa chúng tôi ra ngã ba lộ tẽ, bà tỏ vẻ quyến luyến tôi lắm và ân cần căn dặn hôm nào rảnh nhớ lên thăm bà.
Tôi trở về nhà trọ thì Vân Anh đi chơi với kép chưa về, còn Ánh Ngọc nằm thiêm thiếp trên giường rên rỉ:
– Tao đi chơi với bồ tao ở Ngã Ba Trung Lương. Ảnh ép tao ăn hột vịt lộn và bò viên nhiều quá, nên tao bị no hơi sình bụng đây.
Tôi chọc quê, giữ mặt nghiêm trợn mắt:
– Mầy sình bụng hả? Vậy thì nguy rồi!
Ánh Ngọc tru tréo:
– Đồ cà chớn! Tao nói một đàng, bởi cái đầu óc dơ dáy mầy nghĩ một nẻo.
Tôi cười ha hả:
– Tao có nghĩ gì đâu? Tao chỉ hỏi có một câu mà mắc mớ chi mầy dãy đành đạch? Bộ bị đạp trúng đuôi rồi sao mà mầy mắng tao tưới hột sen vậy?
Vân Anh cũng vừa về tới, tay xách bóp đầm õng ẹo bước vào nhà, véo von:
– Con nầy đi chơi với kép, rồi rủ nhau qua rạp Viễn Trường bên Chợ Cũ coi phim “Tinh Võ Môn”. Xong, cả hai đi ăn bún nem nướng và uống sinh tố.
Ánh Ngọc cười:
– Đi coi “Tinh Võ Môn” rồi ăn bún, uống sinh tố, bảnh quá hén? Rồi sao nữa?
Vân Anh háy:
– Rồi ai về nhà nầy chớ còn sao nữa?
Ánh Ngọc chọc quê:
– Tao không ti!.
Tôi cũng hùa theo:
– Tao cũng không tin!
Vân Anh dậm chân nhăn mặt, rít lên:
– Kệ tụi bây, tao đi tắm đây! Chốc nữa tao ra, tụi bây phải kể chuyện đi chơi với kép cho tao nghe. Rồi tao sẽ thuật chuyện mùi mẫn của tao cho tụi bây… rút kinh nghiệm.
Ánh Ngọc ra điều kiện:
– Mầy phải kể cho tao và Tuyết Nhạn nghe trước. Bởi tụi tao đã mắc mưu và bị mầy gạt nhiều phen rồi.
Vân Anh cười vang như tiếng vỡ của thủy tinh trước khi nhỏ ta bước vào phòng tắm. Ánh Ngọc bỗng nhìn tôi dịu dàng bảo:
– Trong ba đứa tụi mình, đứa nào cũng có bồ bịch. Từ chỗ bồ bịch tới chỗ vợ chồng coi bộ không biết có được suông sẻ không? Tao vái trời bồ của đứa nào thì trở thành chồng của đứa đó.
Tôi thông cảm lòng tốt của bạn, bảo:
– Tao cũng vái như vậy.
Bỗng Ánh Ngọc trở quẻ:
– Nhưng khi còn là bồ bịch với nhau thì tao thấy cuộc đời thơ mộng. Tới lúc thành chồng vợ với nhau, thời thơ mộng kể như chấm dứt.
Tôi háy dài:
– Nhiều chuyện! Chuyện thơ mộng nếu kéo dài quá cũng trở thành nhàm chán. Đã là vợ chồng rồi thì sẽ sanh con đẻ cái. Thời gian chung sống với nhau dài, dài lắm! Còn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Vì tương lai của con cái, vợ chồng có hiềm khắc chi chăng nữa, dù không còn tình cũng còn nghĩa với nhau, mà đùm bọc con cái, giữ gìn mái ấm gia đình. Nghĩa bền bĩ hơn tình mầy ơi!
Vân Anh từ phòng tắm bước ra, ong óng cái miệng xen vào:
– Ai nói với mầy nghĩa bền hơn tình vậy? Mầy đặt chuyện hay là mầy học ở sách nào? Đâu, đâu mầy cắt nghĩa cho tao nghe coi? Tao ngu quá, ngu vô cùng vô tận, chẳng biết tình khác nghĩa ra làm sao?
Tôi quê quá, nguýt con bạn chanh chua:
– Mầy hỏi thằng kép đen thui như cột nhà cháy của mầy thì sẽ rõ. Mầy bầm dập với nó một phen rồi, hai đứa bây đã có nhiều kinh nghiệm về tình cảm lứa đôi lắm. Đừng giả đò ngu để chọc quê tao nghe mậy! Tao mà nổi sùng, thì sẽ không thèm đi dự đám cưới của mầy. Đừng nói chi bổn cô nương sẽ làm phù dâu!
Chương 9
Cuối tuần sau, tôi nhận được thư của Tuyết Nga. Nhỏ khoe với tôi có đi tiệm Hảo Sen trong Chợ Lớn để ăn chè táo soạn, thì gặp Thu Trinh và Thúy Hiền. Hai con nha đầu nầy khoe với Tuyết Nga là vừa nhận được thư và ảnh của tôi. Thúy Hiền khen tôi đẹp và ăn ảnh, thì Thu Trinh hạ một câu như sét nổ: “Trông ảnh con Tuyết Nhạn, tao thấy cái mặt muốn chồng của nó không giống ai”. Nhỏ Tuyết Nga trước khi chấm dứt bức thư còn hỏi gặn: “Nghe nói ông thầy đồ nào ở Bến Tre đang mở chiến dịch săn lùng trái tim của chị, chẳng biết hình bóng anh ta té sâu vào giếng mắt chị chưa? Có hiện lên võng mô ở mắt chị chưa? Trái tim chị có nhảy yé yé hay nhảy disco? Cho em biết với!”.
Con Vân Anh đi ăn chè “xí xọn” với kép về nhà “xí xọn” với tôi, làm tôi mệt cầm canh. Rồi mới đây, ba ả Thu Trinh, Thúy Hiền, Tuyết Nga gặp nhau trong tiệm chè “xí xọn”, xúm lại với nhau để nói hành nói tỏi tôi. Con Tuyết Nga hỏi tôi chuyện trặc trẹo thì làm sao tôi trả lời? Lại còn con quỉ ác ôn Thu Trinh nữa! Mặt tôi chụp trong ảnh có vẻ mơ mộng bâng khuâng, đáng cho anh chàng Minh làm thơ ca ngợi, vậy mà nó đổ hô đó là cái mặt muốn chồng. Hứ, cái mặt muốn chồng là mặt thế nào? Sao mà nó không chịu giải thích, cứ la hoảng lên để con em lanh chanh lách chách của tôi nhạo báng tôi.
Miệng thì nói vậy! Tuy nhiên, ngày nào tôi cũng nghĩ về Minh không ngớt.
Rồi chúa nhựt lại đến. Minh rủ tôi đi thăm bà nội của chàng. Lần nầy thì tôi đi mua trà bánh để tặng bà. Vì được Minh báo trước, nên bà làm bữa cơm bình dân nhưng rất tươm tất. Bà đón cá từ biển Gò Công mỗi sáng chở qua bán ở chợ Mỹ Tho: Cá khoai nấu ngót với cà chua và rau cần, cá đường chiên vàng dầm nước mắn tỏi, cá thu kho riềng theo kiểu người Bắc. Cá kèo nướng, lấy thịt bỏ xương trộn với nước mắm, rau răm, chanh, ớt, rau càng cua bóp sổi. Những món nầy xem tầm thường, nhưng ăn bắt miệng vô cùng. Đồ ăn đã khá bộn mà bà còn làm thêm món giá hủ tíu xào với tôm và thịt ba chỉ.
Khi tráng miệng, bà đem ra món chuối chưng với bột bán và nước cốt dừa. Ăn xong vài miếng, tôi buột miệng khen:
– Béo quá! Bà chưng chuối thật ngon.
Bà nội Minh đắc ý:
– Nước cốt dừa nầy, bà chỉ dùng nước cốt chớ không dùng nước giảo, cho nên nó mới đặc sền sệt. Lại nữa, khi nấu bà dùng nồi đất mỏng vỏ chớ không dùng soong nhôm, nên trái chuối được om chín từ trong ruột ra ngoài.
Vào buổi trưa, lác đác trong thôn xóm có tiếng gà gáy, tiếng heo kêu eng éc đòi ăn, tiếng cục tác của con gà mái mới đẻ trứng, tiếng tre chuyển mình kẽo kẹt ngoài bờ ao. Bà nội Minh miệng nhai trầu, ngồi sau mấy chiếc tàu cau vót chổi. Tôi ngồi trên chiếc võng đưa qua đưa lại, tay ve vuốt con mèo tam thể nằm sát bên đùi tôi. Minh mặc quần xà lỏn, áo ngắn tay dính đầy mủ cây, đầu đội nón lá rách, ra mương gần nhà, xuống gỡ lá cây vướng quanh miệng ống bọng để khai thông đường nước. Bà nội Minh có vẻ buồn, chép miệng bảo tôi:
– Ông bà nội thương yêu thằng cháu đích tôn còn hơn thằng trưởng nam của mình. Khi ba thằng Minh bị Việt Cộng ám sát, bà tưởng nửa cuộc đời còn lại của mình chôn theo con. May mà còn thằng cháu nầy bà mới sống vững tới bây giờ. Nó sớm mồ côi, nhưng nó tự biết thân phận của mình nên chí thú ăn học để phụng dưỡng bà và làm vui lòng bà. Nó hơn tía nó từ địa vị đến hạnh kiểm. Tuy nhiên, nó bảo tía nó là người yêu nước thương nòi, đáng để nó thờ phụng. Nó nhu mì giống má nó. Nhưng hễ gặp chuyện lớn phải quyết định thì nó ra tay ngay, giống như tía nó vậy. Nó thường nói với bà rằng: “Con người cần có trí thức, nhưng cũng cần phải có lao động mới có sức khỏe để bồi bổ kiến thức”. Cho nên mỗi khi về thăm bà, có thời giờ thì nó xông pha làm vườn như phác cỏ, bồi liếp, móc mương, chăm bón cây cối.
Thấy bà nước mắt giọt vắn giọt dài, tôi chỉ biết nói:
– Người ta thường than rằng ông Trời cho tay nầy rồi lấy tay kia. Cháu không nghĩ vậy đâu. Ông Trời nhơn từ, hễ lấy bớt gì của ai thì cũng tìm cách bù đắp cho đương sự. Như bà đây mất con thì còn có cháu, con cháu đều hiếu hạnh như nhau.
Bà nội của Minh than:
– Bà gần bảy mươi tuổi rồi, có chết cũng không tiếc. Ông bà mình thường nói rằng con người vốn “Thất thập cổ lai hi”. Nhưng bà chết khó mà yên lòng vì chưa thấy thằng Minh cưới vợ, chưa được ẵm cháu cố. Thằng đó kén cá chọn canh hoài làm bà nóng ruột quá chừng!
Bà vừa nói, vừa nhìn chăm bẳm vào tôi. Tôi cảm thấy mặt nóng ran, mắc cỡ, cúi đầu nhìn xuống.
Bà nội của Minh cười chúm chím, buông dao xuống, thu dọn chỗ vót chổi rồi đi vào bếp. Tôi sượng ngắt, ngồi lì trên võng. Con mèo tam thể nhảy vọt ra sân rồi khuất sau mấy khóm bông nở ngài, bông vạn thọ. Có tiếng hát của Minh từ mé vườn vọng lại:
“…Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Non cao đất rộng biết đâu mà tìm?
Đường đời mịt mờ vạn nẻo về đâu?
Xin nhờ duyên kiếp đưa lối bắc cầu…”
Tôi thích bài hát “Duyên Kiếp” của Lam Phương lắm. Tuy bài hát thích hợp với tâm trạng tôi, nhưng tôi thấy ghét, chàng hát sao mà nghe khó ưa, có vẻ trù ẻo những tình cảm đẹp đang nở hoa trong lòng tôi. Mặc dù giọng chàng ấm áp, làn hơi chàng mướt rượt. Eo ơi, bọn nữ sinh các lớp chàng dạy biết đâu sẽ cảm lăn cảm lóc cái giọng trữ tình của chàng? Tôi thấy một chút ghen hờn len lén vào tim: “Không biết chàng có thường hát cho học trò chàng nghe không đây? Trừ nam ca sĩ ra, hễ đàn ông nào mà hay hát thì tôi ghét và mất cảm tình liền. Đàn ông hay hát là cố ý mê hoặc phái yếu, có tà tâm, đáng bị bỏ bót để muỗi rệp hút máu làm nổi mề đai đầy cổ, ghẻ ngứa đầy mình…”. Tôi cười thầm, lạ thiệt! Tình cảm mình bỗng dưng sao mà kỳ cục vậy?
Chừng nửa giờ sau, Minh từ ngoài vườn đi vào, mình mẩy bê bết bùn sình, tay cắp chiếc rổ đầy ắp hoa quả. Bà nội Minh từ bếp bước ra hối:
– Mau đi tắm rửa sạch sẽ rồi vào ăn bánh canh.
Minh chìa chiếc rổ, rồi bảo:
– Nội ơi, con hái được ổi cửu ngoạt ngoài mé mương, lại còn hái thêm trái điều, khế ngọt và trái muồng quân nữa. Còn đây là bông điệp, bông trang để bà chưng trên bàn thờ Phật.
Chàng cắp rổ đi vào trong bếp, tìm cục xà bông Cô Ba để tắm gội. Bà nội chàng dọn bánh canh nấu với cá lóc, giò heo ra. Sợi bánh canh trong dẻo và mềm, còn nước bánh canh cũng trong như lộng kiếng. Mụn trứng cá lóc nổi vàng lẩn trong lá hành ngò xanh xắt nhuyễn.Vì hãy còn no, nên tôi chỉ ăn một chén bánh canh lưng lửng. Riêng Minh, vì nhờ móc mương, bồi liếp nên chàng đói bụng, ăn sạch một tô lớn và hai khúc giò heo. Bà nội Minh nhìn bóng nắng xế khuất sau mái hiên, buồn rầu bảo cả hai, giọng hạ thấp vì lo sợ:
– Lóng rày tình hình ở đây không được an ninh. Hễ chạng vạng tối là ‘’họ’’ hay chui ra xóm. Hai cháu nên sửa soạn về sớm là hơn.
Minh gật đầu rồi đi thay đổi y phục. Bà nội Minh chất vào giỏ hai nải chuối lá ta, một chục bánh ích 5 cái nhưn dừa và 5 cái nhưn đậu, một gói chuối khô, bà dặn tôi:
– Chuối khô và bánh trái trong giỏ, cháu về chia cho mẹ con Diệu Tâm một ít, phần còn lại là của cháu đem về nhà mà ăn.
Bà đưa cho Minh một mớ thuốc tễ, được gói bằng mo cau, có buộc bằng dây lạt, dặn dò:
– Mỗi tối trước khi đi ngủ cháu nhớ uống một viên cho bổ thân thể, nhớ đừng quên.
Bà nhìn tôi phàn nàn:
– Cháu ốm yếu, mảnh khảnh, cũng cần phải tẩm bổ mới được. Nếu cháu ưng, thì bà sẽ bổ cho cháu một mớ thuốc tễ ích khí bổ thần.
Tôi thối thoát:
– Cháu cảm ơn bà, Kho y dược trong bịnh viện cháu làm cũng có nhiều thứ thuốc bổ loại sinh tố. Nhưng cháu lười biếng nên không uống đều đặn.
Minh nheo mắt nhìn tôi rồi nói với bà nội của anh:
– Tuyết Nhạn sợ mập mất eo nên không chịu uống thuốc bổ, không dám ăn nhiều nội à.
Thấy Minh có vẻ bịn rịn, tôi giục chàng mau ra về. Minh nhìn đồng hồ tay, bảo:
– Còn sớm mà, chưa tới ba giờ, trời vừa xế bóng thôi.
Tôi bảo:
– Dù sao đi nữa mình lo trước vẫn hơn.
Bà nội của Minh khuyên:
– Cháu Nhạn nói phải đó, Minh à.
Minh điềm đạm:
– Nội ơi, mấy tháng nay ông Thiếu Tá Chi Khu Trưởng trên quận có cho xây cái đồn nghĩa quân ở xã mình để giữ an ninh cho xã. Không sao đâu.
Thấy chàng dềnh dàng, tôi tức ấm ách, làm mặt lạnh ngắt như cây nước đá phủ mạt cưa. Chàng cho nhớt vào dây sên, vào hai cái thắng xe, rồi bơm hai bánh xe cho thiệt phồng, thiệt căng, miệng huýt sáo véo von. Coi bộ anh chàng nầy muốn làm cho tôi lên ruột một phen, nhưng tôi không dám thúc giục chàng nữa. Làm con gái thì phải giữ vẻ điềm tĩnh, vẻ thùy mị đoan trang dù trong khi lòng tôi nóng như bị lửa thiêu đốt.
Sau cùng chúng tôi giã từ bà cụ, đèo nhau ra về. Nắng chiều tươi sáng. Ngồi trên ‘’boọc-ba-ga’’ tôi phải nắm yên xe phía dưới chỗ Minh ngồi. Giữ chiếc giỏ đầy bánh trái trên đùi. Minh đạp xe tàng tàng, chậm rãi, miệng hát nho nhỏ vài câu bài nầy bắt quàng sang bài khác. Coi bộ đương sự yêu đời, không đếm xỉa gì đến nỗi lo sợ băn khoăn của tôi, và thỉnh thoảng chàng còn gợi chuyện nữa. Nhưng tôi làm bộ không nghe, không thèm trả lời chi cả. Minh giả lả:
– Đi chơi hôm nay Tuyết Nhạn có vui không?
Tôi trả lời cục ngủn:
– Không.
Minh lo lắng:
– Sao vậy? Anh đã làm gì phật ý Nhạn hay sao? ž, hay bà nội hồi nãy ở ngoài sàn lãn thì thầm nói gì với Nhạn về anh?
– Bà nói anh lười biếng, bồ bịch bạn gái tứ tung. Bà bảo Nhạn phải đề phòng anh, đừng có đi chơi nhiều với anh sẽ mang tai mang tiếng.
Minh cười một tiếng khô và ngắn:
– Thiệt sao? Bà nói với Nhạn vậy à?
Tôi lém lĩnh:
– Đúng rồi! Bộ thật vậy hả? Sao mà anh run giọng và mất bình tĩnh vậy? Anh nghĩ coi, anh là cháu cưng vàng cưng ngọc của bà, dù anh không tốt bà cũng nói tốt về anh.
Mặt trời chiều ngã bóng, nhưng nắng vẫn chang chang gay gắt. Minh đề nghị dừng lại quán nước mía bên đường để giải khát. Khi chúng tôi ngồi vào bàn nhỏ. Minh cười chúm chím, mắt sáng ngời nhìn tôi đăm đăm. Ôi, nụ cười ấy, cái nhìn kia sao mà ngập tràn yêu thương.
– Vậy bà nói tốt gì về anh? Mà xem bộ Nhạn ganh tị dữ vậy?
Tôi cười nói:
– Tốt quá xá tệ! Thôi không nói!
Minh năn nỉ:
– Nói đi Nhạn.
– Không nói, nhứt định không nói.
– Không nói thì thôi. Nhưng anh có chuyện nầy hay lắm.
Tôi chồm lên:
– Chuyện gì? Anh đặt dóc để chọc tức Nhạn hả?
– Anh không có đặt chuyện đâu, hôm Nhạn bịnh đó, trong lúc đi ăn cơm, bác trai có nói về Nhạn cho anh nghe. Anh nghĩ chắc Nhạn không muốn nghe đâu. Thôi thì để mình anh biết được rồi.
Tôi tức muốn chết, nhưng làm bộ không thèm để ý. Uống xong nước mía, Minh trả tiền rồi đạp xe đưa tôi về tận cửa nhà. Trước khi tôi vào nhà Minh nói:
– Anh về tắm xong sẽ trở lại đưa Nhạn đi ăn chiều. Nhạn muốn anh chở Nhạn bằng xe đạp nầy hay cuốc bộ?
Tôi còn ấm ức chuyện hồi nãy nên thẳng giọng trả lời:
– Nhạn không đi đâu hết, mệt lắm rồi, ở nhà ăn cơm nguội! Chào anh, cảm ơn anh về chuyến đi chơi hôm nay.
Nói xong tôi quày quả bỏ vào nhà không thèm ngó mặt Minh, vội đóng cửa lại.
Nhà vắng hoe, hai con kia về quê chiều mai mới trở lại. Tôi chuồi xuống giường nằm một hồi rồi lấy áo quần đi tắm và gội đầu cho mát. Đi cả ngày nay, mồ hôi chảy ướt không biết mấy lần. Ra khỏi phòng tắm, chải tóc xong, tôi xuống bếp coi còn gì để ăn? Chừng một chén cơm trong nồi đã trở mùi thiu, trong tủ vẫn là trái dưa leo héo queo nằm kế bên hũ chao. Dọn dẹp thức ăn xong, tôi đóng cửa tủ lại, uể oải bỏ lên nhà trên. Thấy bình bông huệ lẫn bông cúc có vẻ dã dượi kém tươi, như người bị cảm. Tôi liền đi thay nước trong bình, phun nước khắp các nhánh bông, rồi lấy một viên Aspro bỏ vào bình nước để trị cảm cho hoa. Hoa huệ vốn ưa thuốc trị cảm lắm, nên chỉ chừng mươi lăm phút là trở lại tươi đẹp ngay.
Tôi ngồi ngơ ngẩn bên bàn viết, táy máy mở tờ báo xuân cũ. Hình bìa tờ báo là hai cô thiếu nữ tha thướt chơi đùa dưới cội mai vàng hực hỡ. Cô nào cũng banh miệng cười hí hởn như vừa nhận được bức thư tỏ tình. Tôi lơ đảng lật từng trang báo. Mấy tấm ảnh minh tinh nghệ sĩ dùng làm phụ bản đều được in bằng màu lộng lẫy. Cô nào miệng cũng cười cả, vì là phụ bản cho báo xuân kia mà.
Thẩm Thúy Hằng cười thiệt tươi, Thanh Nga cười e ấp dịu hiền, Thanh Thúy cười mủm mỉm, Kiều Chinh cười ở miệng nhưng mắt lạnh ngắt… Những người đàn bà lừng danh nổi tiếng đó điều cười, dù nụ cười tươi trẻ yêu đời hay nụ cười có vẻ triết gia đi nữa. Cuộc đời ở ngoài tờ báo xuân chắc là không cười, vì chiến tranh bắt đầu lan tràn trên đất nước.
Tôi tiếp tục lật từng trang báo. Coi kìa, mấy cô làm quảng cáo cho các tiệm vàng, các tiệm uống tóc cũng cười, bà Bích Ngọc, bà Cẩm Thạch cũng cười ỏn ẻn, mắt liếc dọc liếc ngang. Chú Tây đen làm quảng cáo cho hãng kem Hynos cũng nhe hàm răng trắng nhởn ra cười, nụ cười nổi bật trên khuôn mặt đen như tô dầu hắc. Chu choa ơi, trong tờ đặc san Xuân nầy là cả một thế giới tươi vui; ai đóng góp hình ảnh vào đó cũng cười, cũng có vẻ yêu đời da diết. Nhưng sực nhớ đến nụ cười của Minh lúc nãy, tôi tức tối xốn xang. Anh chàng nầy muốn trêu tức tôi, cho tôi lên ruột để anh khoe hàm răng đều đặn như hột bắp ra cười. Từ đây về sau tôi phải tiết kiệm nụ cười. Phải làm mặt lạnh mặt nghiêm để trị tội anh ta. Bây giờ tôi mệt, nên không thể lập một kế hoạch để trị tội, để báo thù Minh. Mai mốt rồi sẽ hay. Tuy tôi không thù dai, nhưng tôi ghét cái vẻ hí hởn của chàng mỗi khi chọc tức tôi. Nếu tôi mà không trả đũa chàng, thì chàng sẽ được trớn, được mợi, chọc tức tôi dài dài.
Tôi định đi ngủ một giấc rồi tính sau. Nếu ngủ quên tới sáng luôn thì tốt, khỏi ăn, khỏi mắc công nấu nướng. Thật ra ở nhà có gì đâu để nấu, và tôi biết nấu chi đâu. Luộc cải nồi, chiên trứng là hai món khéo nhất mà tôi có thể làm được. Nhìn đồng hồ chỉ hơn năm giờ. Tôi lên giường nằm, kéo mền trùm tới ngực. Rồi tôi với tay vặn chiếc cassette, nghe nhạc để dỗ giấc ngủ và để át tiếng động bên ngoài.
Khi tôi thức giấc thì trời đã nhá nhem tối. Đồng hồ ở đầu giường chỉ hơn bảy giờ. Tôi ngồi dậy, mò mẫm, mắt nhắm, mắt mở ra khỏi giường và bật nút điện. Tôi vặn ly nước lọc uống, và xuống nhà bếp lấy nồi cơm thiu ra ngoài, đổ vào thùng rác để nấu cơm khác, vì tôi nghe bụng cồn cào, đói quá, không nhịn được nữa. Cửa bật mở, tôi giật mình thấy Minh ngồi trên xích đu tự bao giờ, tôi hỏi:
– Anh Minh đến lâu chưa? Sao không gõ cửa?
Minh cười hiền:
– Không lâu, thời gian cỡ đốt tàn cây nhang thôi. Khi anh về nhà thấy chị Diệu Tâm nấu cơm, hỏi chị có gì ăn không? Chị nói có sườn nướng, rồi chị bảo anh đưa Nhạn đến đó ăn cơm. Anh nói với chị, chắc Nhạn về tới nhà là ngủ rồi. Nếu chị có nướng sườn nhiều thì cho mấy miếng, để đem đến đây cùng ăn với Nhạn. Chị làm sẵn hết, anh chỉ xách lại thôi, ngoài sườn và cơm, trong gào-mên còn có gì nữa không, anh không biết?
Minh đứng lên đưa gào-mên nặng chình chịch cho tôi, và theo tôi vào nhà. Trong ba ngăn gào-mên, ngoài sườn nướng và cơm ra, còn có canh hẹ nấu với tàu hủ non, gan heo, thịt bằm. Ăn uống xong, tôi cùng Minh ra ngồi ở chiếc bàn nhỏ ngoài sân tán dóc. Tôi hỏi Minh:
– Anh Minh nè, hôm trước ba Nhạn nói xấu Nhạn gì với anh đó?
Minh cười hóm hỉnh không chịu nói. Tôi nói tiếp:
– Anh không nói, Nhạn giận cho coi!
Minh xua tay cười:
– Đừng giận, đừng giận, để anh nói.
Minh nhìn tôi cặp mắt tinh ranh, tôi nóng ruột hối:
– Nói đi anh Minh
Minh ngập ngừng rồi nghiêm giọng kể:
– Bác hỏi anh có để ý đến Nhạn không? Anh trả lời với bác là có. Bác bảo anh cua Nhạn đi. Nhạn là đứa con bác thương yêu nhứt, Nhạn không đẹp bằng hai chị, hai em và các cô gái khác, nhưng Nhạn có những đặc điểm tốt mà nhiều cô gái khác không có.
Nghe đến đây tôi mắc cỡ quá, vội nói:
– Thôi anh Minh đừng đặt chuyện nữa. Nhạn không tin ba Nhạn nói với anh như vậy đâu, anh xạo quá đi. Đủ rồi, Nhạn không nghe nữa.
Minh nhìn tôi đôi mắt thành khẩn. Đợi tôi dứt lời, giọng Minh êm êm dịu dàng:
– Không nghe bác nói cũng được, nhưng Nhạn hãy nghe anh nói chuyện nầy. Chúng ta đã lớn, anh thành thật muốn nói với Nhạn là anh để ý thương Nhạn lâu rồi. Tháng sau, anh đi thụ huấn quân sự khóa giáo chức ở Thủ Đức. Trước khi đi, anh muốn nghe ý kiến của Nhạn?
Tôi tưởng mình đang nằm chiêm bao. Bỗng dưng tôi lính quýnh, lụp chụp, lo sợ, ngại ngùng, mắc cỡ, phát run, không nói được nên lời, chỉ cúi mặt thẹn thùng nín thinh.
Minh hình như biết ý tôi, nghiêm giọng nói tiếp:
– Nhạn không phải trả lời anh ngay bây giờ, mà hãy suy nghĩ kỹ, cho anh biết trước ngày anh đi, để anh yên lòng. Nhạn cũng thừa biết anh nghèo lắm. Cha mẹ anh lại mất sớm, anh không có sản vật chi, và anh sống tự lập gần như hồi còn thơ bé. Anh không có nhà lầu xe hơi, ruộng đất, hay trương mục trong ngân hàng. Anh đến với Nhạn bằng tấm lòng yêu thương chân thật của anh. Trước sau như một, anh hứa sẽ không bao giờ đổi dời.
Tôi ngồi bất động, Minh tỏ tình hết sức bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tay chân tôi lạnh ngắt. Tôi như trên trời rớt xuống, xúc động muốn khóc mà không khóc được. Chúng tôi yên lặng, cái yên lặng ngọt ngào êm ái chớ không tẻ lạnh. Mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Tôi vẫn không mở miệng được để nói lời nào. Và vẫn làm thinh, yên lặng! Trước khi từ giã ra về Minh nói:
– Thôi anh về. Nhạn suy nghĩ rồi cho anh biết, anh rất mong là tin tốt. Chúc Nhạn ngủ ngon.
Tôi sượng ngắt và ngồi chết trân. Minh đi rồi, tôi vào nhà đóng cửa lại, chun vào mùng. Suốt đêm tôi trằn trọc, lăn qua trở lại, không sao nhắm mắt được. Bao nhiêu sự việc ẩn chìm cuồn cuộn trở lại ký ức. Tôi hồi hộp lo sợ với chính mình. Từ lâu, tôi nghĩ chắc suốt đời tôi sẽ không lập gia đình. Vì thấy hoàn cảnh chị Tuyết Hồng quanh năm suốt tháng phải lo cho chồng, cho con không có một giây phút nào cho riêng mình, nên tôi thấy cái hệ lụy của gánh nặng gia đình. Chị Tuyết Loan thì vất vả với mối tình có nhiều trở ngại làm tôi càng sợ nhiều hơn. Tôi nghĩ lập gia đình mà khổ vậy, thì lập làm gì?
Tôi có mặt trên chuyến xe sớm nhứt chạy về quê. Xe ra khỏi thành phố, ánh mặt trời ở phương Đông sáng tỏ. Hoa lá cỏ cây xanh tươi mơn mởn sau đêm ngủ dài trong màn sương ươm mát. Lác đác trên những đám ruộng hai bên Quốc Lộ Bốn các bác nông phu đang bừa đất, lên bờ… Và sau rặng cau chót vót, những đám cây dừa lão lêu nghêu cùng đám cây ăn trái xanh mướt, những làn khói lam tỏa chập chờn trên nóc nhà. Miền quê đẹp và hiền lành quá! Nhưng lòng tôi đang mang bao nhiêu nỗi ngổn ngang. Bình thường chuyện gì gút mắc của gia đình, của bà chị Tuyết Loan, của hai cô em Tuyết Oanh và Tuyết Nga, tôi đều giải quyết một cách ổn thỏa. Bây giờ gặp chuyện của mình mà sao tâm trí tôi tối tăm một cách đáng ghét. Chỉ cần trả lời được hay không thôi, nhưng sao tôi như nằm trong vũng đêm mịt mù không lối ra.
Vừa khi tôi về đến nhà, má tôi ngạc nhiên hỏi:
– Sao hôm qua con không về? Mai thứ hai con có làm việc không? Chừng nào con đi? Thôi để má bảo chị Bảy đi nấu cơm cho con ăn.
Tôi trả lời cho xong chuyện:
– Hôm trước con để quên mấy quyển sách, hôm nay về lấy. Ba đâu rồi má?
– Ổng ở ngoài vườn.
Tôi vội thay áo ngắn, cất xách tay, nón, trong buồng, chạy đi tìm ba tôi. Ông hơi ngạc nhiên khi thấy dáng điệu không bình thường của tôi, chắc ông biết tôi như có điều chi muốn nói, muốn hỏi. Ông nhìn tôi dò xét, rồi mở lời:
– Con về bất ngờ, chắc có điều chi muốn nói với ba phải không?
Tôi kể một mạch hết những gì Minh nói và hỏi tôi cho ba tôi nghe, như học trò trả bài trước thầy giáo. Nghe xong, ba tôi mỉm cười:
– Con cho ba biết, ngoài Minh ra, con còn quen thân với người con trai nào nữa không?
Tôi phụng phịu:
– Ba à, ba biết tánh con mà, ba muốn ghẹo con nữa rồi. Con chỉ quen với anh Minh thôi.
– Theo ba nhận xét, thì thằng Minh được lắm. Cha mẹ nó mất sớm, mà nó tự lập vững chắc như vậy, thì không phải người con trai nào ở hoàn cảnh nó cũng làm được đâu. Vóc dáng và mặc mũi nó cũng dễ nhìn. Tánh tình nó chững chạc, ít nói, điềm đạm, nghiêm trang, không lóc chóc lao chao, bạ đâu nói đó, nó cũng không vô ý, vô tứ. Những người như vậy rất khó tánh, lời nói của họ chắc như đinh đóng cột, không đổi dời, khó lay chuyển. Khi đã yêu thương ai rồi thì họ sẽ yêu thương suốt cả đời. Nhưng ghét ai rồi thì họ sẽ bứng dấu chân người đó đem đổ xuống sông. Minh có học vấn, có nghề nghiệp vững chắc. Trong nhà, nếu người vợ không đi làm thì một mình nó cũng gánh vác nổi gia đình. Ba thấy sao nói vậy, vì đó là nhận xét của ba. Con phải suy nghĩ kỹ và phải hỏi lòng mình có thương nó không đã? Rồi sau đó mới trả lời với người ta. Ba thấy thằng Minh tánh tình được hơn hai ông anh rể của con. Người con trai như nó không dễ tìm đâu.
Hai cha con tôi ngồi trên thân khúc xoài chết nhác, đã được cắt thành nhiều đoạn nằm lăn lóc dưới đất. Tôi lắng nghe từng lời ba tôi nói. Ba dừng lại vấn điếu thuốc rê, rồi đốt hút phì phà, tuôn dòng khói trắng. Ông nói tiếp:
– Lúc cưới má con, đến ngày cưới ba mới thấy rõ mặt bả. Bà nội con lo hết mọi thứ. Bà bảo ba làm gì thì ba làm theo ý bà. Bảo đi hỏi vợ, thì ba đi, bảo ba đi cưới thì ba cưới. Bà không hỏi ý kiến ba chi hết. Bây giờ các con ở vào thế hệ cởi mở rồi; ít có gia đình nào ép uổng con mình lấy vợ hay gả chồng. Mấy chị con cũng vậy. Ba má có ép đứa nào đâu. Vậy con hãy để cho tâm hồn mình thơ thới, nhẹ nhàng, đừng căng thẳng quá. Đừng ngại, có gì con muốn hỏi, con muốn bàn bạc với Minh thì con tự nhiên trình bày với nó. Nó hỏi con, con cũng có quyền hỏi lại. Không phải ý kiến của đàn ông là tối hậu như thời phong kiến đâu. Ba biết con thông minh, con sẽ bày tỏ quan niệm của con rất hợp lý.
Tôi cười:
– Ba tin tưởng con gái ba quá! Phải chi con thông minh như ba nói thì con về đây hỏi ba làm gì?
Ba tôi ném tàn thuốc xuống đất, bảo:
– Tại Minh hỏi bất ngờ quá, làm con lính quýnh. Lời cầu hôn đến đột ngột làm con quên đầu quên đuôi, mất bình tĩnh suy đoán. Để vài hôm nữa con tỉnh táo, con sẽ có quyết định sáng suốt hơn. Ba chắc chắn như vậy.
Tôi mỉm cười cảm ơn ba, rồi hai cha con đi vào nhà. Chị Bảy đã dọn sẵn mâm cơm. Má dịu dàng nhìn tôi:
– Vào ăn cơm đi con, chừng nào con đi?
– Dạ, con sẽ đi chuyến xe hai giờ chiều.
Má nhìn ba dò xét hỏi:
– Hai cha con ông nói chuyện gì mà ở ngoải cả buổi vậy?
Ba nhìn tôi cười, rồi đánh trống lãng trả lời má:
– Cởi mở tâm tình mà! ž, mà bà có làm gì cho con nó đem theo không?
– Sao lại không. Đã để hết vào giỏ rồi: Cá bống trứng kho tiêu, tép chấy mặn, khô cá sặc; mấy trái cam, hai đòn bánh tét mua của bà Tám mới gánh ngang còn nóng hổi.
Quay sang tôi, má dặn:
– Lần sau về, con nhớ gom hết mấy cái lon ‘’ghi-gô’’ đem về cho má, đặng má đựng đồ ăn cho tụi bây đem đi. Con Tuyết Loan, Tuyết Oanh, Tuyết Nga về đây lần nào cũng mang đi mấy cái, mà không đứa nào đem trả lại má hết. Khi má cần dùng thì không có cái nào.
Vừa bước xuống xe, tôi đã thấy Minh đứng đợi. Những lời nói hồi trưa của ba tôi làm tôi như uống được mấy viên thuốc an thần. Gặp Minh hôm nay, tôi không còn thấy sợ sệt như hôm qua nữa. Tôi cười hỏi:
– Anh Minh làm gì ở đây?
Minh tươi nét mặt:
– Anh đến đón Nhạn. Lúc chín giờ sáng, anh lại nhà gõ cửa đợi một hồi không thấy ai. Anh biết Nhạn về thăm hai bác.
Tôi ngạc nhiên:
– Anh đợi ở đây bao lâu rồi? Sao anh biết Nhạn về trên nhà mà đợi?
– Anh nghĩ Nhạn trở lại đây chuyến xe hai giờ, nên đợi lúc ba giờ ba mươi. Bây giờ đã bốn giờ hai mươi. Nhạn về để hỏi ý kiến hai bác, phải không?
Tôi trợn mắt cự Minh:
– Hỏi ý kiến gì? Nói bậy không hà.
Minh xua tay cười:
– Thôi, không hỏi thì không hỏi. Đừng giận nghe, anh chỉ đoán thôi, chớ có gì để Nhạn giận đâu.
Chúng tôi bước vào nhà. Tôi vừa sắp đặt đồ ăn má tôi cho vào tủ bếp thì hai con bạn Vân Anh và Ánh Ngọc về đến. Thấy Minh ngồi trên ghế ngoài sân, tụi nó lấy làm lạ, chào Minh rồi đi thẳng vào nhà. Tôi đang vặn hai ly nước lọc thì hai đứa tấn công tôi, giựt hai ly nước để trên kệ, lôi tôi vô buồng, tra tấn. Tụi nó làm bộ nghiêm. Vân Anh hỏi trước:
– Sao mầy thật kín miệng vậy? Phải khai thiệt, tụi bây giấu tụi tao bao lâu rồi?
Ánh Ngọc nhỏ tiếng, vì sợ bên ngoài Minh nghe:
– Mầy đi chơi, đi ăn với hắn bao nhiêu lần rồi? Con mẹ Diệu Tâm nầy thiệt kín miệng, không hé lấy nửa lời. Bọn bây quá quắc, có coi tụi tao là bạn không? Hãy thiệt tình khai báo đi. Không thì tụi tao không để yên đâu. Trả lời ngay đi, con quỉ si tình!
Tôi làm bộ ho mấy tiếng rồi trả lời:
– Tụi mầy hỏi chuyện của tao như cảnh sát trưởng hỏi cung ăn cướp vậy. Có gì đâu, Minh là em trai họ của chị Diệu Tâm, tụi bây đứa nào mà không biết? Đến thăm nhau và nói chuyện vài lần là bồ hay sao? Đầu óc tụi bây hắc ám như mực tàu nên bây ưa nghĩ bậy nói bạ.
Vân Anh rít lên:
– Chà chà, mầy còn chối nữa, còn dám mắng bọn tao nữa. Hai đứa tao đẹp như tiên nga, sao thằng chả không tìm đến nói chuyện mà tìm mầy?
– Cái đó mầy phải hỏi anh ta chớ sao hỏi tao? Tao đâu biết gì về tâm lý đờn ông.
Ánh Ngọc lắc đầu nheo mắt cười, không còn hùng hổ như lúc nãy. Nó vừa nói với tôi, vừa nói với Vân Anh:
– Mầy xưng Nhạn rồi gọi Minh bằng anh nghe ngọt sớt như đường cát, mát như đường phèn. Vân Anh ơi, tụi mình nói không lại cái miệng hùm lưỡi rắn của nó đâu. Thôi, tạm thời để yên cho nó đi, để nó tiếp tình lang đang ngồi chờ ngoài kia. Chừng nào thằng chả về, mình sẽ hỏi cung tiếp.
Hai đứa buông tay tôi ra. Tôi sửa lại mái tóc, làm mặt nghiêm, lấy hai ly nước đi ra ngoài chỗ Minh ngồi và mời chàng uống nước. Dường như anh biết chuyện gì xảy ra cho bọn tôi nên đề nghị:
– Mình đi tản bộ một vòng, Nhạn nghĩ sao?
Để tránh tai mắt của hai con quỉ kia, tôi gật đầu. Ngọn gió man mác cuối ngày thổi vờn mái tóc và áo màu nâu sậm rập rờn ánh bạc của tôi. Phố xá đã lên đèn. Sao đêm chiếu lập lòe trên nền trời đen huyền hoặc. Đi từng bước từng bước chầm chậm bên Minh, tôi không nói được lời nào. Nhưng lòng tôi chứa chan niềm vui lâng lâng nhè nhẹ. Bỗng Minh nắm tay tôi, giọng tha thiết:
– Sao đây, Tuyết Nhạn? Em nghĩ sao về lời cầu hôn của anh hôm qua? Cho anh biết đi. Đêm rồi, anh không ngủ được. Sáng sớm anh đến nhà trọ của em, nhưng em không có ở nhà làm anh lo quá. Sau đó, anh mới nghĩ ra là em về trên nhà ba má em, nên anh khuây khỏa đôi chút. Sao em? Em nghĩ sao về việc chung thân của tụi mình? Hãy trả lời anh đi.
Tôi rút tay ra khỏi tay Minh, chẳng những chàng không buông mà còn nắm chặt hơn. Tôi hít mạnh cho không khí tràn ngập buồng phổi để lấy lại bình tĩnh. Minh lại giục thêm lần nữa. Tôi cố giữ giọng thản nhiên trả lời:
– Việc hôn nhân là việc hệ trọng cả đời, anh hãy cho thời gian vài tuần để Nhạn suy nghĩ.
Minh nhăn mặt:
– Sao mà lâu quá vậy?
– Vậy mà lâu hay sao? Theo lẽ anh phải đợi vài ba tháng. Vì Nhạn có biết gì về anh đâu? Nhạn cần nhiều thì giờ để để tìm hiểu và suy nghĩ cho chín chắn.
Minh nài nỉ:
– Bộ Nhạn muốn giết anh hả? Ba ngày nghen, ngày mai anh đi dạy, chiều thứ tư anh về, Nhạn cho anh biết được không? Nhạn muốn hỏi gì thì cứ hỏi, anh xin hết sức thành thật trả lời.
– Không được! Phải đợi đến cuối tuần tới, còn không thì phải đợi tháng tới.
Minh xui xị, trông thiệt thảm não:
– Ờ! Ờ, cuối tuần tới, thì cuối tuần tới!
Về đến cổng nhà tôi trọ, Minh buồn bã từ giã ra về. Trông theo chàng lòng tôi bùi ngùi. Kỳ lạ, thấy chàng hí hởn lúc chọc quê tôi, tôi ghét chàng nhức nhối. Nhưng trông chàng buồn bã tôi lại động lòng. Mí mắt tôi chợt nóng lên! Khi bước vào nhà, tôi chuẩn bị tinh thần để nghe hai con bạn đồng nghiệp hỏi cung. Nhưng mà lạ lùng làm sao! Tụi nó ái ngại nhìn tôi, không nói không hỏi lời nào? Tôi chợt biết mình đang khóc, cho nên chẳng có đứa nào tấn công.
Tôi vào buồng nằm nhắm mắt lại, nhưng lòng ngổn ngang trăm mối. Hai con bạn tôi đi đi lại lại rón rén, cốt không làm rộn tôi. Tụi nó nói với nhau thật dịu dàng, không con nào cất giọng rổn rảng hay the thé. Xế nay, tụi nó gội đầu bằng nước bồ kết còn thơm mùi. Giờ nghe tụi nó xì xào, xách nồi đồng nấu cháu gạo nhum với đậu đỏ.
Không lẽ nằm chịu trận với tâm sự phiền phức hoài, tôi trổi dậy, xuống bếp xem tụi nó trổ tài nữ công nữ hạnh. Trên bếp ngoài nồi cháo đang sôi ùng ục, còn có tô khô cá cơm kho mặn đang sôi riu riu. Trên mâm đồng tụi nó bày một dĩa bắp chuối luộc bóp giấm ớt, một dĩa dưa mắm, một chén nước cốt dừa, một dĩa nước tương đệm dưa kiệu xắt mỏng và điểm tương ớt.
Tôi lấy một ít tôm chấy, một ít cá bống trứng kho tiêu bày ra dĩa. Trong bữa cháo, tôi kể chuyện của tôi từ gốc tới ngọn cho hai đứa nó nghe. Ánh Ngọc cười liếc xéo tôi:
– Hắn yêu mầy, mầy yêu hắn, vậy thì mầy đợi gì nữa mà không tiến tới?
Tôi háy lại:
– Tao chưa chuẩn bị tinh thần, chưa chắc chắn mình có thiện chí và khả năng lập gia đình hay không, tính tới sao được?
Vân Anh vừa ăn vừa cười:
– Thấy mắt mầy đỏ, bọn tao lo không biết việc gì xảy ra? Giờ không tính tới thì tính lui.
Tôi cong cớn:
– Tao yêu ảnh thì tính lui sao được?
Hai đứa cười rộ lên, nhiếc tôi:
– Bộ mầy khùng rồi hả? Như vậy là mầy trả lời rồi đó!
Tôi hăm he:
– Tới không xuôi, lui không được, tao phát khùng rồi đây! Con nào chọc quê tao hoài, thì tao cho con đó lãnh thẹo.
Vân Anh rít:
– Vô duyên! Gái chưa chồng, trai chưa vợ, thì có gì trở ngại đâu mà mầy còn chần chờ? Vả lại cả hai đều có nghề nghiệp, lấy nhau sẽ tạo lập gia đình vững vàng hạnh phúc.
Ánh Ngọc nói:
– Tên Minh kia và mầy xứng đôi, vừa lứa, xứng cặp với nhau lắm đó, Tuyết Nhạn à! Tao cầu mong cho mầy lấy chồng phứt cho rồi, tao không muốn mặt thớt, mặt mo của mầy trong nhà nầy nữa, nghe chưa?
Tôi thành thật:
– Chuyện xảy ra bất ngờ làm tao lửng đửng lờ đờ như đứng gần miệng hố thẳm.
Vân Anh lại giở trò chọc quê, vì chọc quê là ‘’nghề của nàng’’:
– Nếu bây giờ tên Minh rút lại lời cầu hôn, mầy sẽ tính sao? Chắc là mầy xỉu, rồi mầy khóc hu hu cầu có cái lu mới đựng hết nước mắt của mầy.
Ánh Ngọc nguýt Vân Anh:
– Hễ mở miệng ra là ăn nói như trù ẻo.
Vân Anh liếc xéo qua tôi:
– Thì tao nói ví dụ nghe chơi. Thiệt ra, nhìn cái bộ mặt tên Minh và cặp mắt lắng đọng xuân tình của con nầy là tao biết lòng cả hai như một rồi. Bởi con nầy hay ăn nói một đàng mà cái lòng nó một nẻo, nên tao ghét, chọt một câu gai góc cho bõ ghét vậy mà.
Chương 10
Đôi lúc, tôi tự hỏi tại sao mình không sốt sắng nhận lời cầu hôn của Minh? Có phải thật sự tôi sợ cuộc đời làm vợ, làm mẹ hay chàng không phải là người chồng lý tưởng mà tôi thường mơ ước? Hay là tình yêu của tôi đối với chàng chưa đủ mãnh liệt để tôi đưa chàng đến hôn nhân?
Chị Tuyết Hồng viết thư thúc giục: “Con gái chỉ có một thời, từ tuổi mười tám cho đến tuổi hai mươi lăm mà thôi. Em đừng để quá lứa lỡ thời, gây ảnh hưởng tai hại cho hai con Tuyết Oanh và Tuyết Nga”
Chị Tuyết Loan nhắn nhe: “Nghe con Tuyết Oanh nói tên Minh trông cũng được trai lắm. Còn ba thì nhắm tướng hắn, nói hắn có quý tướng. Em đừng có già kén kẹn hom mà lỡ việc chung thân”.
Thu Trinh điện thoại đến bịnh viện cho tôi: “Quỉ ơi, bởi mầy chùng chình nên anh tao lấy vợ. Vợ ảnh đã mang bầu năm tháng rồi. Thôi thì mầy nên kiếm mối khác, có chồng khuất mắt cho rồi”.
Tôi cười và nạt nó: “Thôi mầy ơi, mầy làm như tao bị anh mầy bỏ không bằng! Trời đặt để cho mình người đó của mình thì là của mình, không phải kéo níu, giật giành mà được đâu. Đồ con quỉ xứ, vậy cũng bày đặt làm giọng chị ả tao nữa…”
Thuý Hiền viết thư cho tôi bằng giọng Huế trong đó có đoạn: “Nì, tau biết mi mơ lấy chồng Bác sĩ, Kỹ sư nên đời mô mà ngó giáo sư lương ba cọc ba đồng? Sao tham vọng rứa con tê? Tau nghe nói tên Minh tê cũng bô trai, mi còn chần chờ chi nữa mà chẳng gật đầu ưng thuận cho rồi?”
Ai cũng nói vô, cũng đốc thúc tôi lấy chồng. Lựa lúc tôi vui, Ánh Ngọc và Vân Anh bày trái cây chua: cốc, ổi, mận, khế… và muối ớt ra ăn. Tụi nó hỏi tôi lung tung, làm tôi khờ ệch. Nào là: “Minh đã hun mầy chưa? Hai đứa bây hun bao nhiêu lần rồi? Có đi xa cái hun không? Ai sao không biết, chớ mầy có cặp môi mời hun, đúng không? Môi Minh là môi tham lam, hắn có vẻ thạo đời, hắn hun mầy chắc mầy chết giấc? Vậy mầy chết giấc mấy lần rồi?”
Thật căn đày kiếp đọa tôi mới ở chung với hai con bạn lẳng ơi là lẳng, lẳng sao mà ớn xương sống, lại còn ưa tò mò tọc mạch chuyện gì đâu! Vân Anh làm mặt nghiêm:
– Hồi đó, cục cưng tao hun tao mùi quá, làm tao khóc. Cái hun đầu tiên đó, tàn đời mạt kiếp không sao tao quên được! Tao khóc bao nhiêu hắn cũng khóc bấy nhiêu. Cái hun có tưới tẩm nước mắt mới ướt át mặn mòi chớ bộ!
Tôi chọc quê:
– Vậy mà tao tưởng mầy chết giấc.
Vân Anh cười lỏn lẻn:
– Đâu đến nổi ấy! Tao chỉ ngây ngất, bàng hoàng thôi.
Nó thở dài một cái sượt, ra điều dư vị còn vướng mắc đâu đây trong ký ức của nó. Ánh Ngọc đập vào vai nó, la:
– Mầy diễn tả một màn say tình làm đá cũng đổ mồ hôi nữa là.
Vân Anh nhìn Ánh Ngọc đăm đăm:
– Còn mầy thì sao? Cái hun đầu tiên có làm mầy mê mẩn rụng rời hay không?
Ánh Ngọc nhắm mắt:
– Xời ơi, lúc mèo tao hun tao, tao mở cặp mắt thao láo ngó nó. Nó lấy hai ngón tay đè lên mi mắt tao: “Khi nào anh hun em, em phải nhắm mắt làm ra vẻ đê mê chớ”. Tao nói: “Cần gì nhắm mắt?”. Nó nói: “Trong phim Âu Mỹ, lúc diễn xuất màn hun hít, anh kép chị đào đều nhắm mắt”. Tao nói: “Ngặt nỗi tụi mình thương nhau mới hun, chớ có diễn xuất đâu”.
Tôi kiếm cách giỡn nhột liền:
– Con mèo đực của mầy mà gặp cái thứ cà chớn như mầy chắc thất vọng lắm. Tuy nhiên, tao tin lúc nó hun thì mắt mầy lộn thinh trái vải. Cho nên nó sợ, nó mới bảo mầy nhắm mắt đó đa!
Cả ba ôm bụng cười ngã nghiêng. Vân Anh chăm bẳm nhìn tôi:
– Còn mầy thì sao, hả Tuyết Nhạn?
Ánh Ngọc lắc vai tôi:
– Ừ, cái hun đầu của mầy ra sao? Hãy kể cho tụi tao bắt chước.
Tôi cất giọng… yếu xìu:
– Tụi tao còn chưa nắm tay, thì nói chi đến hun hít.
Ánh Ngọc gầm lên như sư tử hống:
– Nói láo! Nói láo! Tao phải lấy dao rạch miệng mầy.
Vân Anh cũng rít lên:
– Tao nghe mấy đứa trong sở nói với nhau rằng họ thấy mầy ôm eo ếch tên Minh, để hắn chở mầy đi chơi. Đừng có lẻo mép nghe mậy.
Tôi nói từng tiếng dẽ khắc:
– Đúng vậy. Ảnh chở tao bằng xe đạp thì có, nhưng ôm eo ếch thì không, tao chỉ nắm dưới yên xe ảnh ngồi thôi, ai mà xà nẹo như tụi bây vậy.
Rồi tôi nhấn mạnh:
– Tao cũng nghĩ đến cái hun đầu đời, chớ sao không? Nhưng tao thú thiệt với tụi bây điều nầy: Minh mới tỏ tình với tao mấy ngày. Tao chưa trả lời nên chưa có vụ ôm ấp hay hun hít gì ráo. Thiệt tình, có sao tao nói vậy. Được người yêu mình hun mình thì mình phải khoe với bạn bè, chớ lẽ nào giấu giếm cho đành hay sao? Bây không tin thì mặc kệ tụi bây.
Vân Anh kêu lên:
– Trời đất!
Ánh Ngọc lắc đầu:
– Tao không tin!
Cả hai thất vọng một cách bừa bãi làm tôi tức cười. Tôi ỡm ờ bảo:
– Thôi thì tụi bây cứ tưởng tượng tao và Minh hun nhau như hai tài tử chánh trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió” cũng được.
Tôi bỏ vào buồng. Để khỏi nghĩ về Minh rồi nhớ chàng quay quắt, tôi lấy cuốn “Song Ngoại” của Quỳnh Dao ra xem. Nhưng chỉ vài trang đầu thôi, tôi nhớ đến chàng đậm đà hơn. Tôi xếp sách lại, lắng nghe tiếng thằn lằn chắc lưỡi trên vách.
Một tuần lễ nặng nề trôi qua.
Trưa thứ bảy, Minh hẹn đến chở tôi đi thăm ông sư đang trụ trì ở chùa Vĩnh Tràng. Minh cho biết, sư nầy ngày xưa là bạn cùng lớp với anh. Minh chở tôi bằng xe đạp qua những khúc đường lởm chởm đá và nhiều ổ gà. Chúng tôi đến trước cổng chùa. Cổng tam quan cao xây bằng đá có cẩn nhiều miểng chén dĩa kiểu màu sắc tươi đẹp. Đường vào chùa có cây gie tàn râm mát. Bên phải đường đi nhiều ngôi cổ mộ nằm trong hàng rào bằng đá kiên cố. Trên vách đá có nhiều tên khắc ngoằn ngoèo. Có chỗ khắc hình trái tim đề tên cặp trai gái thề non hẹn biển, Minh nhìn tôi, hỏi:
– Nhạn có muốn khắc tên trên đây không?
Tôi lắc đầu:
– Không! Không. Anh khắc đi. Anh đã khắc với bao nhiêu tên người con gái trên vách nầy rồi?
– Nhiều lắm! Nhiều vô số kể đến nỗi năn nỉ một cô tên Tuyết Nhạn khắc tên chung mà cổ còn chưa chịu trả lời.
Tôi không nói gì, nhìn bên kia lối đi có nhiều cây vú sữa trái nâu tím sai oằn nhánh. Dưới những tàn cây có đặt rải rác băng đá ngồi. Trước sân chùa và dọc theo tường của hông chùa trồng đủ các loại hoa. Được chăm sóc thường xuyên nên hoa nở thật to, phô màu sắc rực rỡ dưới nắng trưa.
Chúng tôi gặp sư Huệ Trí, bạn của Minh. Sư người dong dỏng cao, nước da ngăm, mặt mày hiền lành, ăn nói từ tốn. Sư dắt chúng tôi đi thăm nhiều nơi trong chùa. Tôi ngại ngùng không biết xưng hô thế nào với sư? Xưng bằng con thì tôi mắc cỡ miệng, vì sư còn trẻ. Xưng bằng tôi thì nghe phàm phu tục tử quá. Cho nên khi gặp sư tôi cúi đầu chào rồi cứ đi theo sau Minh thôi. Đến khi ra về, tôi lại cúi đầu chào lần nữa, chớ không dám hỏi han chi cả.
Trong chùa có nhiều bàn thờ phật khói hương nghi ngút. Những tượng phật có tượng lớn, đứng cao quá đầu người, có tượng ngồi, có tượng nằm tréo chân miệng cười tích toác. Lại có tượng mặt mày khôi ngô tuấn tú, da dẻ hồng hào. Có tượng đen thủi đen thui, lưỡi le dài như hình lưỡi cưa. Bức tượng Phật Bà Quan Âm điêu khắc rất linh động, mới trông như người thật, được đặt trong chiếc khánh lớn, sơn son, thếp vàng rực rỡ dưới ánh đèn cầy. Có bàn thờ đặt các bài vị của người quá cố viết bằng mực tàu trên giấy hồng đơn ở góc dãy sau của chùa. Mùi khói nhang bát ngát, tiếng kinh mõ đều đều. Cái yên lặng thâm nghiêm ở đây làm tôi sợ, nên đi sát bên Minh, không dám rời nửa bước. Sư mời cả hai dùng cơm chay, nhưng chúng tôi từ chối. Minh móc tiền bỏ vào thùng phước sương cúng chùa rồi từ giã sư Huệ Trí ra về. Minh hứa khi nào có dịp sẽ trở lại thăm sư.
Một ngày êm đềm trôi qua như giấc ngủ thanh thản.
Chiều đến, Minh đưa tôi đi ăn ở nhà hàng Cửu Long. Nhà hàng nằm trên nửa phần sàn gie ngoài sông, nửa phần sàn kia ở trong đất liền. Bên phải từ cửa nhìn vào là trại hải quân. Bên trái là công viên Lạc Hồng nằm trên bờ sông và con đường lớn chạy dài. Thiên hạ đồn rằng thức ăn và nước uống nhà hàng nầy chém ngọt lắm. Cho nên thường là những khách có tiền, và sang trọng mới đến đây. Tôi là một đứa hà tiện có tiếng trong nhà, lại không ưa ăn hàng quán như bà chị Tuyết Loan, nên mấy chỗ mắc tiền như vầy không có tôi. Đây là lần đầu tiên tôi đến ăn ở nhà hàng Cửu Long sau gần hai năm làm việc ở thành phố Mỹ Tho nầy. Cho nên tin thiên hạ đồn tôi không biết có đúng hay không? Bên trong nhà hàng trưng bày sang trọng, trang nhã, ấm cúng. Chúng tôi vừa ăn, vừa trò chuyện. Minh nhìn sâu vào mắt tôi:
– Nhạn nè, hôm nay đúng hẹn Nhạn trả lời câu hỏi của anh rồi đó.
Tôi bạo dạn hỏi lại Minh:
– Anh hỏi câu gì Nhạn không nhớ?
Minh tỉnh bơ nói thật lớn:
– Anh hỏi em có yêu anh không?
Tôi hoảng hồn nhìn dáo dác, xem có ai nghe không. Thật may mắn quá! Những bàn gần bàn chúng tôi chưa có khách đến ngồi. Tôi nhăn mặt:
– Hú hồn hú vía, không ai nghe, đỡ hết sức! Bộ anh muốn cho cả làng, cả nước nghe sao?
Tôi ngần ngừ, rồi nói tiếp:
– Anh Minh à, thật sự Nhạn rất khó trả lời anh.
Minh nhìn tôi không chớp mắt:
– Sao vậy? Chắc Nhạn có người yêu rồi?
Tôi tròn xoe mắt, xua tay, nói nhanh:
– Dạ chưa, dạ chưa có. Nhạn chưa quen ai và chưa đi chơi chung riêng rẽ với ai nhiều như đi với anh. Nhưng Nhạn chưa trả lời với anh hôm nay được, vì Nhạn sợ lắm. Để Nhạn nói anh nghe: Ba Nhạn hồi còn trẻ, một lúc ông có hai ba bà. Tội nghiệp, má Nhạn đau khổ lắm! Và trong vòng quen biết, Nhạn thấy ông nào cũng vợ hai vợ ba. Như ông Kính quản lý, ông Nhân y tá trưởng, ông Khai kho y dược. Anh coi đó, có người vợ nào muốn chồng mình như vậy đâu? Có người đàn bà nào muốn chia xẻ tình yêu cho người khác bao giờ? Còn nhiều việc lắm, nhiều việc có thể xảy ra bất cứ lúc nào khi hai người đã thành vợ thành chồng, gây ra cảnh gia đình tan vỡ, con cái khổ sở. Nhạn không giấu giếm và chắc chắn rằng mình rất ích kỷ trong vấn đề tình yêu. Tìm được một người phối ngẫu tâm đầu ý hiệp, chung thủy với mình khó bằng leo lên trời. Yêu thương mà lo sợ phập phồng và khổ sở như vậy thì yêu làm chi? Sống độc thân khỏe hơn, anh nghĩ có đúng không?
Minh trả lời gọn hơ:
– Không đúng! Bộ đàn ông nào cũng như những người mà Nhạn từng gặp hết hay sao? Cũng có biết bao cặp vợ chồng sống tròn đời tròn kiếp với nhau chớ. Có những ông rất chung thủy với vợ, hoặc những bà một lòng một dạ với chồng. Như chú Hưng của anh, khi thím qua đời thì ổng chưa đầy bốn mươi tuổi. Vậy mà ổng ở vậy nuôi con cho đến bây giờ vẫn chưa tục huyền. Còn nhiều, nhiều người chung thủy lắm. Đừng có lo sợ quá mà quơ đũa cả nắm, oan cho những người đàn ông khác, và tội nghiệp cho anh.
– Anh nói cũng đúng! Nhưng Nhạn đâu biết ai là người chung thủy? Ai không đổi dạ thay lòng với mình?
Giọng Minh trầm trầm, chắc nịch:
– Anh là một đứa trẻ mồ côi, anh thấm thía nỗi khổ đau thiếu tình thương của mẹ cha, của gia đình. Anh cũng đã chứng kiến những gì Nhạn đã nghe thấy. Anh cũng biết có những người chồng bê bối đánh vợ đánh con đến nỗi vợ con phải đi nằm nhà thương. Nhưng đờn ông trên đời nầy đâu phải ai cũng vậy. Và anh cũng không phải những người đờn ông tồi tệ đó. Cho nên Nhạn khỏi phải lo. Chấp nhận anh là chấp nhận cái nghèo, nhưng vợ chồng không đói. Anh hứa thương yêu, lo lắng cho Nhạn và gia đình trọn đời, trọn kiếp không bao giờ đổi thay.
Mặt Minh nghiêm trang, thành khẩn, đưa cao tay lên. Tôi vội chồm qua kéo tay anh xuống. Vì gần bàn chúng tôi bây giờ đã có lác đác khách ngồi ăn. Tôi nhăn mặt hỏi:
– Anh làm gì vậy?
– Anh thề để em tin.
Tôi cúi mặt e thẹn, nói nhỏ:
– Nhạn tin rồi, nhưng vẫn còn thấy ái ngại, chưa an lòng.
– Không ngại! Không ngại, mọi việc sẽ có anh lo cho em. Anh nói được thì sẽ làm được, em hãy an tâm. Vậy em chấp nhận lời cầu hôn của anh rồi phải không?
Minh nắm chặt tay tôi, chồm qua bàn, mắt mở to âu lo thành khẩn đợi chờ. Tôi rụt tay lại, mắc cỡ khẽ gật đầu. Mắt Minh sáng ngời, miệng anh lấp bấp “Cảm ơn Nhạn, cảm ơn em”. Rồi nhanh nhẹn anh bước sang phía tôi ngồi, ôm vai và bất ngờ hôn lên trán tôi. Tôi hoảng hồn đẩy Minh ra, gắt nhỏ:
– Bộ anh điên rồi sao? Họ nhìn kìa!
Rồi cả hai chia tay. Hai tuần lễ hạnh phúc trôi qua êm đềm như chiếc thuyền lướt trên dòng sông lặng sóng.
Chiều thứ sáu tôi về nhà ba má tôi. Còn Tuyết Oanh từ Sàigòn về nhà trọ tôi ngủ tạm, để sáng hôm sau dẫn đường cho toán người ruột thịt họ hàng của Minh đến giạm ngõ tôi. Bên ngoại Minh gồm có ông bà ngoại, cậu mợ, dì dượng; bên nội có bà nội (ông nội đã qua đời), chú thím, cô dượng. Tôi không biết đó có phải là đám giạm ngõ không. Nhưng hai bên dòng họ nhà tôi và dòng họ nhà Minh muốn gặp nhau để làm quen, để hai bên biết mặt tôi, mặt Minh: và họ nhà trai xin ba má tôi được định ngày làm lễ đính hôn cho chúng tôi.
Trước khi hai họ gặp nhau. Minh cho tôi biết là bà nội anh muốn làm lễ đính hôn trước ngày anh đi thụ huấn quân sự. Tôi hỏi Minh:
– Ý kiến đó của nội anh sao?
Minh vui vẻ nói:
– Dĩ nhiên trước hết là của anh rồi, và cũng là bên nội và bên ngoại anh. Họ muốn tống khứ cái thằng độc thân nầy có đôi có bạn để họ khỏi lo.
Tôi dẫy nẫy:
– Sao mau quá vậy? Mình quen chưa được hai năm, chưa tìm hiểu nhau rõ ràng hơn. Thôi, để anh đi học quân sự về rồi hẵng hay.
Minh mau lẹ nói:
– Không được! Không được, trước sau gì anh cũng cưới em, đính hôn trước khi anh đi thụ huấn quân sự để anh an lòng.
Hai tuần trước tôi về nhà cho ba má tôi biết gia đình bên Minh muốn lên thăm và xin hẹn ngày làm lễ đính hôn. Má tôi có vẻ không bằng lòng. Bà nói là Minh không cha mẹ, rủi sau nầy có gặp hoạn nạn gì thì không ai lo cho tôi; và nếu Minh làm chuyện có lỗi sẽ không ai phân xử, rầy la chàng. Ba tôi cười ngất:
– Bà lo chuyện gì đâu không. Dẫu nó có là con trai ruột của bà đi nữa, mà nó lầm lỗi rồi thì mình cũng không làm gì được nó cả. Bà ngoại cứ sợ Tuyết Nhạn cưng của bà ở vá, bây giờ có người xin giạm hỏi thì bà sẽ mừng ra mặt cho mà coi. Thôi, bà cũng đã thấy thằng Minh rồi, nó đàng hoàng, mặt mày cũng dễ nhìn, chỉ có điều là con mồ côi thôi. Nhưng quan trọng chăng là ở tánh tình nó và ở chỗ con mình có hợp tánh với nó không? Bây giờ môn đăng hộ đối đã lỗi thời rồi bà ơi! Thời buổi nầy, con mình ưng đâu thì mình gả đó, bà còn kén chọn kỹ sư, bác sĩ hoặc ông cống ông nghè gì nữa?
Nghe ba có lý, má gật đầu bằng lòng. Tôi thỏ thẻ:
– Gia đình bên nội và bên ngoại anh Minh tản cư mấy năm nay, nên cuộc sống của họ không được khá, ba má đừng đòi hỏi nhiều ở người ta. Còn đám hỏi, mình không cần phải làm rình rang như của chị Tuyết Hồng và chị Tuyết Loan. Tổ chức thân mật trong vòng gia đình là được rồi má à.
Má tôi trợn mắt:
– Má ba không đòi hỏi gì ở họ thì thôi chớ. Còn đám tiệc má có làm lớn đi nữa cũng có tốn kém hay mắc mớ gì họ đâu mà con ngại dùm cho họ?
Tôi nhìn ba cầu cứu. Biết ý tôi, ba nhẹ giọng:
– Thôi bà à, con nó nói cũng phải. Thời buổi nầy củi quế, gạo châu, đám hỏi cần làm chi cho lớn. Vì con nó thương bà, sợ bà cực đó thôi. Vậy đám hỏi chỉ cần mời trong vòng bà con, dòng họ thôi, tới khi làm đám cưới thì vợ chồng mình mời đông. Thôi, cứ như vậy đi, bà có bằng lòng không?
Má tôi miễn cưỡng gật đầu.
Nhà tôi mấy hôm rày rộn ràng lắm. Má tôi cùng chị Bảy bận rộn từ sáng tới chiều. Vì lâu lắm gia đình tôi mới có dịp sum hợp đông đủ như vầy, nên bà vui vẻ cho nấu nướng những món ăn mà năm cô gái cưng của bà ưa thích. Và nhứt là bà mừng vì sắp gả chồng cho con bé ròm Tuyết Nhạn của bà. Vợ chồng chị Tuyết Hồng và hai cháu tôi về mấy ngày trước. Bụng chị lúp xúp đội áo vì chị đã mang thai hơn ba tháng. Chị Tuyết Loan thì nặng nề, è ạch vì hai tháng nữa chị sẽ sanh con đầu lòng. Thấy chị và anh Toàn đầm ấm, ba má tôi rất vui mừng. Mấy tháng rồi, tôi không gặp Tuyết Nga; hai chị em tôi luôn về thăm nhà, nhưng không trùng ngày. Cô Út nhà tôi hôm nay thật điệu, tóc uốn của cô khi thì thả dài bồng bềnh trên vai, khi thì cô cột cao để phơi chiếc cổ trắng ngần. Cô diện áo tay phùng màu hồng tươi và quần tây màu sô-cô-la bó sát, chơn đi dép nhung đen. Tuyết Nga nói cười dí dỏm, hoạt bát, nhí nhảnh, yêu đời. Tôi nghĩ thầm: “Mau thiệt, còn mấy tháng nữa con nhỏ thi chứng chỉ Cử nhân hai rồi. Nhớ thuở nào, mỗi lần bị rầy một chút là nó vừa khóc, vừa la và vừa dẫy đành đạch, nhỏng nhẻo không ai chịu nổi. Bởi cô ta biết mình là út nên được cưng chiều. Bây giờ, càng lớn con bé càng xinh, chắc chắn ai trông thấy cũng thầm khen”.
Tuy mới là đám giạm hỏi thôi, nhưng nhà trai cũng mua sắm lễ vật trang trọng. Ba má tôi đãi họ nhà trai cũng tươm tất linh đình. Mặc dù không có mời xóm giềng, nhưng gia đình mấy dì mấy cậu đến dự cũng đông. Chú của Minh trình ngày làm lễ hỏi. Ba má và ông bà ngoại tôi rất vui lòng, nhưng ba tôi ra điều kiện:
– Thưa họ nhà trai, tôi xin nói rõ nguyên tắc của gia đình chúng tôi: hễ làm đám hỏi thì trong vòng ba tháng phải làm đám cưới chớ không được để lâu hơn. Còn nếu không tiện làm đám cưới trong vòng ba tháng, thì dời ngày đám hỏi lại chừng nào cũng được.
Minh bước đến nhỏ to gì với chú của anh. Ông ta mỉm cười, quay qua nói với bà nội, và ông bà ngoại của anh, rồi quay sang họ nhà gái nói:
– Thưa họ nhà gái, bởi cháu Minh nài nỉ họ nhà trai chúng tôi bằng lòng cưới trong vòng ba tháng như hạn định, nghĩa là từ đám hỏi đến đám cưới trong vòng ba tháng như yêu cầu của họ nhà gái.
Sở dĩ ba má tôi đòi hỏi nhà trai, hỏi xong thì phải cưới gấp vì ông bà cũng có cái lý riêng. Ba tôi thường chỉ cho chúng tôi thấy những gia đình có con gái đính hôn xong, kéo dài đôi ba năm. Rồi vì một lý do gì đó nhà trai hoặc nhà gái lại từ hôn! Bên nhà trai hay nhà gái gì cũng thế,tội cho người lớn, mất mặt với xóm làng và hại cả đời duyên con cái, nhứt là con gái của người ta.
Thế là còn ba tuần nữa lễ đính hôn của tôi và Minh, một tuần trước ngày Minh đi thụ huấn quân sự. Và sau khi chàng thụ huấn quân sự trở về thì chúng tôi thành hôn. Sự việc đến với tôi hết sức đột ngột, Minh như hiểu ý, bảo tôi đừng lo, để anh lo hết mọi thứ.
Bà nội của Minh đưa những kỷ vật cuả má anh trước khi qua đời để lại cho anh: Đôi bông búp vàng, xâu chuỗi vàng và cặp vòng đeo tay chạm trổ rất đẹp. Những món đồ nầy được bà cất giữ lâu năm nên ngã màu tái méc và móp méo hết trơn. Bà nói với Minh:
– Cháu đem những món nữ trang nầy đổi lại cái khác để làm sính lễ cưới vợ. Lúc chị Hai cháu có chồng, bà cũng đã lấy ra cho nó chút đỉnh rồi. Bây giờ cháu sắp thành gia thất, bà vui mừng và yên lòng lắm. Tội nghiệp ba má cháu, tụi nó mà còn sống thì đám cưới của cháu sẽ lớn. Con trai thì nhờ đức mẹ. Cháu học hành nên người, giờ tìm được vợ thuộc con nhà gia giáo, lại còn xinh đẹp đàng hoàng là nhờ má cháu ăn hiền ở lành. Từ ngày má cháu về làm dâu nhà nầy, nó chưa làm mất lòng ai hết. Kính trên nhường dưới, giúp đỡ mọi người trong gia đình, nên nó được sự quý mến của họ hàng bên chồng. Với bà, thì không có cảnh hục hặc giữa mẹ chồng và nàng dâu. Trong tất cả các con dâu, bà thương má con nhiều hơn. Nhưng tội nghiệp! Phần số nó ngắn ngủi quá!
Nói đến đây mủi lòng, bà kéo khăn lau nước mắt. Minh không nói gì, mắt u buồn, cầm từng món đồ lên ngắm nghía rồi gói lại, đưa cho bà:
– Nội hãy cất để dưỡng già. Mấy năm nay cháu đi dạy học có dành dụm một ít tiền. Tuyết Nhạn và nhà gái không đòi hỏi gì, nên cháu có đủ tiền để cưới vợ. Bà và gia đình các cô, và các chú không phải bận tâm.
Trước mấy ngày lễ hỏi, Minh chở tôi đi mua nữ trang. Tôi chỉ Minh mua cặp bông tai lá lan có cẩn cẩm thạch hạt dưa xanh biếc và cặp nhẫn trơn bằng vàng pha đồng cho tôi và cho Minh. Minh nhìn tôi hỏi:
– Em sắm như vậy đủ rồi sao?
– Đủ rồi, đeo vòng vàng nhiều coi rườm rà bề bộn lắm!
Minh không nói gì, bảo bà chủ tiệm đem ra mấy đôi bông bằng loại đá quý. Nghe giá cả từng đôi bông, tôi giựt mình dẫy nẫy không chịu. Minh cười, nói nhỏ chỉ để tôi nghe:
– Việc cần tiêu xài, thì phải xài, không thể hà tiện được. Đôi bông tai là duyên con gái, anh muốn mua hột xoàn quý và đẹp cho em; em phải lựa mặt giây chuyền và giây chuyền; còn cặp vòng tay nữa.
Tôi nhăn mặt hỏi:
– Mua chi nhiều dữ vậy?
– Có gì nhiều đâu, cô dâu mà cổ và tay trống trơn coi kỳ lắm. Em lựa đi.
Đám hỏi tôi chẳng những không làm đơn giản, mà má tôi còn làm rình rang linh đình trội hơn đám của hai chị tôi nữa. Má tôi nói:
– Trong đời người con gái, việc cưới hỏi rất là quan trọng. Ba má có dư sức làm thì tại sao phải hà tiện? Ngày rỡ mặt rỡ mày của gia đình mình mà. Dù cho má ba không làm lớn thì ông bà ngoại cũng bắt phải làm lớn. Thôi thì hãy để người lớn lo, con đừng có lộn xộn.
Ngày đính hôn của tôi chỉ có anh chị Hai và các cháu cùng anh Ba về dự đám, còn chị Ba gần ngày sanh, bác sĩ dặn không được đi xa. Cho nên tiệc hỏi xong, nhà trai xin phép ra về thì anh Ba cũng về Cần Thơ ngay sau đó. Hai cô em tôi thì điệu ơi là điệu, lòe loẹt quần nầy áo kia, nhưng tiếc là không có chàng trai nào để ngắm nghía hai cô.
Sau ngày đám hỏi, Minh chở tôi đi thăm gia đình chị Hai của anh. Nhà chị ở Chợ Gạo. Hôm đám hỏi chúng tôi chị không đến dự được vì đang nằm sanh đứa con thứ chín. Gia đình nhìn bề ngoài thấy khá, nhưng với chín đứa con, sống nhờ vào miếng vườn nhỏ cộng với tiền lương lính của chồng mà gia đình chị được tươm tất. Phải nói chị Hai của Minh là người đàn bà giỏi và vén khéo.
Hôn phu tôi đi học quân sự. Cuối tuần nào rãnh chàng cũng về thăm tôi. Chàng là người tế nhị, lo lắng đến tôi đủ mọi điều. Ở bên chàng tôi rất an tâm vững dạ, chàng chân thật và tôn trọng rất nhiều tư tưởng và quan niệm của tôi.
Chúng tôi đã làm đám hỏi. Ngày thành hôn cũng không xa. Và việc thành vợ chồng của chúng tôi gần gũi trong gang tấc. Nhưng tôi giao trước với chàng là mỗi khi chàng về Mỹ Tho thăm tôi thì ở nhà chị Diệu Tâm. Còn nhà tôi trọ, chàng không được ở đêm, và chàng có thể đến thăm tôi bất cứ lúc nào nhưng không được vào phòng riêng của tôi trước ngày thành hôn. Hai con tài lanh Thu Trinh và Thúy Hiền nghe tôi kể tôi đặt điều kiện với hôn phu tôi như vậy, tụi nó cười sặc sụa và nói với tôi rằng:
– Bà Tuyết Nhạn ơi! Bây giờ là thời đại gì rồi? Mà bà khắc khe với hôn phu bà dữ vậy? Gặp tao là hôn phu mầy hả? Còn khuya, tao cho mầy đi tàu suốt luôn… Nghĩa là bọn tao không thèm đi cưới cái mặt mầy đâu, bộ trên cõi đời ô trọc nầy hết con gái rồi sao?… Anh chàng Minh của mầy thiệt tình! Cũng không thua gì mầy! Nồi nào úp vung nấy có khác …
Tôi cười hì hì:
– Ấy vậy ảnh mới trân quý tao hơn, nếu tao mà quan niệm tự do luyến ái như những cô gái khác thì đời nào ảnh cầu hôn với tao…
Hai ông anh họ tôi vừa tốt nghiệp ở nước ngoài về, biết chuyện, họ cũng lắc đầu chép miệng cười:
– Bọn ta chưa biết anh chàng Minh của mi ra sao? Nhưng nếu là ta, chỉ mới là người yêu thôi, mà đặt điều kiện như mi thì ta cho số de liền, đừng nói chi đến đính hôn…
Tôi nheo mắt, trề môi cười:
– Xì, anh Minh của em mà như mấy anh hả? Còn khuya em mới ưng, và em sẽ cho ảnh de trước khi ảnh cho em de… Em biết em cù lần! Em bảo thủ! Không tiến bộ như các anh, như các cô gái tân thời. Cái gì em chưa cầm chắc ở trong tay thì chưa phải là của em. Em phải thủ thân chớ! Vì lỡ có chuyện gì xảy ra em sẽ là người chịu thiệt thòi trước. Em nói thí dụ nghe. Khi anh đi cưới vợ, nếu anh biết vợ tương lai của anh đã thất thân với người khác rồi, anh nghĩ thế nào?
Những việc gì tôi không an tâm, tôi kể Minh nghe, chàng chỉ vẽ, chàng bày giải một cách rõ ràng. Việc gì khó khăn, với tôi chàng cũng lo lường tận tâm và chu đáo.
Tôi không có anh em trai, nên không có được sự chở che lo lường, chiều chuộng, thương mến của người khác phái xấp xỉ tuổi mình. Giờ đây có Minh thương yêu chăm sóc, tôi cảm thấy vững tâm và hạnh phúc vô cùng. Những nỗi âu lo trước ngày đính hôn không còn nữa. Tôi khám phá ra rằng, mình yêu thương chàng càng lúc càng sâu đậm hơn lúc tôi còn ở trước ngưỡng cửa tình yêu thuở gặp gỡ nhau.
Sau khi tôi đính hôn với Minh, thì hai nhỏ Thu Trinh và Thúy Hiền viết thư ì sèo. Thu Trinh cho biết: “Tao không ưa mụ chị dâu của tao. Bả điệu ơi là điệu, lại kiêu kỳ. Phải chi mầy chịu làm vợ anh tao thì tao đâu có ứa gan, ngứa phổi khi gặp mụ ta. Tại mầy cà chớn, tao oán mầy thấu xương đó Tuyết Nhạn à”. Còn Thúy Hiền: “Thôi rồi, kể từ bây chừ tau mất một con bạn có thể trút bầu tâm sự rồi. Mi lấy chồng thì tau mừng cho mi, nhưng buồn cho tau”.
Mỗi khi Minh không về phép thăm tôi, tôi dã dượi muốn đau, cứ nằm hoài trong buồng. Hai con Ánh Ngọc và Vân Anh rủ rê tôi đi đây, đi đó: – Tuyết Nhạn ơi, rạp Định Tường hôm nay chiếu phim “Love Story” hay lắm, đi coi nghen. – Không đi! – Tuyết Nhạn ơi, mình đi Vòng Nhỏ ăn bánh giá, ăn cháo lòng. – Tao không đói! – Tuyết Nhạn ơi, mình đi Ngã Ba Trung Lương mua mận hồng đào, ăn bánh bao chiên nghen. – Đi làm khỉ gì! – Tuyết Nhạn ơi, mình đi cồn ông Đạo Dừa chụp hình, và ngắm cảnh chiều xuống. – Thôi cho tao xin hai chữ bình an, bây để tao yên có được không?
Cả hai con bạn thần nanh mỏ đỏ kia xúm lại rủa tôi:
– Con mắc dịch. Hôn phu mầy không về phép chớ nó có đá đít mầy đâu mà mầy sừng sộ với tụi tao?
Cả hai gia đình (bên Minh và bên tôi) đều rúng động vì cái quyết định của Minh. Thay vì thụ huấn quân sự xong chàng trở về dạy học như những đồng nghiệp khác. Nhưng trước ngày mãn khóa, ban tuyển mộ không quân đến khóa học tuyển mộ quân cho binh chủng mình. Minh đã tình nguyện và được chấp nhận sau khi khám sức khỏe và hội đủ điều kiện của binh chủng nầy.
Cuộc nội chiến của quê hương lúc bấy giờ càng sôi động hơn. Nhiều người trốn quân dịch, lắm kẻ tìm đủ lý do để được hoãn dịch. Vậy mà Minh tình nguyện! Sự việc nầy ba má tôi và bên gia đình nội ngoại Minh phập phồng lo sợ những việc không may có thể xảy đến bất cứ lúc nào cho chàng và tôi! Còn tôi thì khác. Tôi nghĩ rằng, mọi sự việc trên cõi đời nầy đều có sự an bày của Thượng Đế. Nếu số mình phải gặp chuyện gì vui tươi, hạnh phúc hoặc buồn đau, khổ sở thì không thể nào mình tránh khỏi.
Đám cưới chúng tôi được đình lại chờ Minh đi học xong khóa chuyên môn về ngành đào tạo các quan sát viên tại trường phi hành ở Nha Trang, khóa pháo binh ở Dục Mỹ. Ba má tôi, dòng họ chàng dù có buồn lo rồi cũng quên mau. Họ còn trăm ngàn thứ lo khác, chẳng hạn như hoàn cảnh đời sống riêng tư của mỗi người. Chỉ có tôi, tôi nhớ thương chàng vò võ. Với tôi, không có niềm vui nào bằng nhận được những cánh thư chàng từ quân trường gởi về. Tôi không buồn và trách móc về sự chọn lựa của chàng. Minh có tâm hồn và lý tưởng cao đẹp như vậy, làm sao tôi phiền trách được? Tôi cảm thấy lòng mình càng thương yêu cảm phục chàng hơn lúc chàng đi dạy ở gần nhà, gần tôi. Trong thâm tâm tôi, đàn ông có bao nhiêu là trách nhiệm. Cái thế giới lý tưởng của đàn ông gồm có quốc gia, dân tộc, tương lai, sự nghiệp. Tôi ở trong thế giới của Minh, chỉ chiếm một góc thật nhỏ xíu mà thôi. Còn thế giới riêng tôi chỉ có một người đàn ông duy nhứt chính là Minh. Minh là tất cả! Chàng bao la, hùng vĩ, không ai có thể sánh bằng.
Sau khi tốt nghiệp các khóa học, Minh được về phục vụ phi đoàn 112 ở Biên Hòa. Hôm nào cuối tuần được nghỉ, chàng về ngay dưới Mỹ Tho. Nếu không về được vào cuối tuần thì mỗi khi ra phiên gác, chàng bươn bả về gặp hôn thê của mình. Chúng tôi sống trong hạnh phúc tình yêu, nhìn đời bằng màu hồng xán lạn.
Minh ở trọ trên căn gác trống, trong ngôi nhà bà dì của người bạn chàng, hồi cả hai còn học sư phạm. Chỗ ở nầy chỉ để Minh làm nơi nghỉ ngơi tắm rửa, chớ không nấu nướng chi cả. Anh gặp đâu ăn đó, dù biết rằng ăn hàng, ăn chợ không tốt cho sức khỏe. Ít ra cũng phải ăn cơm tháng. Nhưng giờ giấc làm việc, và những chuyến công tác bất thường không cho phép chàng ăn ở một nơi nào cố định.
Nếp sống chàng êm đềm, được bồi đắp bằng ý chí và lý tưởng cao đẹp của một người trai thời loạn, và được vun quén bằng hạnh phúc tình yêu. Tôi yêu thương chàng vô cùng, và hãnh diện được làm vợ chàng. Với tánh tình bình dị, nhúng nhường nên đi đến đâu chàng cũng được nhiều cảm tình và sự quý mến của những người chung quanh. Chỉ còn hai tháng nữa, chúng tôi sẽ thành hôn trong sự hoan hỉ mong muốn của gia đình hai bên. Hạnh phúc ngập tràn trong tim chàng và tim tôi.
Hôm qua tôi trực, hôm nay được nghỉ ở nhà. Vân Anh về ăn cơm sớm để vào ca trực tối nay. Vừa ăn cơm, nó vừa càm ràm nói với tôi:
– Thiệt tình, cái thằng cha y tá trưởng cà chớn nầy sắp thời khóa biểu lạ đời. Hôm nay tao trực, sáng mai ra trực, mà thằng chả bắt tao chuyển bịnh nhân đi Sàigòn. Chắc trước khi sắp thời khóa biểu, thằng chả bị vợ đánh nên quên đầu quên đuôi ráo trọi, mới báo hại tao như vầy.
Tôi cười:
– Tại mầy không khiếu nại khi ra thời khóa biểu, cứ để cả tuần; ổng tưởng mầy bằng lòng. Bây giờ mầy cằn nhằn gì nữa?
Tôi bỗng dưng nẩy ra ý kiến, hỏi Vân Anh:
– Mai, mấy giờ mầy đi chuyển bịnh?
– Thứ bảy mà, thường lệ thì giao phiên trực cho người khác xong là đi ngay. Mà mầy hỏi chi vậy?
– Cuối tuần nầy Minh bận trực. Phép dồn hết cho ngày đám cưới thêm nhiều một chút, nên ảnh không về, tao muốn lên ghé nhà trọ ảnh để đem đồ ăn và bánh trái do bà nội ảnh gởi cho tao chiều hôm qua, vì bà cụ tưởng tuần nầy ảnh về. Tao sẽ đi Sàigòn với mầy. Đêm nay, mầy trực còn mệt, nên sáng mai nếu đi với mầy, có gì cần tao sẽ phụ cho. Mầy có thể ngủ trên xe bận đi bận về thoải mái.
Vân Anh vui ra mặt, nhướng nhướng cặp chân mày, cười híp mắt:
– Thật mầy tốt quá xá là tốt Nhạn à! Anh trai tao không xứng đáng với mầy nên tao im miệng. Chớ phải chi ảnh ngon lành thì Tết Công-gô anh chàng Minh mới cưới được mầy! Cảm ơn mầy lắm lắm, nhớ mai đến sớm trước giờ nghen.
Xe đến Sàigòn mới 9 giờ sáng. Tôi bảo bác tài xế dừng lại ở ngã tư đường gần nhà trọ của Minh để tôi đi bộ đến đó. Tôi quay lại nói với Vân Anh:
– Hôm nay Minh đi trực không có ở nhà, tao lên gác để lại đồ ăn, rồi viết miếng giấy cho ảnh biết. Xong, tao sẽ đón xe đến bịnh viện ngay để gặp mầy. Mầy làm thủ tục giao bịnh chưa xong là tao tới liền. Nhớ đợi tao nhe. Bộ bác tài và mầy không mua sắm ở ngoài chợ Sàigòn hả?
– Tao không biết ông tài xế có cần mua gì không? Còn tao, sau đêm trực là tao ngất ngư gần chết rồi, chỉ muốn ngủ thôi, còn lòng dạ gì mà mua sắm nữa.
– Thôi như vậy đi, tao sẽ đến sớm. Tao không có ý kiến chi hết, vì hôm nay mầy là xếp mà.
Vừa đến cổng rào nhà Minh trọ, tôi gặp bà chủ nhà tay dắt con, tay xách giỏ đi chợ. Bà vui vẻ lịch sự chào hỏi tôi, và cho biết Minh về đây hồi sáng, vừa mới đi loanh quanh đâu đó. Tôi hơi lấy làm lạ, nhưng nghĩ chắc là bà nhớ lộn hôm nào rồi. Tôi mở cửa bước vào, thấy quần áo phi hành, nón giầy còn nằm ngổn ngang trên giường. Đặt xách đồ ăn trên bàn, tôi xếp giầy vớ để dưới gầm giường cho ngay ngắn, máng quần áo lên móc cho gọn gàng, viết mấy chữ trên mẫu giấy nhỏ rồi dằn kế bên giỏ đồ ăn. Xong đâu vào đó tôi đi ra khóa trái cửa lại, xuống đường định gọi xe lại bịnh viện nơi hẹn với Vân Anh. Thay vì đến sát lề lộ để gọi xe, tôi đổi ý đi qua mấy hàng quán dọc theo đường.
Sáng cuối tuần, giờ nầy các quán hàng trong những dãy phố nhỏ chưa đông khách. Tôi đi qua các hàng quán, đến quán cuối ở góc đường, thấy ai đứng quay lưng ra giống Minh quá! Tôi quay trở lại, nhìn kỹ lần nữa! Thì đúng là anh! Tôi sựng lại và bất động như bị trời trồng! Minh đang ôm một người phụ nữ lạ! Trời ơi! Tôi thật bối rối quá! Tôi nửa muốn vào, nửa muốn bỏ đi luôn. Một luồng khí lạnh chạy khắp người tôi. Nước mắt tôi chực trào ra. Theo phản ứng tự nhiên, tôi đi thẳng vào tiệm, qua ngang chỗ hai người rồi quay trở ra. Tôi muốn cho Minh thấy tôi, nhưng anh không để ý. Nên khi đi ngang chỗ hai người, tôi cố tình đánh rơi chiếc xách tay, để dừng lại khom lưng xuống lượm. Thấy tôi, Minh sửng sốt, xô cô gái ấy ra. Lúc đó không còn suy nghĩ gì nữa cả, tôi như bị ma đuổi, cắm đầu chạy mau ra khỏi quán. May mắn gặp ngay chiếc ta-xi, tôi lên xe bảo tài xế chạy mau đến chỗ hẹn với Vân Anh.
Suốt quãng đường về Mỹ Tho, bác tài xế chăm chú lái xe, Vân Anh ngủ gà ngủ gật, còn tôi thì nước mắt đoanh tròng, tâm trí rối rắm tê dại. Tôi lờ đờ quờ quạng như kẻ mất hồn. Bác tài xế hỏi tôi sao vậy? Tôi trả lời bác là bị cảm nên nước mắt sống và nước mũi cứ chảy hoài. Bác có vẻ tin lời tôi nên chăm chú lái xe không hỏi nữa.
Bình thường tôi là một đứa rất cứng đầu, tâm sự của riêng mình tôi ít cho ai biết, hoặc kể ai nghe. Làm thinh để chôn tâm sự trong lòng mà tôi thấy dễ chịu hơn là nói ra cho người khác biết. Vì rồi nếu mỗi người một ý kiến, mỗi người một câu, tam sao thất bổn sẽ làm cho tôi quẩn trí thêm lên.
Xe về đến bịnh viện, tôi nói với Vân Anh là có chút việc, chưa về nhà được, có lẽ sẽ về tối lắm, và không cùng nó ăn cơm chiều nay. Bụng tôi đang no cành hông rồi, còn ăn nổi gì được nữa?
Tôi đi ra các dãy quán hàng dọc theo bờ sông ven đường Trưng Trắc. Vào quán giải khát, tôi lựa một chỗ ngồi khuất bên trong, gie ra bờ sông để tìm lại sự yên tĩnh trong tâm hồn. Dòng sông êm đềm chảy xuôi, mà đầu óc tôi thì rối bù, tưởng chừng như trong đó chứa toàn là cát và đá cục. Tôi gọi ly cà-phê phin, vừa ngồi uống, vừa nghe tân nhạc trong băng cassette từ máy phát ra. Tôi gọi uống thêm mấy ly cà-phê phin nữa, và nghe thêm mấy băng cassette nữa. Từ lâu, tôi mê tiếng nhạc du dương, lời ca trữ tình ca ngợi về tình yêu. Tôi đắm hồn mình trong giọng ca của các ca sĩ Giao Linh, Xuân Sơn, Hoàng Oanh, Phương Dung, Nhật Trường, Duy Khánh, Hùng Cường: “Anh đi, để tình nước thêm vững bền, để cuộc sống thêm bình yên…” Hoặc: “Ngày anh xa vắng, em không trang điểm đợi chờ…” Hay: “… Dẫu biết cho rằng chàng là người trai chiến đấu, dẫu biết cho rằng chàng là người hay phiêu lưu…Tôi đã yêu chàng vì chàng là…”
Tôi cười gằn và tự trách: rõ ràng là mình điên thiệt, lại mơ mộng hão, lại nghĩ viễn vong. Thật là ngu dại quá mới nghe những lời đường mật ở chót lưỡi đầu môi đó. Ông chủ quán và các người chạy bàn nghe thấy tôi miệng lẩm bẩm một mình, mặt mày hốc hác, thẫn thờ chắc chắn họ sẽ thắc mắc ngạc nhiên, nghĩ là cô gái trẻ nầy “mát giây”. Tôi đứng lên trả tiền, rồi bước ra khỏi quán.
Tôi thất thểu trở về nhà trọ với những bước đi vô hồn quạnh quẽ. Phố xá đã lên đèn từ lâu. Ánh đèn vàng úa, bóng đèn mắc trên cột đá chơ vơ lạnh ngắt. Cơn gió lướt nhẹ qua, tôi rùng mình tiếp tục đi trên những con đường mà hàng ngày ít có dịp đi ngang. Tôi đi ngược lên dốc Cầu Quay, rẽ trái đường Đinh Bộ Lĩnh, gặp đường Lê Lợi, qua Bịnh Viện III Dã Chiến. Anh lính quân y gác ở cổng rào, hát nho nhỏ, nhưng tôi vẫn nghe được: “Người nơi khu chiến thương người hậu phương, thương màu áo gởi ra sa trường…’” Tôi cười nhẹ, cúi đầu bước đi nhanh hơn. Giọng hát của anh hay lắm, nhưng thật không đúng chỗ, không đúng thời gian, nên tôi nghe sao trơ trẻn quá!
Đến đường Hùng Vương, tôi quẹo qua phải để đi thẳng về nhà, thì gặp Minh ở đâu trờ tới. Tôi giả bộ tỉnh queo, không hỏi han, không ngó ngàng gì tới anh và cũng không nói năng chi cả. Tôi bước đi tự nhiên như không hề quen biết anh bao giờ. Đó là cái cứng đầu của tôi, khi giận quá độ thì tôi đâm lì ra, cho nên chị Tuyết Loan thường nói: “Con nhỏ Tuyết Nhạn ghét ai, giận ai thì mặt nó phớt tỉnh Ăng-Lê. Không ai biết nó đang nghĩ gì?”.
Minh đi sát tôi và nắm tay tôi. Tôi giựt tay lại, lườm Minh rồi đi tiếp. Minh bước mau, chắn ngang lối trước mặt. Tôi không nói gì hết, rẽ qua bên kia đường tiếp tục đi. Minh đi lẹ hơn, cản trước mặt tôi:
– Em đi đâu cả buổi chiều nay? Anh tìm em khắp nơi. Sao em không nói gì với anh hết vậy?
Tôi trợn mắt ngó Minh:
– Đi đâu kệ tôi, anh kiếm làm gì? Còn gì để nói nữa đâu?
Minh khổ sở:
– Sao em không hỏi anh cô ấy là ai? Tại sao cô ta tựa vào ngực anh?
– Chuyện đó của anh, mắc mớ gì tới tôi mà tôi hỏi?
– Sao không mắc mớ? Em là hôn thê của anh mà, em có quyền biết, có quyền hỏi.
– Cảm ơn! Kể từ sáng hôm nay, tôi không còn là hôn thê của ai hết. Anh đi ôm người khác nữa đi, đừng theo tôi lải nhải hoài, làm ơn để cho tôi yên.
Minh nhìn sâu vào mắt tôi, dịu giọng:
– Bộ em ghen hả?
– Còn lâu! Tôi mà ghen? Anh là cái gì mà để tôi ghen?
Minh choàng tay lên vai tôi, tôi đẩy mạnh ra:
– Ai anh cũng có thể ôm được hết. Nhưng tôi thì không. Đừng có đụng đến tôi, lòng dạ anh làm tôi ghê sợ!
Minh vẫn nhỏ giọng:
– Làm gì có?
Tôi gay gắt, chanh chua:
– Còn không có? Giữa thanh thiên bạch nhựt, hai người ôm xà nẹo với nhau! Vậy mà còn chối?
Minh, giọng buồn buồn:
– Thôi đừng giận anh mà, anh có làm gì đâu?
– Có làm gì thì anh biết, đừng có hỏi tôi? Thôi nghe, nếu anh còn biết tự trọng, còn chút lương tâm, thì để tôi yên. Anh hãy đi đi, đừng theo quấy rầy tôi nữa.
Minh cương quyết bước tới chắn lối đi, và ôm vai tôi nói từng lời chắc nịch:
– Quan tòa xử tử phạm nhân, còn cho luật sư biện hộ. Em muốn kết tội anh thì phải cho anh giải thích chớ!
Tôi tức muốn nín thở, trợn mắt nhìn thẳng vào mặt Minh, rồi gỡ tay anh ra khỏi vai tôi, gằn từng tiếng một:
– Được, giải thích gì thì anh giải thích đi, giải thích mau lên rồi đi ngay. Tôi không muốn thấy mặt anh nữa.
– Anh biết tại anh xui xẻo. Tội bạc tình thì có nước sông Cửu Long cũng rửa không hết. Nhưng anh xin em để anh nói xong rồi định tội anh sao cũng được. Em có biết là anh liên tiếp trực luôn hai ca không? Ca trực đầu là phần anh, còn ca kia, anh thay thế cho người bạn, bởi vì đêm qua vợ nó sanh đứa con đầu lòng. Và sáng nay anh về dưới Mỹ Tho mà tuần rồi anh nói với em vì bận anh không về. Trên đường anh đứng chờ xe, bất ngờ anh gặp lại cô học trò cũ. Cô ta là con bà chủ nhà trọ lúc anh mới về dạy học ở Bến Tre. Mấy năm nay, nghe gia đình họ tản cư về Sàigòn, nhưng anh không gặp họ. Tháng rồi, xem báo thấy tên họ người đàn bà tử nạn vì mìn giặc trên đường Mõ Cày – Kiến Hòa. Tên nạn nhân giống như tên bà chủ nhà trọ năm xưa, tức là má cô gái hồi sáng mà em thấy đó. Nghe anh hỏi thăm, cô ta cho biết là đúng như vậy. Má cô đã chết. Trong lúc xúc động, cô ngã vào ngực anh, chớ anh có làm gì đâu.
Minh nhìn tôi van nài, chờ câu trả lời của tôi. Tôi hậm hực dằn từng tiếng:
– Anh nói xong rồi phải không? Vậy bây giờ tôi đi được chớ?
– Em tuyệt tình tàn nhẫn vậy sao? Anh đã nói hết lời mà em vẫn không tha thứ cho anh. Anh không ngờ Tuyết Nhạn của anh dịu dàng hiền hậu mà bây giờ lại dữ dằn, vô lý, không biết phân phải trái, lại không nghe lời anh phân tỏ.
– Tôi tàn nhẫn, tôi tuyệt tình? Ai mà biết được trước đó mấy người ở đâu, làm gì? Mấy người bịa chuyện nhưng đố ai kiểm chứng được? Tôi không đòi hỏi hoặc tranh giành với ai. Tôi cũng không bắt buộc ai như mình. Xin anh hãy để yên cho tôi sống với riêng tôi, một cuộc sống bình thường và an phận, không âu lo phiền muộn. Yêu mà khổ như vậy thì nên chấm dứt cho rồi. Tại sao tôi phải dây dưa với anh? Rồi lần sau, lần sau, lần sau nữa! Làm sao tôi biết anh ôm bao nhiêu cô gái khác sau lưng tôi? Tôi biết tôi ích kỷ, tôi không chấp nhận chia xẻ tình yêu với bất cứ một ai. Người tôi yêu và người yêu tôi phải là của tôi. Tôi không mời mọc anh, tôi không dụ dỗ anh, tôi không đốc xúi anh. Sao anh đã có người khác rồi, mà còn trêu chọc tôi, đi hỏi tôi chi vậy? Tôi dữ dằn? Tôi vô lý? Chính anh lầm lỗi mà anh còn cứng miệng! Anh hối hận rồi phải không? Hãy còn kịp mà! Ngày mai tôi sẽ trả đồ đính hôn lại cho anh! Trên đời nầy có thiếu gì các cô gái đẹp, dịu dàng, anh mặc sức đi tìm họ đi! Anh hãy đi mau cho khuất mắt tôi, đừng theo tôi nữa. Tôi thù anh! Tôi hận anh!
Minh khổ sở, thiết tha:
– Anh xin thề không có lần sau! Hãy tha thứ cho anh đi Nhạn. Anh có làm gì không phải với em đâu? Trong đời nầy có nhiều cô gái xinh đẹp, dịu dàng, nhưng trong lòng anh chỉ có em thôi! Anh càng ngày càng thương em nhiều hơn.
Tôi vẫn cương quyết:
– Cảm ơn! Không cần đâu, coi như mình chấm dứt nơi đây. Anh có cái tự do của anh. Anh và tôi cũng không còn gì ràng buộc nữa. Đường ai nấy đi!
Minh mím chặt môi, mắt chòng chọc nhìn tôi, nói như nện từng tiếng:
– Được! Em nói vậy thì anh tuân lịnh. Anh đi ngay đây, cho em vừa lòng.
Minh cắm đầu đi nhanh ngược chiều với tôi như chạy. Còn tôi thì tâm hồn rã rời, khổ sở thất thểu đi về mà nước mắt uất nghẹn tuôn ướt đẫm cả má.
Giàn hoa thiên lý trước nhà đắm chìm trong ánh sáng nhạt nhòa của đêm rằm trăng sáng bị mây đen giăng mắc. Rồi bất ngờ sấm chớp rầm rầm, gió thổi vùn vụt, mưa bắt đầu nặng hột! Theo lẽ tôi chạy lẹ vào nhà thì tránh được cơn mưa khỏi ướt. Nhưng không, tôi vẫn đi thong thả bình thường như đi dưới bầu trời quang mây tạnh. Tôi thở dài với nỗi buồn dầy đặc ôm kín tâm hồn! Trời đang quang đãng lập lòe những vì sao nở rộ, bỗng dưng tối sầm lại, rồi ào ào đổ mưa!
Mưa rơi đúng vào tâm trạng dông bảo của tôi!
Mở cửa nhà bước vào, tôi nghe tiếng ngáy pho pho của Vân Anh. Nhỏ ta đang ngủ say vì trực đêm rồi và trải qua cả ngày hôm nay mệt nhọc. Tôi đi tắm và lên giường nằm, mấy ly cà-phê hồi chiều và nỗi đau buồn xé lòng làm tôi không tài nào chợp mắt được. Tôi lăn qua, lộn lại, vật vã khổ sở, nước mắt tuôn trào ướt cả gối. Tôi tự trách sao mình ngu quá, dễ dàng nhanh chóng tin Minh và chấp nhận cho hắn đính hôn quá sớm.
Chuyện như vầy, làm sao mình ăn nói với bạn bè, nhìn mặt những người chung quanh? Họ sẽ nghĩ sao về mình? Họ sẽ nhìn mình bằng ánh mắt chế diễu? Ôi, thật là khổ! Mọi bề quanh tôi bây giờ là màu đen tối. Tôi hận ghét Minh vô cùng, anh không thành thật, anh đã gạt và lừa dối tôi! Anh đã làm lòng tôi tan nát.
Bỗng, giọng ca tha thiết ngọt ngào của cô ca sĩ từ chiếc cassette nhà hàng xóm vọng sang: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần sầu…”. Tiếp theo: “Người ơi! Khi cố quên là khi lòng nhớ thêm. Dòng đời là chuỗi tiếc nhớ…” Tôi càng tức tối, càng giận mình thêm, giận mình ngu dại mới nghe lời đường mật của người ta! Tôi gom góp bỏ vào thùng rác tất cả những lá thư hắn viết cho tôi trước và sau ngày đính hôn, những vật kỷ niệm hắn tặng tôi, những băng nhạc hắn mua khi biết tôi thích nghe.
Tương tư, tôi tương tư thật sao? Tương tư là cái gì mà khiến người ta đau khổ như vậy? Miệng tôi nói không muốn gặp mặt hắn, nhưng ngày mai tôi muốn hắn trở lại để tôi xỉ vả hắn thêm một chập nữa. Nhưng hình ảnh, giọng nói, nụ cười, cử chỉ, mái tóc, đôi mắt buồn sâu kín vời vợi của Minh, chiếm ngự hồn tôi từng giây, từng phút không có một thứ gì có thể xen vào được, không có một thứ tình cảm nào thay thế được. Rồi tôi tự hỏi, mình thương yêu Minh tha thiết nồng nàn đến thế sao? – Đúng! tôi yêu chàng chân thành, yêu bằng cả trái tim người con gái lần đầu tiên biết yêu.
Suốt đêm qua tôi không tài nào chợp mắt. Đêm dài đăng đẳng như cả thế kỷ. Tôi lắng nghe tiếng động ở xung quanh. Tiếng động cơ trực thăng tải thương lên xuống ở bãi đáp gần Giếng Nước. Tiếng xe thiết giáp chạy rầm rập trên đường. Tiếng mưa xối xả như trút nước ào ào trên mái ngói và quanh nhà. Tiếng lục đục của bà hàng xóm dọn hàng. Rồi tiếng xe ba bánh lịch kịch ngoài đường.Tiếng gõ lóc cóc đều tai của vợ chồng ông bán mì ở đầu phố. Tiếng rao lanh lãnh của mấy bà bán chè, bán cháo, bán bắp, xôi đi qua, cùng tiếng rao nhừa nhựa của ông già tàu bán bánh bò, bánh tiêu và giò cháo quảy.
Đã hơn 7 giờ sáng, mặt trời lên cao. Ánh nắng chói chang luồn lách vào khe cửa sổ, những chỗ hở của nhà. Đầu nặng chình chịch, tôi uể oải ngồi dậy, lấy áo quần đi tắm và pha ly cà-phê uống cho tỉnh táo.
Tôi cảm thấy chán chường, và không biết làm gì cho hết chủ nhật nầy? Có nên về trên nhà không? Không được, tôi không muốn ba má tôi biết tôi buồn. Đi chợ mua gì về nấu ăn, bởi bụng tôi đang cồn cào? Không, mình còn tâm trí nấu nướng, để ăn uống sao?
Tôi lấy giỏ xách định đi ra ngoài, nhưng không biết đi đâu và làm gì? Thì đi đâu cũng được, để thoát khỏi cái tâm sự quấn quít đang đè nặng tâm tư tôi suốt ngày qua và trọn đêm rồi.
Mở cửa bước ra, tôi chưng hửng thấy Minh ngồi đó đợi tự bao giờ, mặt mày hốc hác bơ phờ. Chàng van lơn:
– Chào em, đêm qua anh thức trắng không ngủ được. Đã không ngủ được nên anh đến đây sau giờ giới nghiêm. Anh không dám gọi em vì sợ làm em thức giấc. Bây giờ em đi đâu vậy?
Tôi sừng sộ:
– Anh đến đây làm gì? Không phải tôi đã nói rõ hết rồi sao? Tôi đi đâu mặc kệ tôi.
Minh nhìn tôi tha thiết:
– Để anh đi với em, em hãy bình tĩnh. Bộ em còn giận anh sao?
Thiệt là “vô duyên” hết chỗ nói! Chắc anh ta tưởng tôi giỡn với anh ta. Tôi trở vô nhà, lấy hộp nữ trang đính hôn để trước mặt anh:
– Đây là quà lễ đính hôn, tôi xin trả toàn bộ lại cho anh. Coi lại đi, không thiếu món nào hết.
Minh chưa kịp phản ứng. Chiếc xích lô chợt chạy ngang, tôi gọi và bước nhanh lên xe, không thèm nửa mắt nhìn lại Minh. Xe chuyển bánh. Vừa đạp xe, ông xích lô hỏi tôi muốn đi đâu. Tôi bảo ông ta chạy vòng thành phố. Ngồi trên xe tôi như kẻ mất hồn. Ông xích lô cho biết đã chạy quanh thành phố rồi, và tôi còn muốn đi đâu nữa không. Tôi bảo ông cho tôi xuống ở đầu chợ, gần rạp hát Vĩnh Lợi.
Tôi bức rức trong lòng, đi khơi khơi không phương hướng không chủ định. Tôi đi loanh quanh hết hàng nầy đến hàng khác: Hàng trái cây, hàng rau cải, hàng chén tộ, lu hũ, nồi niêu, soang chảo, hàng chiếu, hàng nón, hàng gia súc, hàng thịt, hàng cá. Nước rọng tôm cá chảy động vũng dưới lộ tanh tưởi vô cùng. Cá nhảy văng nước ướt lấm tấm vạt áo dài của tôi. Tôi vào nhà lồng chợ, qua các hàng chè, cháo, hủ tíu, bánh xèo, bánh khọt, nước đá, nước mía, cà-phê… Hôm qua đến nay, tôi chưa ăn gì, bụng tôi cồn cào, nhưng miệng vẫn không muốn ăn.
Đến hàng bán giỏ xách, dù, phấn son, gấm, lụa. Tôi mua nhiều xấp hàng để may quần, áo dài, áo ngắn… Tôi mua sắm nhiều thứ, linh tinh. Những khúc hàng tôi thích, nhưng hôm trước vì chê mắc nên tôi không mua, hôm nay thì tôi mua hết. Mua lủ khủ chất đầy cả giỏ, còn xách thêm năm ba gói bên ngoài. Đó là tật lớn của tôi, mỗi khi hờn giận, buồn phiền là đi sắm đồ. Nhứt là áo quần, giầy dép, nón khăn.
Sự ồn ào của kẻ bán người mua trong chợ, thêm vào ánh nắng trưa gay gắt làm tôi khó chịu quá. Nhìn đồng hồ đeo tay đã hơn một giờ, tôi thất thểu ra khỏi chợ gọi xe về nhà trọ.
Tôi giựt mình, thấy ba tôi đang ngồi bên bàn nhỏ trước sân xem báo. Tôi cố làm vẻ như không có chuyện gì xảy ra, bước vào cười và vồn vã hỏi:
– Ba, xuống hồi nào vậy? Sao không báo cho con biết trước để con đi đón ba? Ba xuống chơi hay có chuyện gì không?
Ba tôi vứt tờ báo sang bên, trễ cặp kiếng lão nhìn những gói đồ lỉnh kỉnh trong xách, trên tay tôi. Ba cười hiền:
– Con gái ba đi sắm đồ nhiều, chắc bị ai chọc giận rồi phải không? Sao mặt mày con hốc hác, xanh dờn như tàu lá vậy? Bộ mấy ngày rồi con không ăn uống gì sao mà sắc mặt úa xào khó coi như vậy?
Tôi quẳng xách tay và mấy gói quà trên bàn, choàng tay ôm vai ba tôi. Bao nhiêu uất hận đè nén trong lòng dồn lên, tôi nghẹn ngào, nức nở khóc òa như một đứa trẻ:
– Con khổ lắm ba ơi! Minh ăn hiếp con, Minh đã dối gạt con. Con không thể kết hôn với ảnh được.
Ba vuốt tóc tôi thở dài, đợi tôi nguôi dịu lại mới ôn tồn bảo:
– Lau nước mắt đi con. Cha con mình nên đi kiếm gì ăn. Từ sáng đến giờ, ba chưa ăn miếng gì nên bụng cồn cào rồi. Vừa ăn, cha con mình vừa nói chuyện.
Tôi nhẹ gật đầu, đem mấy gói đồ vào nhà, rửa mặt, chải lại mái tóc rồi xách giỏ cùng ba tôi đi ra. Hai cha con tôi đến tiệm ăn bình dân gần nhà. Là tiệm bình dân, vì nó không ở nơi thị tứ đông người qua lại, nhưng tiệm nầy bán đầy đủ các món ăn, giá phải chẳng, bà chủ tiệm nấu ăn vừa miệng với hầu hết khách hàng. Mặt trời đã ngã bóng, vì đã lỡ bữa ăn nên hàng quán vắng hoe. Chỉ có ông chủ quán đi tới đi lui bưng thức ăn, nước uống cho chúng tôi mà thôi.
Tôi kể hết những chuyện đã xảy ra giữa tôi và Minh cho ba tôi nghe. Ba tôi nghe xong cười chúm chím. Còn tôi yên lặng lắng tai nghe ba tôi khuyên giải:
– Con là đứa con gái khôn ngoan hiểu biết. Minh thương con còn hơn thương bản thân nó. Sự việc con thấy đó, nó đã giải bày tận tình, nhưng con hiểu lầm nó dối gạt con. Nó không gạt con đâu, nếu nó giả dối, bị con mắng như vậy, nó đã bỏ đi mất rồi, đâu thèm trở lại để con đuổi. Nó đã về cầu cứu với ba. Con nghĩ lại coi có đúng không? Làm khổ mình, làm khổ người mấy hôm rày đủ rồi. Chắc con cũng không muốn nó mang cái khổ canh cánh trong lòng trở về đơn vị phải không?
Bỗng Minh từ ngoài cửa tiệm đi vào, ba tôi đưa tay ngoắc chàng, gọi:
– Lại đây con. Con có ăn gì chưa? Hãy gọi đồ ăn đi.
Minh đến thẳng bàn hai cha con tôi, giọng yếu xìu:
– Dạ chào ba, thưa ba, con không đói.
Chàng ngồi chiếc ghế gần bên tôi và quay sang nhỏ giọng, hỏi:
– Em có khỏe không?
Tôi mím miệng không thèm trả lời. Thiệt là điên! Cái người gì vô duyên hết sức! Mặt người ta phờ phạc như mặt xác chết trôi sông mà hỏi khỏe không? Sáng hôm qua, tôi mà đứng tim chết ngắt, thì hắn ta là thủ phạm chớ ai trồng khoai đất nầy. Tôi quay mặt đi chỗ khác, nước mắt tuôn ra từng đợt. Muôn việc gì cũng bởi anh chàng bạc bẽo nầy gây ra. Tôi đứng phắt dậy, tức tưởi:
– Ba đuổi ảnh đi ba. Con không can đảm nhìn mặt ảnh nữa! Ba, đuổi ảnh đi đi!
Ba tôi chưa kịp phản ứng thì Minh đứng nhanh lên, bỏ đi ra ngoài. Nhưng chưa tới cửa, chàng quay trở lại đứng trước mặt tôi quả quyết:
– Anh không đi đâu hết. Anh sẽ theo em hoài, cho đến khi nào anh được em tha thứ mới thôi. Không có em, anh làm sao sống nổi!
Tôi bựt ra khóc lớn, hai tay đánh bịch bịch vào ngực chàng:
– Anh làm em khổ lắm! Anh có biết không?
Minh ôm chầm lấy tôi, vuốt tóc tôi vỗ về:
– Anh biết! Anh biết! Tội anh thật đáng chết! Đừng giận anh nữa. Anh xin lỗi em. Em khổ bao nhiêu, anh cũng khổ bấy nhiêu.
Minh lấy khăn chậm nước mắt cho tôi. Tôi mắc cỡ, đẩy nhẹ chàng ra, vì sợ những người chung quanh nhìn thấy. Ông chủ quán ngồi ở quầy tính tiền, nụ cười thật hiền nở trên môi, trong khi đó cặp mắt ông vẫn dán vào cuốn sổ.
Ba tôi trêu chúng tôi:
– Thôi, khóc như vậy đủ rồi. Hai đứa phải ăn gì cho no với ba. Hãy để nước mắt chút nữa về nhà khóc tiếp.
Rồi ba tôi gọi đồ ăn, cà-phê sữa đá cho cả ba. Thấy Minh ăn ngon lành, ông gọi thêm thức ăn cho chàng. Ông hỏi:
– Bây giờ con mới biết đói bụng hay sao?
Minh thú thật:
– Hôm qua đến giờ, con chẳng ăn được hột cơm nào.
Ba tôi về nhà trước. Minh trở lại đơn vị sau, nội trong ngày chủ nhựt.
Khi tôi về đến nhà trọ, dù chưa bị Vân Anh và Ánh Ngọc tra khảo, tôi kể hết mọi biến cố từ sáng hôm qua cho đến chiều hôm nay. Ánh Ngọc thấy tôi vui liền nói:
– Tên Minh nầy khôn. Hắn thấy không thể thanh minh thanh nga với con cứng đầu và ương ngạnh như mầy, mới cầu viện tới ông già mầy đó đa.
Vân Anh nguýt:
-Tao mà lâm vào trường hợp của hắn, tao cũng làm như hắn. Còn con Tuyết Nhạn đã tha thứ cho hắn rồi, thì đâu có thể nói nó là cứng đầu ương ngạnh được?
Nước mắt sống tôi tuôn ra vì mất ngủ, vì mệt, chớ không phải vì cảm xúc. Ánh Ngọc háy tôi con mắt có đuôi:
– Đồ vô duyên! Tâm tình đôi bên đã cởi mở với nhau rồi, mà mầy còn khóc nổi gì nữa?
Tôi ngáp ồn ào, cái ngắn, cái dài thườn thượt:
– Buồn ngủ quá! Đêm qua tao thức trắng năm canh, nên nước mắt sống cứ chảy hoài. Tao đã khóc với Minh, đủ quá rồi, bây giờ tao phải ngủ một giấc thiệt dài.
Bỗng tôi vụt nhớ, rảo mắt về phía thùng đựng rác đâu mất tiêu. Tôi hoảng hốt hỏi lớn:
– Thùng rác đâu rồi?
Ánh Ngọc cười tinh quái:
– Ai biết! Sao hôm nay mầy lại hỏi đến thùng rác? Bình thường nhà nầy chỉ có tao với Vân Anh đổ rác thôi, mầy là đứa làm biếng nhớt thây, có bao giờ đổ rác đâu mà sốt sắng dữ vậy?
Tôi nhăn mặt:
– Tao tìm đồ mới mua sắm.
Vân Anh hỏi:
– Đồ gì mới mua, mà mầy đựng trong thùng rác?
Tôi thành thật:
– Trong lúc giận anh Minh, tao lấy đồ ảnh tặng bỏ thùng rác.
Ánh Ngọc vào phòng ôm ra đưa tôi bọc giấy dầu, hỏi:
– Phải những thứ nầy không? Bây giờ hết giận, mầy tìm lại để cất kỹ hả? Tao chạy mầy luôn, con nít quá đi! May mà mầy bỏ thùng rác ở nhà trên, chúng mình chỉ để mấy thứ giấy má vụn vặt khô thôi, chớ phải đổ vào thùng rác dưới nhà bếp chứa đầu tôm xương cá thì xong rồi.
Tôi mở bọc giấy dầu, thấy lủ khủ, ngổn ngang không thiếu món nào, cười bẽn lẽn:
– Cảm ơn, hai cô bạn hiền của tôi ơi! À, chiều nay bây có nấu chè nấu cháo thì cho tao ăn ké với.
Vân Anh cười:
– Còn lâu, hôm nay tụi tao sức mấy mới nấu chè hoặc nấu cháo cho mầy ăn ké. Chiều nay bọn mình hành quân đến chợ Hàng Bông ăn cháo vịt. Con Nhạn phải ăn đầu vịt để xả xui.
Tôi trề môi:
– Xui đã qua rồi, xả làm chi nữa, hả con đa sự? Được rồi, cỡ sáu giờ chiều, bây nhớ đánh thức tao dậy. Tụi mình sẽ mở cuộc tảo thanh mấy quán hàng ở đó, kiếm những món ngon ăn cho no cành hông mới thôi.
Ánh Ngọc nhìn tôi phàn nàn:
– Mới có khủng hoảng ái tình hai hôm mà con nầy coi bộ hom hem như nem thiu nhớt.
Vân Anh thông cảm:
– Ừ, một cú khủng hoảng đó, dẫu nó khóc một lu, một khạp nước mắt cũng chưa phải là nhiều.
Chương 11
Mấy ông anh họ tôi đã từng du học ở ngoại quốc: Pháp, Úc, Gia-Nã-Đại… nên nhiễm nhiều cái văn minh của Tây Phương. Nhứt là môn văn chương. Họ thường chê bai tôi:
– Con Tuyết Nhạn lậm tiểu thuyết của Quỳnh Dao, nhưng mà cuốn nào cũng na ná như cuốn nào: Đôi lứa yêu nhau, gặp nghịch cảnh, rồi dùng ý chí thắng nghịch cảnh. Sau đó, họ kết hôn với nhau, rồi sanh con đẻ cái. Rất ít có cuốn tình duyên lỡ vỡ, hay kết cuộc đau thương.
Thiệt tình, gặp mấy ông anh ương ngạnh nầy, tôi cãi lẫy với họ làm chi cho uổng nước miếng, mà dù có cãi tôi cũng không cãi lại miệng cá sát của họ.
Tôi mê say các nhân vật của Quỳnh Dao. Sao mà họ trượng phu, quân tử, đầy ý chí tiến thủ lập thân. Tới chừng sực nhớ họ là người Trung Hoa, tôi nghĩ đến mấy chú Chệt bán thịt heo ở chợ An Đông, thì vỡ mộng liền. Mấy chú Chệt đó còn trẻ mà có cái bụng lùm lùm, mình mẩy như bọc một lớp mỡ dầy, bụng như vậy nên bị thiên hạ xuyên tạc là thùng nước lèo.
Sau đó, đi xem phim Hồng Kông lấy cốt truyện dựa trên tiểu thuyết của Quỳnh Dao, tôi thấy mấy chàng nam tài tử Hồng Kông vào thập niên 60, 70 không mập, không xấu, tướng tá ngon lành, nhưng làm sao họ tuyệt vời bằng những chàng chiến binh trên bốn vùng chiến thuật mà tôi đã từng gặp.
Đàn ông mà ăn mặc sang, ăn mặc đợt sóng mới, ăn mặc chải chuốt là lạc quẻ, là trật chìa đối với giấc mộng lứa đôi của tôi. Giấc mộng ấy luôn được lồng những chàng chiến sĩ hải, lục, không quân; bộ quân phục của họ làm đẹp họ thêm. Nhỏ Vân Anh léo xéo hát bài nịnh nọt lính, ca tụng xả láng kẻ khoác “trây di” làm nhỏ Ánh Ngọc xỉa xói:
– Lính tráng nào mà nghe mầy hát chắc họ run eng phát rét, mất hết phong độ oai hùng.
Ánh Ngọc không thèm hát bài yêu lính. Nhỏ làm thơ tặng lính, gởi lung tung cho mấy tờ báo, kể cả những tờ báo lá cải, nhưng không có tờ nào đăng cả, làm nhỏ vừa quê, vừa xệ.
Còn tôi, tôi đã có ‘’chiến sĩ của lòng em’’ rồi, tôi không cần hát bài ca yêu lính, tôi không cần làm thơ tặng lính. Minh là chàng lính quả cảm. Chàng đã từng tấn công trái tim đóng kín của tôi, mở cho tôi một vùng chiến thuật đặc biệt để tôi dệt lá thêu hoa, thả chim thả bướm, không có xe tăng đại bác, không có súng ống, lưỡi lê như bốn vùng chiến thuật trên đất nước ta.
Chị Tuyết Hồng thường phàn nàn với bà ngoại và ba má tôi:
– Con Loan, con Nhạn ưa đọc văn thơ yêu lính, ưa nghe những bài ca yêu lính. Bởi đó dù thằng Toàn là con một được miễn dịch mà rồi nó cũng xin tòng quân. Còn thằng Minh là giáo chức cũng xin vào binh chủng không quân. Dù biết rằng thằng Toàn làm ngành Tâm Lý Chiến, còn thằng Minh được làm quan sát viên chiến trường, nhưng lương lính có là bao, tiền lính tính liền mà.
Ba tôi thông cảm:
– Kệ tụi nó con à, mỗi người đều có chí hướng riêng. Có người an phận thủ thường như vợ chồng con, nhưng cũng có kẻ say mê lý tưởng như tụi nó. Con bắt tụi nó sống như vợ chồng con, thì tụi nó biến thành cái xác ướp ngay.
Chị Tuyết Hồng vẫn chì chiết:
– Con Oanh, con Nga bắt bồ với bạn học chung lớp, chung trường. Đứa nào cũng mong muốn chồng mình sau nầy trở thành kỹ sư, bác sĩ. Vậy mà hễ mở miệng ra là tụi nó hát bài yêu lính. Tụi nó mà hát những bài đó hoài, người yêu của nó dám bỏ học đi thụ huấn ở trường võ bị Thủ Đức hay vào trường võ bị Đà Lạt cho coi.
Thiệt tình! Tội nghiệp mấy ông nhạc sĩ sáng tác những bài ca yêu lính hay nổi tiếng như: Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng, Trần Thiện Thanh, Anh Thy, Nguyễn Văn Đông… không dè mình có địch thủ lợi hại, thích rải muối độc vào bài hát của họ. Địch thủ đó chẳng ai xa lạ, là trưởng ái nữ của ba tôi, nhũ danh Cao Thị Tuyết Hồng.
Chị Tuyết Loan một hôm có dịp đi Sàigòn về ghé thăm tôi, nói hành nói tỏi chị Tuyết Hồng với tôi:
– Con mụ ấy càng lớn tuổi càng ưa chì chiết. Mụ được chồng yêu nên đẻ năm một và sẽ được trớn đẻ hoài cho coi. Anh Trường mà đi lính thì mụ mới bớt đẻ.
Khi chị ra về tôi hỏi nhỏ:
– Chị có được hạnh phúc không?
Chị Tuyết Loan long lanh ánh mắt:
– Mầy thấy bà chị mầy mặt mày tươi rói phơi phới thì cần gì phải hỏi!
Rồi chị cười hớn hở bước lên xe xích lô, để ra bến xe đò về Cần Thơ.
Hai bà chị tôi có đủ đòn phép để o ép chồng vào khuôn khổ của họ. Hai chàng nghệ sĩ bị hai chị dùng tình yêu dập tắt hết tâm hồn bén nhạy với câu ca tiếng nhạc của họ; anh Trường dẹp đờn, còn anh Toàn hết dám mơ leo lên sân khấu để đóng tuồng cải lương, hết mùi sáu câu vọng cổ vì còn đâu sân khấu phực đèn màu?
Ba má tôi lấy làm sung sướng hãnh diện, được nghe hai bên sui gia ca tụng cô trưởng nữ và cô thứ nữ của họ đầy tai. Mũi cả hai sẽ phồng lớn cỡ trái mận hồng đào vì tự hào. Bà con chòm xóm cũng khen hai mụ chị của tôi, nào là con Hồng thùy mị, đoan trang, hiền thục, phúc hậu, chỉ biết nhà cửa, bếp núc, may vá, săn sóc chồng con, phụng dưỡng ba má chồng. Nào là con Loan tánh tình bướng bỉnh, nói ngang, vậy mà chung tình và vẹn giữ một lòng son sắt với chồng, lại còn hiếu hạnh với mẹ chồng. Hai con chim đầu đàn đã có cái gương sáng như vậy nên ba má tôi hy vọng tôi và hai con em sẽ giống hai bà chị gương mẫu kia.
Bà ngoại tôi bảo rằng khi tôi có chồng phải có nhà riêng để chung sống với chồng. Ngoại sắm sửa cho tôi những món có thể mang về nhà riêng sau đám cưới: chiếu bông một cặp, mền len hai cái, cặp gối giún tai bèo bằng sa-teng hồng thêu đôi chim uyên ương nằm rỉa lông cho nhau bằng chỉ bóng, màu sáng đẹp, gặp nước tẩy cũng không bay. Ngoại dặn dò:
– Áo gối không cần mua thêm. Mấy em con dì, con cậu của cháu sẽ tặng cháu nhiều cặp áo gối đẹp lộng lạc.
Quả thiệt y như rằng: tôi được tặng những cặp áo gối thêu đôi thiên nga lội bên khóm sen hồng, cặp áo gối thêu rồng phụng, cặp gối thêu đôi chim công đứng bên khóm mẫu đơn… Ngoại còn sắm thau nhôm, thau giặt đồ, thau rửa mặt, gương tàu, dụng cụ làm bếp, bình cắm bông, chén, tô, dĩa… Ngoại nói chừng nào có nhà ngoại sẽ sắm cho bàn ghế, tủ, kệ…
Má tôi và chị Tuyết Hồng dắt tôi đi mua đồ cưới: Áo dài cặp màu hồng, quần sa-teng tây mướt rượt, cây dù hoa, đôi hia long phụng, xách tay, giầy bít mũi, dép, áo bà ba, áo kiểu, vải may quần tây… Đi theo họ sắm đồ mà tôi mệt. Tôi nói những thứ nầy tôi có rồi không cần phải sắm thêm. Bà Tuyết Hồng cứ lải nhải câu: “Em là cô dâu mới, cái gì cũng phải mới, phải đẹp, đừng hà tiện người ta sẽ cười…” Tôi nghĩ thầm: “Tội nghiệp, chắc lúc chị lấy chồng mà không ai sắm sửa cho chị, bây giờ chị sắm ê hề cho tôi để trả thù sự thèm muốn của chị lúc xưa?”.
Ngày tôi thành hôn, người vui mừng nhứt vẫn là bà ngoại, vì bà cứ sợ cô cháu gái ốm nhom, xấu xí, dữ dằn của bà sẽ chịu cảnh lỡ thời không ai thèm cưới. Nay, cô ta được anh chàng thầy giáo trung học hỏi cưới nên bà mừng lắm, moi của cải chắt chiu dành dụm giấu trong ruột ngựa móc ra tặng cho cháu. Tiệc cưới do bà đứng chỉ huy cho mấy mợ, mấy dì nấu những món ăn ngon nhứt, trình bày đẹp nhứt để đãi hai họ và khách khứa. Bà nhứt định không cho người ngoài dự phần nấu nướng.
Món “phượng hoàng ấp trứng” Cơm rang với thịt nạc xắt hột lựu, tôm khô, lạp xưởng, hột vịt chiên xắt nhuyễn dài như con bún. Món nầy được trình bày trên dĩa bàn hình bầu dục lót cải xà lách, trên lớp cải xà lách là lớp trứng cúc luộc đã lột vỏ, trên lớp trứng cúc là cơm rang. Dì Chín múc cơm vào chiếc thố hình bầu dục ép cứng, khéo tay trút cơm ra, cơm có dạng giống như thân con gà. Dì lấy đầu, hai cánh, hai chưn gà đem luộc chín và ghim vào vị trí đầu, cánh, chưn. Mới nhìn giống như con gà đang nằm ấp trứng.
Mợ Ba tôi thì làm món “Ngũ quả đẹp tình” Trái su, củ cải trắng, củ cải đỏ gọt vỏ, dưa leo Bà Cai gọt sọc xuôi, bỏ hột. Tất cả đem xắt thật mỏng, ngâm cách đêm trong nước giấm đường, mỗi thứ một thau riêng. Cho màu trái nầy không ngấm vào trái kia. Hôm sau mợ dùng khăn lượt nhờ mấy ông mạnh tay vắt cho thật ráo, rồi để chung và chậu lớn. Tôm càng xanh vỏ đem nướng bằng lửa than hồng, xé tơi. Lỗ tai heo và mũi heo luộc bằng nước pha giấm và một chút muối, cũng xắt thật mỏng. Tất cả trộn chung, ngon hay không là do tài người nêm nếm lúc trộn. Gỏi được bày lên dĩa bàn tròn lớn, tém lại vén khéo. Tôm xắt theo chiều từ lưng xuống bụng, lỗ tai heo da trong, gân trắng lồ lộ. Sắp một hàng lỗ tai heo, một hàng tôm đến giáp vòng dĩa gỏi. Trên chóp dĩa gỏi là ba trái ớt sừng trâu chín đỏ được tỉa hình hoa lan, trước đó được ngâm trong nước phèn chua làm cho những cánh hoa cong tròn. Màu đỏ tươi của ớt, màu vàng đậu phọng đâm nhuyễn, màu hồng gạch của tôm, lại thêm màu rau thơm xanh biếc xắt nhỏ sắp chung quanh. Dĩa bánh phồng tôm Sa Giang trắng nõn nà nằm bên cạnh, làm cho món “Ngũ quả đẹp tình” nổi bật trong các món ăn bày la liệt trên bàn.
Rồi nào vịt tiềm Dương Quí Phi, gà áp chảo Đường Minh Hoàng, cá Thanh Long miền Nam Hải… Rất nhiều món để bà ngoại cùng mấy dì, mấy mợ trổ tài. Tên món ăn lạ tai, đẹp mắt, ngon lành, lại được trình bày khéo léo làm hai bà chị tôi ganh tị. Chị Tuyết Hồng kèo nài:
– Hôm nay, con được sáng mắt về những món ăn thật tuyệt của ngoại. Bà nhớ truyền nghề cho con nghen. Để sau nầy có dịp con sẽ trổ tài làm le với mấy chị em họ bên chồng.
Chị Tuyết Loan ôm ngang lưng ngoại càm ràm:
– Bà ngoại thiên vị quá! Đám cưới con, bà có đứng ra làm cổ bàn đâu. Khi nào dạy chị Hồng thì ngoại nhớ dạy luôn cho con đó nghe bà.
Ngoại vui vẻ cười thật tươi, mắng yêu:
– Mẹ tổ bây, có đứa nào ở gần bà như Tuyết Nhạn đâu. Học xong là bây đi làm xa, cả năm bà chưa gặp bây được ba lần. ž, để rồi bà dạy cho hai đứa bây.
Tuyết Oanh và Tuyết Nga cũng nhao nhao lên:
– Còn tụi con nữa! Tụi con cũng muốn học.
Bà vui vẻ:
– Được rồi, bà sẽ dạy hết nghề cho các cháu của bà.
Bỗng bà quay lại dặn Minh đang đứng kế bên tôi:
– Minh à, về sau, cháu không được ăn hiếp Tuyết Nhạn của bà nghen. Con bé nầy có cơ thể yếu đuối từ nhỏ, nên được ông bà ngoại, dì dượng, cậu mợ cưng chiều. Nếu nó về méc bà rằng nó bị cháu ăn hiếp thì bà sẽ bắt nó lại.
Minh cười nhẹ:
– Dạ, con nghe rồi.
Tôi nheo mắt với Minh, ngầm nói với anh rằng: ‘’Thấy chưa?’’
Anh Toàn ẵm bé Toàn Huy con trai đầu lòng của anh chị, sanh vừa được mười tháng, sang tay cho chị bồng. Vừa bồng con, chị Tuyết Loan liếc tôi cười chúm chím:
– Thưa bà, bộ Tuyết Nhạn của bà hiền lắm sao? Nó dữ ngầm đó bà ơi! Bà phải bảo Minh, sau nầy coi chừng bị Tuyết Nhạn ăn hiếp thì đúng hơn.
Anh chị Tuyết Hồng thì hạnh phúc lắm, đã có một gái hai trai. Chúng được ông bà nội cưng như vàng như ngọc. Anh chị tôi đang lo vì sự cưng chiều quá mức đó, cả hai không dạy dỗ chúng được sau nầy.
Hai cô Tuyết Nga và Tuyết Oanh thì khỏi chê. Tụi nó đánh áo đánh quần đi ra đi vô chung với bốn con bạn của tôi là Thu Trinh, Thúy Hiền, Vân Anh, Ánh Ngọc. Trưa ngày nhóm họ, bốn cô nường đốt than ủi quần áo, và sửa soạn đến nửa đêm cũng chưa xong. Ánh Ngọc ngồi đợi phiên mình hoài mà chưa đến, mới cằn nhằn:
– Đám cưới con Tuyết Nhạn, chớ bộ đám cưới tụi bây sao tụi bây xí xọn lâu dữ vậy?
Thúy Hiền cười như hoa hàm tiếu, thân hình thì như con khô cá hố mà làm ra vẻ ta đây:
– Ấy, ấy! Sao mà bà nói đúng quá chời “dzậy”? Nó có người rồi không cần “dziện”, bọn mình phải sửa soạn đẹp hơn nó để ngày mai cua mấy chàng phù rể.
Tuyết Oanh và Tuyết Nga cười ngất ngất. Thúy Hiền xoay qua hỏi:
– Bộ ta nói sai sao hai đứa bây cười?
Hai đứa vẫn ôm bụng cười. Tuyết Nga nói:
– Chị Thúy Hiền ơi, ngày mai phù rể là mấy ông già!
Thúy Hiền quê quá, hỏi:
– Sao mà lọa dzậy?
Tuyết Oanh:
– Vì không mượn được thanh niên nên họ nhờ chú, bác, dượng của anh Minh bưng lễ vật chứ không có phù rể.
Thu Trinh, Thúy Hiền xuống nhà trọ tôi ở Mỹ Tho, rồi cùng Ánh Ngọc, Vân Anh và tôi lên nhà tôi dự đám cưới của tôi. Ánh Ngọc và Vân Anh là dân nửa ruộng nửa tỉnh nên dễ dàng thích ứng với hoàn cảnh. Còn hai con công tằng tôn nữ Thu Trinh và Thúy Hiền thì ôi thôi, mới đi bộ từ bến xe quận vào nhà tôi chừng năm trăm thước thì nhăn nhó mặt mày. Cả hai lột giầy bít, mũi nhọn máng lên vai đi chân đất, làm Vân Anh, tôi và Ánh Ngọc nhìn chúng cười ngặt ngoẽo. Thúy Hiền trề môi, háy tôi, con mắt có đuôi:
– Tại sao mầy ở cái xứ khỉ ho cò gáy nầy làm tụi tao lội bộ muốn hụt hơi dzậy?
Thu Trinh, trán lấm tấm mồ hôi, cũng nói:
– Tao chạy anh chàng Minh của mầy rồi, gái Sàigòn tụi tao đẹp hết chỗ chê mà thằng chả không thèm lại chui vào hóc Bà Tó để cưới con bé lọ lem Tuyết Nhạn nầy.
Tôi cười lí lắc:
– Vậy mới lạ! Bọn tao còn định khi nào hết giặc, Minh sẽ về “Chốn hóc Bà Tó” nầy để dạy học. Bọn tao sẽ đem gia đình về đây lập nghiệp đó tụi bây ơi!
Các bạn tôi lấy phép thường niên về đây dự lễ cưới của chúng tôi và tiện dịp nghỉ hè ở vùng quê miền Nam nầy một lần cho biết. Hôm mới đến hai đứa cằn nhằn, nhưng sáng sớm ngày sau thì chúng được Tuyết Oanh và Tuyết Nga hướng dẫn đi viếng vườn long nhãn của mợ Ba tôi, vườn chôm chôm của dì Chín tôi, vườn mận hồng đào, vườn ổi xá lị… Tụi nó được ngắm mặt trời mọc, ngắm hoàng hôn, chèo ghe, bơi xuồng, ăn thịt, cá, tôm, rau cải tươi rói và trái chín cây… Coi bộ hai cô nường Thu Trinh và Thúy Hiền thỏa thích lắm. Bọn nó còn nói với tôi:
– Dân quê ở đây an vui, hạnh phúc quá. Nhà cửa khang trang, ruộng đất rộng rãi, trù phú, cảnh vật yên tĩnh quá! Vùng quê hương của mầy thật tuyệt Tuyết Nhạn ơi!
Trong bữa tiệc cưới của tôi có ba má anh Lê Trường Hải đến dự. Ba anh nói với ba má tôi: “Theo lẽ cháu Tuyết Nhạn là dâu của chúng tôi. Trước ngày đi Mỹ, thằng Hải có nói chừng nào nó về sẽ bàn lại chuyện nầy, vì nó đã để ý đến cháu Nhạn rồi, tôi và bà tôi ưng lòng lắm. Ai dè đâu, khi trở về nước không được bao lâu, nó quen với con gái bà chủ nhà trọ ở Nha Trang, rồi cô ta có bầu, nên nó đành phải cưới. Tôi với má nó hết sức tiếc không được cháu Nhạn làm dâu. Thật tình, mình không tin số phần và duyên nợ cũng không được!”
Trước ngày chúng tôi thành hôn. Ánh Ngọc và Vân Anh xin được căn nhà độc thân ở trong cư xá bệnh viện, nên nhường nhà đang ở lại cho tôi. Chú của Minh là thợ mộc, ông mua vật liệu giúp chúng tôi sửa sang nhà lại. Cho nên tổ ấm của chúng tôi khang trang lắm. Phòng ăn, phòng ngủ, nhà bếp, nhà tắm riêng biệt, ngăn nắp, không luông tuồng như lúc ba đứa độc thân tụi tôi còn ở chung. Chúng tôi không đi hưởng tuần trăng mật: hai đứa suốt ngày cứ đi đây đi đó để đền ơn đáp nghĩa họ hàng hai bên muốn hụt hơi. Tuần lễ nghỉ hè, hai tuần lễ kết hôn dây qua dây lại đã hết.
Đời sống lứa đôi của vợ chồng tôi thật êm đềm. Tôi không đòi hỏi gì vượt khỏi hoàn cảnh sinh sống của mình. Minh hiền lành, thương yêu chiều chuộng vợ. Khi thì anh nhờ bạn trong dịp đi công tác ở nước ngoài mua cho tôi món nầy, sắm cho tôi món nọ. Tiền lương hàng tháng, anh chỉ dùng cho ăn uống và một vài thứ linh tinh, còn bao nhiêu anh đem về giao cho tôi giữ, bảo có cần xài gì thì xài, còn lại thì gởi ngân hàng để dành, và rồi chẳng bao lâu biết đâu vợ chồng sẽ có con cái nữa. Hôm đám cưới, ba má, anh chị, dòng họ bên tôi và bên Minh cho một số tiền mặt khắm khá. Tôi đem gởi hết vào ngân hàng.
Minh muốn tôi theo anh, đổi về Biên Hòa để hàng ngày anh có thể về sau giờ làm việc, hoặc về Sàigòn gần gũi, để anh đi lại dễ dàng hơn. Tôi thì không muốn đi, bởi làm đâu quen đó, nên hẹn anh để năm tới sẽ tính lại.
Một hôm nọ, bà chủ lại lấy tiền nhà như thường lệ. Bà vui vẻ cho biết là có ý định bán căn nhà đang cho tôi mướn, vì bà và các con sẽ theo chồng đổi ra miền Trung.
Khi hai bên đã bằng lòng giá cả, tôi lấy hết tiền dành dụm ở ngân hàng ra. Vẫn còn thiếu chút đỉnh, ba má tôi cho mượn thêm. Vậy là hai chúng tôi có căn nhà nhỏ nhưng sáng sủa, dọn dẹp sạch sẽ, tu bổ thêm, trồng hoa dọc theo cổng rào, chung quanh nhà. Sau đó ít lâu, ngôi nhà trông khang trang và ấm cúng. Tôi đề nghị với Minh, nên rước bà nội anh xuống ở. Bà cụ già rồi, cần có người chăm sóc sớm hôm. Để bà một mình ở vùng quê không tiện, vì con Bé Hai lúc trước sống với bà, nay thì nó lớn rồi, phải về phụ với chú thím chàng lo vườn tược, ruộng nương. Bà cụ không chịu đi, nói là ở quê mấy chục năm đã quen, ở thành xe cộ chạy lung tung, ồn ào quá nên bà không thích. Lâu lâu bà cụ xuống chơi năm ba bữa rồi về chớ không chịu ở luôn. Bà cụ thương cháu nội, thì quý cháu dâu. Mỗi lần xuống thăm, bà mang cho chúng tôi rau, cải, gà vịt mà bà đã ki cỏm để phần từ mấy tháng trước.
Tin tôi có thai, hai bên gia đình mừng lắm. Bà ngoại tôi đi với má tôi và Tuyết Nga xuống thăm, nhân dịp con nhỏ về thăm nhà. Ngoại nhìn tôi âu yếm:
– Nghe cháu có bầu bà mừng quá! Bà thấy cháu ốm nhom sợ cháu không có con thì tội nghiệp cho thằng Minh. Bây giờ thì bà yên tâm lắm. Mai mốt ông Tám thầy thuốc đi thăm con về, bà sẽ nhờ ông hốt mấy thang thuốc dưỡng thai cho cháu.
Nghe đến thuốc Bắc là tôi muốn nóng lạnh. Suốt thuở nhỏ, ngày nào tôi không uống thuốc Bắc thì uống thuốc Nam, có khi còn tắm bằng nước thuốc nữa.
Tôi nhăn mặt:
– Ngoại à, bác sĩ nói thai con mạnh lắm, không cần uống thuốc. Và dù phải dùng thuốc, con chỉ uống thuốc Tây thôi, thuốc Bắc đắng nghét hà.
Má tôi xen vào:
– Ngoại nói phải, có thai uống thuốc Tàu tốt hơn, con à. Thuốc Tây nóng lắm, mấy thứ thuốc đó thì khi con sanh đứa nhỏ sẽ còi cọc, không tươi tốt khỏe mạnh. Hãy nghe lời ngoại đi con.
Tôi gật đầu lấy lệ cho ngoại và má tôi hài lòng. Nhỏ Tuyết Nga biết ý:
– Má ơi! Con của đầm tây có uống miếng thuốc Bắc nào đâu, mà con nít của nó mập thù lù thấy thương thấy mồ! Coi chừng bà với má mua thuốc chỉ uổng tiền mà thôi. Biết đâu, khi sắc thuốc xong, chị Nhạn bắt anh Minh uống thế hết đó.
Đang bưng ly nước uống, nghe Tuyết Nga nói, tôi tức cười đến sặc.
Bà nội và chị Hai của Minh cũng sang thăm. Bà nội thì ở lại chơi mấy ngày, còn chị Hai thì về ngay hôm đó, vì các cháu còn nhỏ. Minh và tôi chờ đợi đứa con đầu ra đời với tất cả lòng nhiệt thành và tình yêu thiêng liêng của bậc làm cha mẹ trên thế gian nầy.
Con gái tôi chào đời vào mùa Trung Thu, đêm mười bốn rạng mười lăm (rằm tháng tám, năm Canh Tuất, nhằm ngày dương lịch 14 tháng 9 năm 1970). Theo lẽ chúng tôi phải đặt cho cháu cái tên Thu, Nguyệt, Hằng… để nói lên ý nghĩa một biểu tượng mà thi nhân, văn sĩ từ ngàn xưa đã tốn biết bao nhiêu giấy mực diễn tả, ca ngợi cái đẹp hiền dịu, lãng mạn, thơ mộng của mùa thu. Nhưng khi biết có thai, chúng tôi đã chọn tên rồi.
Cháu Diễm, được hai bên dòng họ nội ngoại yêu thương. Thể chất cháu cũng yếu đuối không thua gì mẹ hồi còn bé. Cho nên tôi rất cực với cháu. Nhưng tình yêu thương của người mẹ lấn áp hết mọi vất vả nhọc nhằn. Vợ chồng tôi vui buồn theo nụ cười tiếng khóc của con. Yêu thương lo lắng cho con, tôi quên cả bản thân mình.
Cuộc nội chiến của quê hương càng ngày càng sôi động. Người chiến binh càng ngày càng gian khổ hiểm nguy. Gia đình hai bên chúng tôi có người đã trở thành phế binh, có kẻ trở thành tử sĩ. Tôi vẫn làm việc ở bịnh viện như thường. Thời giờ không đủ để tôi săn sóc con, lo an nguy cho chồng, thì có đâu mà giun giăng giun giẻ với bạn bè như lúc còn độc thân. Tin chồng Thúy Hiền tử thương làm tôi bàng hoàng và thương xót nó vô cùng. Nó đang mang bầu đứa con đầu lòng được 8 tháng! Rồi Minh về nghỉ phép trước khi đổi ra phi đoàn 118 ở Pleiku.
Chung quanh tôi, hàng ngày gia đình của bạn bè, của chòm xóm và của người thân trở thành cô nhi, quả phụ càng lúc càng nhiều. Nỗi âu lo cho chồng làm tôi bất an. Tôi nghĩ dại, ngày nào đó được tin Minh tử trận, tôi phải làm sao đây? Tôi có sống nổi để lo cho con và xây dựng tương lai tươi đẹp cho nó không? Trong đời tôi, có một người để mình thương đã quá khó khăn. Người thương yêu mình chân thành lại càng khó hơn. Tình yêu chồng vợ thiêng liêng, hạnh phúc chân thật chỉ được xây dựng trên sự thương yêu chân tình, hiểu biết, hy sinh và tôn trọng lẫn nhau. Tôi không nói nỗi âu lo thầm kín của mình với chồng, nhưng lòng tôi xót xa, bồn chồn cho sự an nguy của chàng. Tôi cố tình mang thai để có đứa con thứ hai. Tôi thầm nghĩ, nếu Minh có mệnh hệ gì, tôi sẽ bám víu vào bổn phận làm mẹ và tình thương con để mà sống.
Minh ẵm con, tôi xách chiếc xách tay nhẹ đưa chàng ra bến xe, để đi lên phi trường về đơn vị mới. Bụng tôi đã đội áo vì mang thai được hơn 5 tháng. Thấy tôi mệt nhọc, uể oải chàng khuyên nhủ:
– Em ở nhà cố ăn uống bình thường để có sức khỏe. Đừng buồn, có phép anh sẽ về ngay.
Tôi nói nhỏ với chàng:
– Anh cũng vậy, vì mẹ con em anh phải giữ gìn cho khỏe mạnh để trở về.
Minh nhẹ gật đầu, trong mắt anh chứa chan niềm tin yêu và tràn đầy thương mến. Anh hôn con và trao lại cho tôi, ân cần căn dặn:
– Em phải tự săn sóc mình và con, ra đến đó anh sẽ biên thư về ngay.
Tôi nói qua màn lệ:
– Anh hãy bảo trọng.
Minh bước mau lên xe. Tôi bồng con trở về nhà, ngôi nhà sao lạnh lẽo dễ sợ!
Bây giờ Minh đổi đi xa quá. Ở nhà, tôi bận rộn với con nên ngày tháng qua mau. Tôi luôn sống khắc khoải trong niềm thương nỗi nhớ và sự lo lắng cho chồng, mong đợi tin chồng từng ngày. Tội nghiệp Minh, chàng biên thư về than thở: “Vùng cao nguyên anh đang công tác toàn là núi rừng bát ngát, mênh mông, bạt ngàn. Sáng mù sương, trưa mưa rơi, chiều giăng mây, tối không trăng, khuya lạnh lẽo. Nhớ vợ, nhớ con, buồn ơi là buồn! Những ngày không mưa thì nắng, màu nắng ở đây khác biệt với nắng vùng đồng bằng. Nắng ở đây xám trắng núi rừng…”.
Những ngày phép Minh về thăm, nhà tôi như hồi sinh trở lại. Đèn sáng choang, trước sau rộn rã tiếng nói cười. Mỗi khi Minh về thì chị giúp việc trong nhà và tôi giảm đi phần săn sóc cháu gái như thường lệ. Anh giành cho con ăn, tắm con, thay đồ cho con. Tối anh ẵm con qua nằm gần để anh nói chuyện, vỗ về cho nó ngủ say rồi mới ẵm về bên nôi của cháu.
Nghe anh than thở trong thư nỗi buồn ở đơn vị mới, chuyến anh về thăm đầu tiên tôi mua nhiều sách anh thích đọc xếp vào hành lý để anh đem theo. Trong mớ sách nầy, tôi còn nhét mấy hộp condoms xin bên bảo trợ mẫu nhi cho anh.
Lần về phép sau, anh thảy mấy hộp quà quý condoms đó trước mặt tôi, nghiêm giọng hỏi:
– Chuyện gì nữa đây? Em nghĩ anh thế nào, mà cho anh thứ nầy? Trước ngày thành hôn chuyện không có gì mà em ghen tưng từng tở bở, làm anh chới với. Bây giờ nhớ lại anh còn muốn nóng lạnh. Nay anh mà dùng thứ nầy, chắc sẽ bị em tạt acid, hoặc đưa vô cung đình làm ‘’thái giám’’ quá!
Tôi vội lấy tay che miệng Minh lại, cười bẽn lẽn:
– Tại bây giờ anh ở xa em, em phải hiểu biết chuyện đó chớ. Anh muốn làm gì bên ngoài thì làm. Nhưng em thành thật khuyên anh là: Thứ nhứt không được gạt gẫm con gái người ta, sau nầy trời trả báo, tội nghiệp cho con gái của mình. Thứ hai, không được dòm ngó vợ bạn, xấu lắm! Như vậy để khỏi bị trời phạt, là anh sẽ mất em. Thứ ba là em không muốn anh mang bịnh về lây cho em. Ngày xưa khác, nay khác chớ. Khi đó em chỉ có mình anh thôi, bây giờ em đã có con rồi, đến lúc em không còn đếm xỉa tới anh nữa.
Minh cù lét tôi, cười hóm hỉnh:
– Thật không đó? Em nỡ sao?
– Đúng rồi! Con chiếm 99% trái tim em, còn anh chỉ có 1% thôi. Nghèo lắm anh ơi! Đừng có ham!
Con gái Diễm tôi giống Minh bao nhiêu, thì thằng trai Phúc giống mẹ bấy nhiêu. Hai đứa là hai viên ngọc quý của chúng tôi và còn là tâm can bửu bối của bà cố nội tụi chúng. Kể từ khi tôi sanh cháu cố trai, thì bà nội Minh mới chịu về sống với chúng tôi. Mặc dù có người giúp việc, nhưng có bà cụ ở chung trong lúc Minh vắng nhà, tôi rất an tâm. Cụ quá thương hai đứa nhỏ, tôi chỉ cần tát nhẹ vào mông chúng, là ngày đó bà giận không thèm ăn cơm. Bà cưng đến nỗi Diễm mới có hai tuổi, mỗi lần phá phách gì sợ mẹ đánh, đến núp sau lưng cố là xong chuyện.
Minh về thăm nhà ra đi, lúc vắng mặt bà cụ, như là gặp lúc bà cụ đi đâu hoặc làm gì riêng rẽ với tôi thì chị Tài, (người làm) thường thỏ thẻ những chuyện về hai bà cháu của Minh. Rồi mợ cháu cười khúc khích. Chị Tài năm nay khoảng chừng ba mươi sáu tuổi, nhưng trông chị như bà già còi. Chị ốm tong teo, khô khan, xanh mét. Trong xã, những người quen biết thường gọi chị là con Hai Teo Héo, mẹ Hai Teo Héo, hay chị Hai Teo Héo chớ không ai gọi chị Tài cả. Chị là con ông Tám Câu (ông tên Tám, nhưng trong xóm nhiều người tên Tám, ông lại có nghề giăng câu, nên người ta gọi ông Tám Câu riết rồi thành danh luôn) ở rạch Bà Đưng, cùng làng với người cô của Minh. Tay chị có tật cán vá, lúc còn nhỏ bị té vì nghịch ngợm leo trèo cây cối. Chị mồ côi mẹ từ năm bảy tuổi. Cha của chị già yếu bịnh hoạn vì ghiền rượu sau ngày má chị qua đời. Năm mười tuổi, chị đi giữ em, đi ở mướn cho người ta sai vặt, để có tiền giúp đỡ cha.Thấy chị siêng năng, chân chất, sạch sẽ, nên cô của Minh giới thiệu xuống làm công việc nhà cho tôi và giữ hai đứa nhỏ lúc tôi đi làm. Tôi mến chị vì chị thật thà, hiếu thảo với cha; chị thương yêu, săn sóc hai cháu rất kỹ lưỡng. Chị quý mến tôi, có lần chị nói:
– Mợ Ba (Minh thứ ba) nhỏ tuổi mà tốt bụng quá. Mợ coi tôi như người nhà, gọi tôi bằng tên Tài, không khinh khi, hiếp đáp tôi như những người chủ trước. Tôi sẽ ở với mợ, cho đến lúc nào mợ không cần tôi nữa mới thôi.
Tôi cười:
– Tôi khó lắm, nhưng chưa rầy la chị, vì chị chưa làm gì sái quấy đó thôi.
Chị cũng cười cảm động:
– Tôi không sợ, mợ có thương mợ mới rầy la. Mợ Ba à, mợ có biết gì không?
– Biết gì?
– Hôm cậu Ba về, mợ đi làm, tôi nghe lén bà nói chuyện với cậu Ba.
– Vậy hả? Chị nghe lén như vậy không nên đâu nghen.
Chị Tài cười bẽn lẽn:
– Dạ, lần sau tôi sẽ không nghe nữa. ž, mà sao mợ không hỏi tôi nghe được gì?
– Chắc tôi làm sai việc chi đó, nên bà rầy cậu Ba chớ gì?
Chị Tài xua tay, lắc đầu lia lịa:
– Không phải, không phải đâu, mợ Ba ơi! Bà nói cậu Ba có phước mới cưới được người vợ biết điều như mợ. Bà dặn cậu Ba lúc ở xa mợ không được có mèo mỡ, hoặc làm gì có lỗi với mợ. Mợ làm việc cực nhọc, về đến nhà phải lo cho con cái. Có hôm chúng nó bịnh, mợ phải thức sáng đêm. Bà còn kể thêm, hôm đám giỗ ba của cậu, cậu không về được, nhưng mợ cũng tổ chức đàng hoàng như có cậu ở nhà. Mợ mời họ hàng bên nội và bên ngoại của cậu đến dự, lại còn dặn cô Hai dắt hết mấy đứa nhỏ lên nữa, tụi nó ăn thì nói làm gì, tụi nó phá phách không ai chịu nổi, chỉ còn cái kèo nhà cao quá thì chúng chưa leo lên được đó thôi. Bà nói không biết cô Hai dạy con cách nào mà tụi nó như vậy. Chúng chạy giỡn nhào vô mình bé Diễm. Con bé té đầu u lên một cục như trái cau, khóc điếng muốn mất thở. Mợ xót xa ẵm con lên, không nói lời nào, chỉ chạy đi tìm dầu xức cho nó. Vậy mà chiều, trước khi cô Hai về, mợ còn dắt hết mấy đứa nhỏ con cổ ra tiệm vải may cho mỗi đứa một bộ đồ mới để mặc Tết nữa.
Chị Tài dừng lại hỏi tôi và nói tiếp:
– Mợ biết cậu Ba nói gì không? Cậu nói với bà là mợ khôn lắm, bây giờ cho áo quần thì đỡ tốn tiền. Tết đến mọi thứ đều lên giá, vải sồ mắc, tiền công cũng mắc. Bà rầy cậu nói bậy, và bà còn cho cậu biết thêm là mợ nhét tiền cho cô Hai trả tiền công may áo quần cho mấy đứa nhỏ, còn dặn mua bánh trái cho tụi nó ăn Tết nữa. Cậu Ba cười hỏi bà chớ mợ đã may cho bà mấy cái quần lãnh, bao nhiêu áo nhung, hoặc mua cho bà mấy cái khâu vàng mà cứ khen cháu dâu và thương hơn cháu ruột của mình vậy? Bà cười mắng cậu Ba: ‘’Mồ tổ mầy, bà mừng cháu cưới được vợ tốt, nhỏ mà biết lễ nghĩa với họ hàng. Còn nàng dâu cô Sáu bây đó, nó ở Sàigòn, làm ăn khá giả lắm, mà cả năm nàng ta cũng không cho nó được cục kẹo mút nữa. Tội nghiệp nó, nó còn bị dâu ta thán rằng mẹ chồng thế nầy, mẹ chồng thế kia. Thật hết nói, cái nàng dâu cay xé như ớt hiểm’’.
Hai đứa con tôi lớn mau như thổi. lật bật mà hai năm trôi qua.
Tuyết Oanh nhìn hai cháu đùa giỡn thường nói:
– Có lẽ mụ bà nắn lộn, Diễm con gái mà da đen thui, còn Phúc con trai mà da trắng như hột gà lột vỏ. Thằng nhỏ có môi son, cằm chẻ, trán cao, vẻ thông minh nam tướng hiện lồ lộ.
Tuyết Nga nói:
– Ấy vậy mà Bé Diễm rất có duyên ở miệng cười. Mắt nó to, đen và tròn xoe như hột nhãn. Mũi thì cao, thon, kín. Con nhỏ lớn lên sẽ làm điên đảo các đấng mày râu gan đồng dạ sắt cho coi. Còn Phúc thì có bộ gió bảnh trai. Vợ chồng bà Tuyết Nhạn sau nầy tha hồ nuôi cháu nội rơi cháu nội rớt mệt nghỉ.
Nghe hai bà dì xí xọn phê bình hai cháu mình là hai cục cưng của vợ chồng tôi, tôi vui vẻ hỏi:
– Hai đứa bây làm thầy bói toán hồi nào vậy? Có bói toán cho mình trong tương lai sẽ gặp đấng phu quân người ngợm ra sao không?
Hai đứa cười khúc khích, Tuyết Nga nói:
– Có chớ! Nhưng em không thể nói trước được! Thiên cơ bất khả lậu mà.
Tôi và Minh nhìn nhau mỉm cười, ngầm thừa nhận lời lẽ xuyên tạc thân thương của hai cô em xinh đẹp nầy.
Năm đó chúng tôi có hai chuyện buồn lớn. Đầu năm bà nội Minh qua đời. Tối, bà cụ ngủ, sáng không thấy cụ thức dậy sớm cúng nước bàn thờ Phật, tụng kinh như thuờng lệ. Tôi vào định đánh thức cụ trước khi đi làm, mới phát giác cụ tắt thở tự bao giờ, mà trên tay vẫn còn cầm xâu chuỗi hổ phách. Cô chú của Minh đem thi hài của bà về mai táng gần mồ mả ông bà, và ông nội của chồng tôi cho ấm cúng.
Giữa năm, Minh bị thương chân, do đạn giặc trong chuyến công tác. Chàng phải nằm ở quân y viện và chân băng bột hết mười mấy tháng. Chàng giải ngũ, trở về hành nghề cũ. Vì thâm niên công vụ trước ngày đi lính, vì quyền lợi của một phế binh, chàng được Bộ Giáo Dục bổ về làm Hiệu trưởng một trường trung học đệ nhất cấp ở quận xa nhà. Chàng từ chối, xin được làm giáo sư dạy trường trung học trong thành phố để được gần gia đình.
Tôi không biết đây là vận may hay vận rủi. Chồng tôi có vẻ hài lòng vì dù sao, chàng đã làm xong trách nhiệm của một người công dân thời loạn. Giờ đây, được sống sót về với gia đình, chàng yên phận và chăm lo với những gì mình hiện có.
Chị Diệu Tâm, Ánh Ngọc, Vân Anh vẫn làm chỗ cũ, vẫn gặp tôi hàng ngày. Với chị Diệu Tâm tôi ưa tìm dịp tâm sự. Với hai con kia tôi vẫn thường cười giỡn, nhưng cái thời kỳ hồn nhiên, cái hứng thú của tuổi trẻ đã qua rồi. Những lo âu thường nhật, những bận rộn dành cho gia đình khó mà trả lại cho chúng tôi những ngày thú vị thân ái thuở xưa.
Đều đều, tôi viết thư an ủi, tâm sự với Thúy Hiền, thỉnh thoảng viết thư cho Thu Trinh. Mỗi bức thư trao đổi của tụi tôi chứa đầy tâm sự vì tụi tôi có nhiều chuyện để kể lể, bàn bạc, trao đổi ý kiến. Và thỉnh thoảng đọc lại thư tụi nó, đọc lại những dòng nhật ký của mình, tôi chợt nhận ra là bọn tôi không còn cái hồn nhiên thơ mộng như thuở còn độc thân.
Chúng tôi có nhiều vấn đề liên quan tới cuộc chiến hoặc do cuộc chiến gây ra.
Chương 12
Ngày lại ngày qua, những cây bông chiết nhánh trồng xung quanh nhà tôi, như cây sứ trắng (người Bắc gọi là cây đại), cây trâm ổi, cây thông thiên đã trổ bông. Minh cắt xén sửa sang lại cây bông giấy, cây huỳnh anh uốn vòng cung ở cổng nhà.
Trước đó, tôi đã đem bài vị của bà nội Minh vào chùa Vĩnh Tràng để vong linh bà cụ được nghe kinh kệ sớm chiều, được hưởng lây hương thơm của nhang cúng Phật. Tôi cũng gởi cho chú thiếm chàng một số tiền xây mộ cho bà cụ bằng đá granito màu lam tím, mộ bia bằng đá hoa cương có khắc chữ thếp vàng. Giữa nhà, Minh đặt bàn thờ có bức họa truyền thần của cụ lúc còn trẻ. Chàng cúng hoa quả không ngớt, tối nào cũng thắp nhang. Dưới bức truyền thần của bà là bức ảnh của ba má chàng.
Tuyết Oanh và Tuyết Nga đến Mỹ Tho thăm chúng tôi. Hai dì mua cho cháu bánh kẹo còn kèm theo một chùm bong bóng bay, tím, đỏ, xanh vàng, có vẽ hình chim cò, lá hoa. Mấy đứa nhỏ quýnh quáng chạy ra mừng. Hai dì hỏi cháu:
– Hai đứa thương ai nhứt?
– Dì Na, dì Oan.
– Ai đẹp nhứt?
– Dì Na, dì Oan.
Dụ khị được hai đứa nhỏ khen cái gì cũng nhứt, hai bà dì thích chí cười tươi vui vẻ hun lấy hun để hai cháu. Tụi nó cho biết sắp đính hôn. Tuyết Oanh nói: “Người ta thường nói chạy trời không khỏi nắng”. Còn em, em xin sửa lại là “Chạy trời không khỏi lính”
Tôi bợ ngợ:
– Tụi bây muốn nói gì?
Tuyết Nga hóm hỉnh:
– Tụi nầy sắp lấy chồng nhà binh. Tuy hai ông em rể tương lai của chị là sĩ quan, nhưng cũng mặc bộ “trây di” như lính.
Tôi biết hôn phu tương lai của Tuyết Oanh là Sĩ quan Pháo binh, người Bắc, con của gia đình di cư năm 54, theo đạo công giáo. Lúc ban đầu con bé gặp nhiều trở ngại về tôn giáo hai bên, ba má tôi không bằng lòng. Tôi và chị Tuyết Loan dùng bảy tấc lưỡi Tô Tần và viện dẫn mọi lý do để thuyết phục ông bà. Nào là: “Nữ sanh ngoại tộc, con gái phải theo đạo chồng. Đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn hiền ở lành, hiếu thảo với mẹ cha v v…” Sau cùng, ông bà cảm động, và phần lớn cũng vì thương con nên đành chấp nhận cuộc hôn nhân nầy.
Nhà tôi hôm đó có cả Vân Anh và Ánh Ngọc đến chơi, vì tôi rủ tụi nó đến ăn ốc gạo. Bây giờ thêm hai con em tôi có lộc ăn, bất ngờ đem tin vui đến và nhập bọn ngay. Bọn chúng tôi xúm xít luộc ốc gạo rồi cuốn với bánh tráng rau sống và dừa rám nạo chấm nước mắm chanh ớt. Có món xôi vò do nhỏ Vân Anh về quê đám giỗ đem xuống. Tráng miệng bằng rổ măng cụt do anh của Ánh Ngọc chở bán chợ Mỹ Tho ghé qua cho, và mỗi người còn thiếm xực một chén tào hủ bánh lọt lá dứa chan nước cốt dừa và đường thắng kẹo làm thanh miệng mát lòng.
Bỗng Vân Anh hứng chí ngâm:
“…Ai ơi đừng lấy Hải quân
Bến nào nó cũng gh…
Xà quần theo mấy ả bán bar”
Ánh Ngọc châm thêm:
“Ai ơi chớ dại mà lấy pháo binh
Đêm đêm nó bắn rung rinh cái giường”
Cả bọn cười thiếu điều bay nóc nhà. Minh đi mua sắm về, không biết anh có nghe chúng hát trây hay không? Anh chào mọi người, rồi cười cười bỏ vào nhà trong dắt hai đứa nhỏ ra ngoài cho chúng chạy giỡn dưới bóng mát cây bàng bên sân Ty Nông Nghiệp cạnh nhà tôi. Tuyết Nga nín cười nói với Vân Anh:
– Chị nghĩ tầm xàm không hà! Hôn phu tương lai của em hào hoa phong nhã, con nhà đàng hoàng, thương em thiệt tình mới cầu hôn với em đó chớ bộ! Chị biết không? Trong những buổi họp bạn, nếu có ai mời ảnh lên hát, ảnh hát mùi thiệt mùi, hay thiệt hay, mắt liếc em mơ màng, làm mấy nhỏ bạn ganh tị quá chừng chừng. Và em hãnh diện lắm lắm: “Mắt em màu trùng dương, tóc em như sóng cuồn, gió nhẹ tựa như hơi thở của người yêu…”
Ánh Ngọc, cướp lời Vân Anh nói trước:
– Thôi Tuyết Nga ơi! Không nhận em ngây thơ không được. Dĩ nhiên anh ta yêu em rồi, anh ta đàng hoàng, hào hoa phong nhã hay phong ngứa chi đó. Trước mặt em thì anh ta hát đúng lời, nhưng sau lưng em biết đâu anh đã đổi lời hát: “Mắt em bù lạch ăn, tóc em như tóc chằng…” thì sao? Ai cấm anh ta không hát như vậy được?
Cả bọn lại phá lên cười nữa, Tuyết Nga vừa cười vừa rược đánh Ánh Ngọc.
Vân Anh hát theo điệu bài “Hoa Biển” của Anh Thy: “Chồng em đại úy, em không vừa ý lắc lư con tàu đi”
Tôi mắng vãi tụi nó nhưng cơn cười vẫn còn sôi sụt trong bụng mọi người:
– Tụi bây có câm cái miệng dơ dáy của tụi bây lại không? Cứ nói trây bậy bạ quá đi.
Rồi mỗi con em tôi chìa ảnh của hôn phu tương lai mình ra khoe. Tên nào ảnh xem cũng tạm được về dung mạo thôi. Nhưng cả hai đều khỏe mạnh, oai hùng trong bộ quân phục: Bộ quần áo rằn ri, tên pháo binh của Tuyết Oanh cùng bộ đồng phục hải quân ý trung nhân của Tuyết Nga, cho nên trông tụi hắn oai phong tuấn tú hơn. Ngắm bức ảnh tên trung úy pháo binh đứng bên cỗ đại pháo, Vân Anh cười mỉm chi cọp, nhìn Tuyết Oanh khen:
– Mèn ơi, cỗ đại pháo của kép con Tuyết Oanh lớn quá, chĩa thẳng về phía trước.
Cả bọn phá lên cười lộn ruột lộn gan. Ánh Ngọc nhịn cười, lên tiếng:
– Bộ mắt mầy quáng gà sao Vân Anh? Cổ đại pháo của kép Tuyết Oanh chỉ thiên, chớ không phải chĩa thẳng.
Tôi là đứa không ưa nói trây mà cũng không nhịn được, ôm bụng cười muốn mất thở. Bốn con kia cười bò lăn, bò lộn, bò la, bò lết, cười chảy nước mắt, cười đỏ mặt tía tai. BỗngVân Anh nín cười, làm mặt nghiêm bắt bẻ:
– Tao có nói gì bậy bạ đâu mà tụi bây cười dữ vậy? Tại tụi bây đầu óc đen đúa, hắc ám nghĩ sa đà tới chuyện gì khác nên bây cười phải không? Mấy con quỉ xà niên!
Tình hình đất nước càng sôi động. Phước Long thất thủ, rồi Pleiku, Kontum, Ban Mê Thuột. Rồi Huế, Đà Nẳng, Nha Trang. Quân Đoàn III phải dời ra Phan Rang làm mặt trận tiền phương. Các địa điểm quân sự trọng yếu lần lượt thất thủ theo vận tốc dây chuyền.
Tin anh Nguyễn Hồng Tân, hôn phu của Ánh Ngọc tử trận làm tôi bàng hoàng xúc động, vội chạy bay lại phòng làm việc của nó. Nó ngồi đó bất động, mắt thao láo, mặt mày nhợt nhạt cắt không có chút máu. Nó ôm chầm lấy tôi mà khóc nức nở, tôi khóc theo, mọi người có mặt trong phòng cũng không sao cầm được nước mắt. Bỗng nó kéo tôi và Vân Anh vào bên trong, thì thào:
– Tao có thai hơn hai tháng rồi.
Tôi đứng chết sững! Không nói được lời nào. Sau đó, chúng tôi đưa Ánh Ngọc về cư xá độc thân, nơi nó và Vân Anh ở. Vân Anh thắc mắc:
– Ai cho tin mầy hay anh Tân tử trận? Thi thể ảnh bây giờ ở đâu?
– Em gái ảnh chớ ai? Đã đưa quan tài ảnh về nhà ba má ảnh rồi.
Vân Anh quay qua tôi:
– Mầy nghĩ sao, Tuyết Nhạn?
Tôi ngập ngừng rồi nói:
– Theo tao, bây giờ Ánh Ngọc lấy một vài thứ đồ cần dùng cá nhân rồi qua ngay nhà ba má ảnh, nói rõ mọi việc cho họ biết, coi họ nghĩ thế nào? Vì tụi nó đã đính hôn và hai bên cũng đã định ngày cưới cho tụi nó rồi mà.
Ánh Ngọc xua tay:
– Không được đâu, kỳ quá, tao sợ lắm!
Vân Anh nhăn mặt:
– Non nước nầy mà còn sợ và kỳ gì nữa? Tuyết Nhạn nói đúng. Tao sẽ đi với mầy, đừng có lo Ánh Ngọc.
Tôi nhanh miệng nói:
– Tao đi với tụi bây! Ánh Ngọc đừng sợ, con họ đã qua đời, giờ có cháu nội họ sẽ mừng và cảm ơn mầy không hết chớ ở đó mà cười chê, hay bắt bẻ cái nỗi gì nữa.
Vân Anh cản tôi:
– Không được, tao đi với nó đủ rồi, mầy còn có con nhỏ, hãy ở nhà chờ tin bọn tao.
Những chuyến tải thương về bịnh viện ngày càng nhiều hơn. Bịnh nhân không còn chỗ trong phòng để nằm nữa, phải ra nằm ngoài hành lang. Minh vẫn đi dạy học, còn tôi thì bù đầu trong bịnh viện. Có khi không thời giờ để ăn trọn bữa cơm. Có hôm miệng đắng, mệt đến lã người, chân đứng không muốn vững, tôi mới nhớ từ sáng đến gần mười giờ đêm mình chưa có miếng gì trong bụng.
Viễn ảnh nước mất! Nhà tan, làm tôi như loay hoay trong cơn mộng du.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975,
giặc Cộng cưỡng chiếm miền Nam!
Tôi sững sờ nhìn qua cửa sổ thấu ra đường sá bên ngoài. Xe đủ loại cùng kẻ bộ hành chạy xuôi chạy ngược tháo thân. Kẻ gánh người bưng hối hả trở về, trên mặt họ hằn vẻ âu lo sợ hãi. Trong bịnh viện, những bịnh nhân nào đi được, còn tỉnh táo họ bảo thân nhân đưa về nhà không cần hỏi ý của y tá trại. Cảnh hỗn loạn với bao kẻ tay bồng, tay dắt, kẻ chạy, người đi, hớt hải, ồn ào xáo trộn khắp các trại. Nhân viên hành chánh, nhân viên chuyên môn, dụm năm dụm ba…
Chiếc radio trên đầu tủ thuốc phát rè rè lời của vị Tướng lãnh kêu gọi buông súng đầu hàng giặc!
Trời đang nắng ráo chói chang, bỗng mây đen kéo tới mịt mù, gió vùn vụt và mưa rơi ào ào. Tôi đứng đây, xa cửa sổ, bất động! Tâm tư tôi tê dại, rối bời. Má tôi ướt, vì nước mưa tạt? Làn nước thấm môi tôi mằn mặn! Tôi mới chợt biết mình đã khóc!
Các nhân viên ra về mỗI lúc nhiều hơn. Chợt bà y công từ cửa phòng hớt hải bước vào, vừa đi vừa lẩm bẩm:
– Không biết rồi đây sẽ ra sao? Trong ngoài gì cũng hỗn loạn quá! Cô Nhạn ơi, thằng rể tôi là hải quân, đơn vị nó đóng ở Đồng Tâm, hôm tuần rồi về thăm nó nói nếu có biến động gì thì gia đình tôi đến chỗ hẹn để cùng đi. Cô Nhạn, gia đình cô có muốn ra biển với chúng tôi không?
Tôi như người mất hồn, không trả lời. Bà y công tưởng tôi không nghe, nên lập lại:
– Cô Nhạn, cô có nghe tôi nói không?
– Có, cảm ơn dì Năm, dì về thu xếp đi ngay cho kịp, mau đi! Vì hai đứa nhỏ tôi còn gởi trên ngoại, tôi không thể bỏ chúng ở lại được.
Bà ôm tôi khóc:
– Mong sau nầy mình sẽ gặp lại nghen cô…
Bà y công bịn rịn không muốn rời xa tôi, tôi hối bà thêm một lần nữa, bà mới chịu đi. Nhân viên các ngành về gần hết. Chỉ còn tôi tần ngần đứng đó không biết làm gì? Tâm hồn tôi như không còn cảm giác và lác đác một vài người thôi. Bịnh viện xơ xác tiêu điều. Cổng sau của bịnh viện cách vòng rào dinh tỉnh trưởng bằng con lộ đá Lý Thường Kiệt. Hàng ngày bên nầy có nhân viên giữ an ninh trật tự, bên kia có lính gác. Đôi lúc, họ còn trò chuyện với nhau, hoặc tặng nhau điếu thuốc. Hôm nay tất cả bỏ ngõ, vắng vẻ đìu hiu!
Cây liễu trong vòng rào bịnh viện, bên cạnh phòng làm việc và nhà ở của các bà phước đứng ủ rủ, lẻ loi bất động. Mặc dù qua cơn mưa lớn, nhưng mưa vẫn không làm tươi thắm lá cành. Những cây bã đậu cao dọc theo đường, che bóng mát cho hàng quà gánh bán bên ngoài khu bịnh viện giờ đây vắng tanh, lơ thơ vài sạp lõng chõng ngã nghiêng. Mấy con chó hoang sủa vu vơ chạy lang thang ngoài rào.
Thật không có cảnh nào tả tơi, xơ xác, tang thương trong tâm hồn tôi và ngoại cảnh như lúc bấy giờ.
Ông y tá trưởng phóng xe đạp đòn dong chạy ra cửa. Chị Diệu Tâm nháy mắt cho tôi biết chị về. Tôi hết ngồi rồi đứng, đi tới đi lui trong phòng làm việc. Tâm hồn tôi trống rổng, không có một chủ kiến nào hết. Trên bàn viết, giấy tờ lộn xộn. Xe băng, xe chích ngổn ngang, thuốc men bừa bộn, rơi rớt, ngã nghiêng. Bỗng có tiếng ông quản lý:
– Cô vẫn còn ở đây sao cô Nhạn? Mọi người về hết rồi.
Tôi quay lại chào ông, không ngờ có cả bác sĩ Giám đốc đi bên cạnh:
– Dạ chào ông, chào bác sĩ, quý vị cũng chưa về?
Bác sĩ Giám Đốc cười héo hắt:
– Chúng tôi đi một vòng rồi về, cô cũng nên về đi. Tôi đang theo dõi tin tức ở đài phát thanh, không biết rồi đây sẽ ra sao? Thôi xin chào, cô về đi nhé. Mong sau nầy mình sẽ gặp lại trong hoàn cảnh tốt đẹp hơn.
Trước đó, giữa tháng tư, tình hình sôi động mãnh liệt, tôi dắt hai đứa nhỏ về gởi cho ngoại cháu. Kể từ ngày ở miền Trung và nhiều nơi bị thất thủ, tôi và Minh lo sợ đạn pháo vô tình, rủi vợ chồng tôi chết, con cái tôi sẽ bơ vơ. Minh đi làm hai miếng in-nốc-xi-đáp, có hình dạng như tấm thẻ bài, khắc tên cháu và tên cha mẹ cùng địa chỉ, để phòng hờ rủi ro chúng tản lạc còn sống sót sẽ biết ở đâu mà tìm về. Minh bàn với tôi:
– Giờ họ đã chiếm toàn lãnh thổ rồi, chắc không còn pháo kích nữa đâu. Thôi để anh đi rước con về.
Tôi ngăn:
– Thôi, để em đi cho. Thời buổi nầy, nếu gặp khó khăn gì, với đàn bà chắc họ cũng dễ dãi hơn.
Tôi vừa bước vô nhà, má tôi kéo tôi vào buồng khóc tức tưởi. Bà cho biết Tuyết Oanh theo gia đình bên chồng rời Việt Nam hôm tối 29 tháng 4 tại bến Ninh Kiều, Cần Thơ. (Tuyếnh Oanh có cậu em chồng đang làm dược sĩ ở quân y viện trong thành phố nầy) Họ đã lo bãi bến hết rồi. Má tôi sợ tôi rước mấy đứa nhỏ về để đi nữa. Bà nói:
– Gia đình bên chồng của Tuyết Oanh toàn là thứ cao cấp trong quân đội và trong chính quyền nên họ đi là phải. Còn thằng Minh dạy học, con làm y tá thì không sao. Vả lại tụi bây có gây oán thù với ai đâu? Chỉ giúp người mà thôi, đừng sợ, và đừng có đi bỏ ba má nghe con…
Nói đến đó bà nghẹn lời, lấy khăn lau dòng lệ. Lòng đang buồn hiu hắt, tôi nói nhỏ như thì thào để bà an lòng:
– Anh Minh nhớ hai đứa nhỏ nên bảo con rước chúng về, chớ tụi con có định đi đâu? Dù muốn đi cũng không có tiền mà đi. Má đừng lo.
Má tôi vui nét mặt:
– Thôi, để má đi nấu cơm cho mẹ con bây ăn rồi về cho sớm, kẻo thằng Minh nó trông tội nghiệp.
– Chị Bảy đâu má?
– Nó xin nghỉ hơn mười ngày rồi, vì ba nó té gãy tay, nó phải về chăm sóc.
Tôi to nhỏ :
– Má nên thu xếp gia đình cho gọn lại, của cải đem chôn giấu kỹ nghe má. Thời buổi nầy, không biết rồi đây sẽ ra sao? Má còn nhớ, ba thường hay kể chuyện đấu tố ở miền Bắc không? Nhớ nghe má, cẩn thận là hơn.
– Ờ, má biết rồi.
Hầu hết quân nhân, công chức bị đưa vào trại tập trung cải tạo sau khi bị gán hai tiếng “ngụy quân/ ngụy quyền” Đó là một hình thức giam cầm, đày đọa trả thù của người Cộng Sản lên người Quốc Gia. Chồng tôi cũng bị đày giam ở Vườn Đào thuộc tỉnh Đồng Tháp.
May mắn cho tôi gặp được anh của bà hàng xóm. Ông ta là dân ngoài Bắc vào thăm em, sau mấy mươi năm đất nước bị cắt chia. Tôi sang thăm ông với tư cách xã giao để đẹp tình lối xóm. Tiện đó, tôi hỏi ông ta về hiện trạng của chồng tôi. Ông nầy là cựu công chức thời Pháp thuộc, bị nghỉ việc lâu rồi, bây giờ buôn bán nhỏ để sinh sống. Ông nói cho tôi biết những bất công của chế độ miền Bắc đã trải qua bao nhiêu năm rồi. Sau cùng, ông khuyên nhủ tôi:
– Với bất cứ giá nào, bà cũng phải dùng tiền đốt bọn nó, để chồng bà được thả về. Nếu không thì ông ấy sẽ tàn đời trong ngục giam. Mạng người dưới chế độ Cộng sản rẻ hơn con heo. Bà biết không? Vì con heo bán có tiền.
Trong lúc Minh bị giam cầm, thì trong bịnh viện, tôi cũng xấc bấc xang bang với lũ người dựa hơi giặc. Mà dân miền Nam gọi lén là “bọn cách mạng 30” Lúc giặc vào, con gái Diễm tôi đang học lớp hai, thằng trai Phúc vào lớp một. Một hôm hai đứa nhỏ đi học về, tôi chới với thấy mỗi đứa choàng trên cổ chiếc khăn quàng đỏ. Kéo chúng vào nhà, tôi trợn mắt, hỏi:
– Ai cho các con khăn nầy?
Con gái tôi sợ sệt, nhìn tôi, giọng rụt rè:
– Cô giáo nói con là cháu ngoan Bác Hồ. Ngày nghỉ, tụi con đi lượm giấy vụn ngoài đường để làm tàu Thống Nhất. Hồi nãy, trên đường về nhà, con lượm được mấy tấm giấy, nhưng dơ quá con để ngoài sân.
Lôi hai đứa nhỏ đi tắm, trắng đêm đó tôi không sao chợp mắt được. Tôi xót xa cho chồng, lo cho tương lai hai con thổn thức khóc lén từng cơn. Rồi tôi dốc hết của cải dành dụm bấy lâu nay để lo cho chồng ra khỏi tù.
Chàng về không có công ăn việc làm nên không dám ở nhà, vì ngại tai mắt của bọn cách mạng 30, và bọn công an phường khóm. Tôi luôn đưa chàng ở đậu nhà họ hang. Khi thì tá túc ở họ hàng bên anh, lúc thì ở nhà mấy dì, và mấy cậu bên ngoại tôi.
Bỗng dưng trong lòng tôi nẫy ra ý muốn vượt biên! Chồng tôi còn trẻ anh có thể lập nghiệp ở xứ người không khó khăn. Còn tương lai của các con tôi sẽ ra sao, nếu cứ mãi sống trong chế độ nầy? Nhưng tiền phải trả cho người tổ chức vượt biên nhiều lắm! Tôi cùng đường, không biết chạy đâu ra?
Cứ mỗi lần lâm vào hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo, bế tắt, vào mỗi tối, tôi thường ra giữa trời cầu nguyện. Tôi dựa vào Ơn Trên để nuôi hy vọng tìm được lối thoát ra khỏi đất nước đầy dẫy tai ương nầy.
Thế rồi có một hôm, ông bạn cũ của Minh là anh Trần Công Nghi đến thăm. Anh Nghi nói với tôi là muốn gặp Minh để bàn việc làm ăn. Tôi cho ông biết Minh không có ở nhà. Ông ta hẹn tuần tới sẽ trở lại. Tôi lo sợ, vì thời buổi nhiễu nhương nầy, làm sao tin ai được? Kể cả họ hang!
Tôi qua nhà bà dì của Minh, nơi Minh tá túc ở xã An Khánh, thuộc tỉnh Kiến Hòa. Tôi kể lại mọi việc cho Minh nghe. Chàng nói anh Nghi đáng tin cậy, vì ông ta và chàng dạy chung, nên quen sáu bảy năm rồi, nên rất hiểu tánh nhau.
“Nhờ Ơn Trên giúp đỡ! Vận may mở cho tôi một cánh cửa dẫn ra khỏi cơn bế tắt to lớn nầy”
Có tất cả mười người, mỗi người hùn vốn hai lượng vàng để mở tổ hợp làm bột nuôi trẻ, thay sữa. Tiền bạc trong nhà vừa lo cho Minh được phóng thích đã hết sạch. Tôi lấy hết nữ trang của hai đứa nhỏ, và về má tôi mượn thêm cho đủ hai lượng vàng để hùn vốn với anh Nghi (người bạn đến tìm Minh, đề nghị mở tổ hợp bột nuôi trẻ. Và sau nầy gia đình anh cũng vượt biên và hiện cư ngụ ở Canada) đã bày biểu tôi.
– Chị Minh, chị hãy lấy bột đi bỏ mối cho các chợ. Bán được bột thì chị trả vốn cho tổ hợp, còn lời thì chị hưởng. Nếu bột không bán được thì chị đem trả lại, chỉ mất công thôi, chớ có lỗ lã gì đâu. Chị cố gắng lúc ban đầu, mời chào thế nào cho họ biết mặt hàng của mình. Sau nầy, thấy bột có phẩm chất tốt, họ sẽ gọi chị đem đến hoài hoài. Rất dễ kiếm tiền. Tôi nghĩ chị sẽ làm được…
Thật sự tôi ngại ngùng lắm, vì lúc nhỏ tôi chỉ có ăn học. Lớn lên tôi học nghề và ra đời làm việc liền, có biết buôn bán chi đâu. Tôi cứ ngần ngừ mãi, cho đến một hôm Vân Anh đến nhà chơi, tôi kể cho nó nghe và nói với nó thật sự trong những ngày nghỉ, tôi cũng muốn làm gì thêm để kinh tế gia đình đỡ hơn.
Nhỏ Vân Anh tốt bụng giới thiệu tôi cho người chị họ nó có sạp bán hàng chợ trời, để chị lấy bột bán thử dùm tôi, và giới thiệu tôi với những bạn hàng khác mà chị quen biết.
Tất cả đều do sự sắp xếp của Thượng Đế (tôi tin tưởng như vậy). Bột bán rất chạy, cả khu chợ Mỹ Tho đa số là khách hàng của tôi. Rồi dần dà đến các chợ Gò Công, Bến Tre, Long An, Cai Lậy, Cái Bè… Chưa đầy hai năm, chúng tôi âm thầm mua trên 20 lượng vàng. Thiệt chỉ có ơn Trên giúp đở, an bài! Lúc bấy giờ có tiền, tôi mới nói với Minh:
– Em cầu nguyện Ơn Trên cho chúng mình làm có tiền đủ trả chủ tàu để vượt biên thôi. Bây giờ thì em có sẵn tiền rồi. Anh dắt Phúc đi trước, nếu bị bắt thì có em ở ngoài lo cho anh. Anh đi suôn sẻ thì em tìm đường dắt Diễm đi sau.
Minh làm thinh không trả lời. Chiều hôm sau, Minh từ trên tổ hợp bột về nhà, tôi đem chuyện vượt biên ra nói nữa. Chàng trầm ngâm một hồi rồi bảo:
– Vượt biên sẽ gặp nguy hiểm trùng trùng, 90% chết, chỉ 10% hy vọng sống sót. Đã không đi thì thôi, còn đi thì vợ chồng con cái mình cùng đi một lượt. Có gặp hiểm nguy thì cả nhà cùng nhau chịu, chớ không có kẻ đi trước, người đi sau…
Chồng tôi là như vậy đó. Trước khi làm một việc gì dù lớn hay nhỏ, anh cũng nghĩ suy rất chín chắn, đâu đó đàng hoàng, chớ không lụp chụp lao chao như tôi. Dù ở hoàn cảnh nào, chàng cũng là cột trụ của gia đình. Chàng đùm bọc che chở mẹ con tôi. Có chàng, tôi an tâm trước mọi vấn đề dù phức tạp, khó khăn đến thế mấy đi nữa. Chàng bày giải hợp tình, hợp lý, cho tôi thấy tôi biết mọi gút mắc phải tháo gỡ, phải giải quyết cách nào mà không hại người phiền mình. Tôi luôn thầm cảm tạ Trời Phật đã cho tôi một người chồng tốt để dìu dắt, giúp đỡ tôi trên đoạn đường đời dài, nhiều hệ lụy, oan trái nầy.
Sau khi nghĩ suy cặn kẽ, vợ chồng tôi quyết định dẫn con tìm đất nước tự do để dung thân. Tôi chạy đôn chạy đáo tìm đường vượt biên. Hai lần bị gạt, họ lấy tiền rồi đi mất, không gọi chúng tôi cùng đi như họ đã hứa. Cuối cùng chúng tôi làm giấy tờ giả người Việt gốc Hoa đi theo tàu đăng ký bán chánh thức, nhờ người bạn giới thiệu.
Có chuyến vượt biên nào không chết chóc, đói khát? Tôi đi theo tàu của người bạn, trước làm việc ở Việt Nam Thương Tín (Con gà đẻ trứng vàng). Chị có người anh rể, người Việt gốc Hoa làm chủ một chiếc tàu lớn với trọng tải chở khoảng chín trăm người. Chuyến tàu nầy chở toàn thương gia ở Chợ Lớn, và những người giàu có, tai mắt ở Mỹ Tho. Muốn được an toàn, chủ tàu chỉ chở bảy trăm người kể cả già trẻ bé lớn. Không ngờ ra gần đến hải phận, bọn công an đẩy xuống tàu hơn năm trăm người đã đăng ký với chúng, nhưng chúng không có tàu cho họ đi. Tàu chúng tôi đi bây giờ quá khẳm, vì số người nặng hơn số trọng tải được chở của tàu.
Tôi và con gái tôi ói lê mê lết mết, ói tới mật xanh, ói không thấy đường đi, không đứng dậy nổi. Còn cha con thằng Phúc thì tỉnh queo, hai cha con ngủ gà ngủ gật và dìu đỡ hai mẹ con tôi. Đến ngày thứ năm, tàu tôi đến thẳng hải cảng Mã Lai. Bị dân chúng trên bờ chọi đá, chưởi bới đuổi đi. Tàu chúng tôi được chính quyền ở đây cho nước uống, sau đó họ kéo bỏ ngoài hải phận, và chỉ hướng cho tài công tàu tôi chạy về Nam Dương quần đảo.
Chuyến hải trình suốt mười ngày trên biển. Các tàu thương mại quốc tế không ngó ngàng tới, mặc dù trên tàu thả khói màu cầu cứu, cho mấy bà mang thai, và giả mang thai đứng trước mũi tàu cho những tằu khác đi ngang thấy, để gợi lòng từ tâm của họ mà cứu vớt chúng tôi. Có lẽ tàu chúng tôi lớn, quá đông người, sẽ gây phiền phức sau nầy, nên tàu họ chạy chầm chậm, xa xa, rồi bỏ đi luôn. Mấy chiếc tàu hải tặc ngụy trang đánh cá chạy loanh quanh cũng không dám đến gần, rồi cũng bỏ đi.
Tàu tôi lúc chạy, lúc thả trôi theo sóng nước, vì hỏng máy, và xăng dầu đã cạn. Cuối cùng rồi cũng được cập vào Terempa, một đảo nhỏ của Nam Dương. Nhờ ông chúa đảo có từ tâm, người tu hành chân chính, theo Phật Giáo.
Suốt 9 tháng, gia đình tôi từ đảo nầy qua đảo khác, đói khát, đau ốm liên miên. Có lần tôi tưởng đâu con gái tôi bỏ xác ngoài hải đảo vì bịnh tiêu chảy. Cháu đi cầu liên tục hai ngày liền đến nổi không ngồi dậy được. Tôi ôm con trên tay, nhìn con thoi thóp thở mà không có miếng thuốc nào cho con uống. Tôi muốn chết cho rồi! Lúc bấn loạn tâm hồn, tôi nguyện cầu Trời Phật, kêu réo thần linh của biển cả, của núi đồi… Tôi vừa khóc, vừa kể lể, vừa xin xỏ: “Xin Ơn Trên hiển linh cứu giúp chúng con, lúc làm ở nhà thương, có những đứa trẻ chết trên tay con, mà con còn cứu sống chúng được. Bây giờ con của con bịnh như thế nầy mà ơn trên không cứu cháu sao?” Tôi ôm con trên tay mà cõi lòng nát tan, tê tái, nước mắt tôi đầm đìa.
Trời ơi! Bây giờ tôi mới biết thế nào là nỗi đau cắt từng đoạn ruột!
Tôi ngồi kế bên con đang nằm thiêm thiếp, mặt mày tái nhợt, tay chân quờ quạng. Tôi vừa khóc, vừa đổ xách tay ra tìm kiếm, nhưng không biết mình tìm kiếm gì. Bỗng mắt tôi sáng lên, tôi lại chớp mắt thêm mấy lần, xem có phải mình chiêm bao không? Một chai thuốc cầm tiêu chảy còn nguyên vẹn chưa mở nắp từ giỏ rớt ra. Tôi mừng không sao nói nổi, và cũng không biết mình đã để chai thuốc cầm tiêu chảy nầy vào giỏ hồi nào. Tôi thầm cảm ơn Trời Phật, và mau lấy thuốc cà nhuyễn hòa với nước đổ vào miệng cháu. Con tôi cầm cự cho đến hôm sau, khi trời vừa rựng sáng thì tôi đã ôm cháu ngồi đợi trước cửa trạm y tế của dân địa phương trên hải đảo. Tôi ra dấu cho y tá trưởng (người Nam Dương) biết rằng tôi cũng là y tá. Tôi chỉ hai loại thuốc hòa lại cần chích cho con tôi. Ông ta gật đầu.
Bao năm rồi! Thời gian trôi qua mau làm tôi có cảm tưởng là giấc ngủ mê gồm có dị mộng lẫn ác mộng. Vào cái tuổi hoàng hôn nắng úa, ở vùng giá băng của xứ người, bây giờ tóc của tôi và tóc của Minh trắng như màu tuyết. Nhìn các con khôn lớn và thành nhân, chúng tôi cảm thấy được an ủi nhiều.
Người già thì hay nhớ chuyện xưa. Hồi tưởng lại những gì xảy ra trên quê cha đất tổ với gia đình nhỏ bé của chúng tôi, từng bước, từng bước vợ chồng tôi đi qua những chặng đường dài ngọt bùi cay đắng để mà nhớ, mà thương, mà nuối tiếc cuộc sống hạnh phúc thuở xưa.
Quê hương là một lâu đài chứa biết bao kỷ niệm của chúng tôi hơn nửa cuộc đời bên đó. Những kỷ niệm sống mãi với thời gian và nằm tận đáy tâm hồn tôi. Nó lớn vô cùng, vô tận, lớn không bút mực nào diễn tả hết, không thước cân nào đo lường được.
Nay sống giữa xứ người tự do, văn minh và an bình, tuy được đủ đầy vật chất, nhưng vợ chồng tôi vẫn thấy thiếu vắng một thứ gì đó thiêng liêng và thân ái vô cùng. Chúng tôi cố bới móc, tìm kiếm những kỷ niệm xa xưa trong ký ức để tìm cho mình những mật ngọt trong cuộc đời để mà sống vui, sống khỏe cho hết kiếp người phù du ở xứ người giàu bạc tiền nhưng lại thiếu thốn tình người nầy.
Biết bao biến cố đã lần lượt xảy ra trong đại gia đình của chị em tôi:
* Bao nhiêu năm lặn lội gian khổ, má tôi tạo nên sự nghiệp cho gia đình, rồi khi giặc vào cưỡng chiếm hết mọi thứ. Với nỗi buồn cùng cực, má tôi qua đời sau ngày giặc đánh tư sản đợt đầu! May mà má tôi hiền lành chân chất, ban ơn, tích phước, đem lòng hỉ xả, nên năm cô Tuyết của bà được gả cưới đàng hoàng, và sự ra đi vĩnh viễn của bà thật an ổn.
* Rời quê hương được ba năm, chúng tôi nhận được tin ba tôi ra đi luôn trong giấc ngủ trưa dài không bao giờ thức nữa. Ông chết để lại nét mặt đẹp lão, thật thanh thản, thật trong sáng hơn khuôn mặt lúc còn sống.
* Chị Tuyết Hồng qua đời vì chứng hậu sản, sau khi sanh đứa con thứ chín. Hiện giờ sáu đứa con của chị đã thành gia thất, còn kẹt ở quê nhà. Anh Trường và hai đứa con trai đang sinh sống ở California. Lúc chị Hai tôi mất, anh cũng đã đứng tuổi nên anh không muốn tục huyền.
* Anh Toàn chồng chị Tuyết Loan sống với con gái Út ở Cần Thơ. Ba đứa lớn có chồng vợ, tứ tán làm ăn ở các tỉnh khác. Chị Tuyết Loan chết cách nay bảy năm. Nghe cháu gái tôi nói vì anh quá thương má nó nên không chịu bước thêm bước nữa, dù có nhiều bà góa sồn sồn xinh đẹp bám theo anh. Anh chỉ dan díu bà nầy một thời gian ngắn rồi với bà khác, không gắn bó với ai hết.
Và hôm nay anh cũng ra người thiên cổ.
Thằng con trưởng của anh chị tên là Toàn Huy nối nghiệp mẹ nó, vẫn còn dạy học. Mấy em nó có vợ có chồng ở xa. Nó thừa hưởng ba công đất vườn của ông bà ngoại thay vì hai mẫu, bởi vườn của ngoại bị “họ” chia năm xẻ bảy hết rồi.
Toàn Huy thường thư từ với tôi. Trong bức thư gần đây của nó có đoạn: “Từ buổi ra đi đến giờ, má Tư (cháu gọi tôi bằng má Tư) chưa về thăm đất cũ và ngôi nhà hương hỏa thuở xưa. Bộ má Tư không nhớ quê hương sao? Mỗi cái tích tắc của đồng hồ trên thế gian nầy có biết bao nhiêu sự đổi dời. Năm nay con đã ba mươi tám tuổi, Nhưng nếu gặp lại con, má Tư sẽ tưởng con ở tuổi giữa năm mươi và sáu mươi. Cái túng quẩn, đói nghèo, cái lao lực, cùng khổ tâm dằng dặc làm cho con người như cây khô thiếu nước…”
Tôi hồi âm cho cháu như sau:
Toàn Huy thương mến,
Má Tư đã nhận được mấy tấm ảnh, chụp hai ngôi mộ của ông bà ngoại và ba má con, vào dịp Tết ta tất cả mồ mả được con sửa sang quét dọn sạch sẽ chung quanh. Má Tư được thấy bụi trúc bạch xanh lá, cây trâm ổi nở đầy hoa, cây huỳnh mai đơm bông chi chít trên cành. Má Tư nhớ thật nhiều ông bà ngoại lúc sanh thời, nhớ má Hai, má con, má Năm, má Sáu lúc còn nhỏ!
Năm nay, vợ chồng má Sáu con về quê ăn Tết. Má Tư có rủ rê ba má Năm, ba má Sáu hùn tiền lại tu bổ ngôi nhà hương hỏa của ông bà ngoại, và xây lại mộ ông bà ngoại và mộ ba má con cho đẹp đẽ hơn. Bây giờ tuy là cháu ngoại, nhưng con lo phần hương khói cúng giỗ ông ngoại, bà ngoại như là đứa cháu đích tôn.
Toàn Huy ơi, chồn cáo còn có hang, cò quạ có ổ, con người phải có quê hương. Má Tư nhớ ngôi nhà ở quê của ngoại, ngôi nhà của ba má Tư, nhớ miền Nam đất nước thân yêu. Nỗi nhớ kéo dài suốt những năm qua kể từ khi gia đình ba má Tư lìa xa xứ sở. Má Tư rất mong được về thăm phần mộ cha mẹ nằm trên mảnh đất quê ngoại. Nơi đó, má Tư đã trải qua tuổi thơ ấu và thời mới lớn.
Con hãy tin rằng ba má Tư sẽ trở về thăm lại cố hương, nhưng không phải bây giờ đâu. Có nhiều lý do mà ba má Tư khó giải thích. Dù vậy, ba má Tư luôn hy vọng có một ngày về.
Má Tư xin dừng bút ở đây. Cầu Ơn Trên phù hộ cho con và cả nhà thân tâm an lạc.
Thương mến,
Má Tư
* Chồng của Tuyết Oanh là Sĩ quan pháo binh, trước 1975 hắn ta phục vụ Sư Đoàn 18 đóng ở Biên Hòa. Hai vợ chồng nó và thằng con trai ba tuổi theo gia đình bên chồng, rời nước lúc vàng thau lẫn lộn trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975. Đến Mỹ, hai năm sau nó sanh thêm đứa con gái. Hai con nó giờ đã học thành tài. Từ nhà chúng tôi đến nhà Tuyết Oanh chừng mười phút lái xe. Cuối tuần, tôi hay rủ vợ chồng nó đến khi thì làm gỏi cuốn, khi thì đổ bánh xèo, lúc nướng thịt ngoài trời…
* Hôn phu của Tuyết Nga là sĩ quan hải quân, bị bắt cải tạo gần bốn năm, khi được phóng thích về mới cưới nó. Nó vượt biên theo chồng lái tàu đưa người tìm tự do, khi đứa con trai đầu lòng nó sanh mới có ba ngày. Thằng nhỏ bây giờ đã ra trường Đại học. Vợ chồng Tuyết Nga có hai trai, một gái. Lẩm rẩm trong ba chị em ở xứ người, chỉ có Tuyết Nga khá nhất. Nhờ vợ chồng nó chịu khó làm việc và cần kiệm. Gia đình nó ở cùng làng với tôi. Nó có nấu món ngon vật lạ gì đều mời vợ chồng Tuyết Oanh và chúng tôi đến ăn.
* Tôi và Minh sống khiêm nhường hẩm húc với đàn con ở Thành Phố Gió Chicago. Con gái Diễm tôi nay là Bác sĩ y khoa. Chúng tôi đã gả cháu, chồng cháu là bạn đồng nghiệp của cháu. Sui gia chúng tôi lúc còn trong nước sinh sống ở Đà Lạt. Nay gia đình ông bà ấy đến Mỹ theo diện HO, hiện lập nghiệp ở San Diego thuộc tiểu bang California.
Con trai Phúc tôi đã ra trường, cùng nghề với chị và anh rể của cháu. Chúng tôi hối thúc cháu lấy vợ. Mỗi lần đề cập đến việc nầy thì cháu càm ràm:
– Tới duyên tới nợ thì gặp vợ dễ dàng. Ba mẹ hãy thương xót con, mà đừng tìm vợ cho con nữa.
Minh hỏi:
– Tại sao con nói vậy? Ba mẹ tìm vợ tốt cho con mà.
Thằng nhỏ cười tồ tồ:
– Mẹ chỉ cho con những cô thì vừa ý mẹ, nhưng riêng con không có cảm tình với những cô ấy chút nào hết.
Tôi cười xen vào:
– Thôi được rồi, mẹ sẽ để cho con ở vá. Con kén chọn riết sẽ gặp củ chuối thúi cho mà coi.
Cái thằng tinh ranh nầy bị tôi rầy, vội đánh trống lãng hỏi Minh:
– Ba à, mẹ khó tánh quá trời! Ngày xưa làm sao ba ve vãn được mẹ vậy ba?
Minh liếc tôi, cười chúm chím với thằng con rồi nói:
– Ai ba đầu sáu tay mới dám ve vãn mẹ con! Ngày xưa mẹ rù quến ba đó.
Diễm miệng cười tích toác, từ trong buồng phóng ra, tay ôm tấm ảnh bán thân mà tôi chụp ngày ra trường y tá, do cháu Toàn Huy từ bên Việt Nam gởi qua cho để gia đình tôi làm kỷ niệm. Diễm gỡ giấy bao tấm ảnh được phóng đại ở tiệm mới đem về, đưa lên cao nói lớn:
– Đừng lo, đừng lo! Có con cứu bồ mẹ. Xem đây! Xem đây! Xin quý vị nhìn ảnh nầy thì biết ngay là ngày xưa, có hàng tá chàng trai hào hoa phong nhã tuấn tú sắp hàng để cua mẹ. Trong những người nầy ba là số một, nên mẹ chấm. Có phải không ba mẹ?
Minh nhìn tôi cười. Hai đứa con lớn, đứa nào cũng ngoài ba mươi tuổi rồi. Gái lớn đã có gia đình, mà nó quấn quít chúng tôi như thuở còn thơ. Lúc nào thấy tôi và ba nó buồn, thì mấy chị em chúng to nhỏ với nhau tìm cách để làm cho chúng tôi vui vẻ, hoặc đề nghị đi chỗ nầy chỗ kia nghỉ hè.
Lúc còn ở quê nhà, chúng tôi nghĩ có hai cháu là đủ rồi. Nhưng khi chân ướt chân ráo đến xứ người, không biết có phải là tôi gặp xăng “super” không mà chúng tôi có thêm một bé trai nữa. Trong ba đứa con, thằng bé nầy lựa chỗ ba mẹ dễ nhìn để giống. Cháu là đứa sinh sau đẻ muộn của gia đình, nhỏ hơn anh mười tuổi, nên được ba mẹ và anh chị thương yêu nhứt nhà. Cháu đã có việc làm trước khi tốt nghiệp Kỹ sư vào mùa xuân năm nay.
Cả ba đứa con chúng tôi, nói tiếng Việt rất giỏi, và ưa thích những món ăn Việt Nam do mẹ tụi nó nấu. Nhớ có lần tôi đi rước Phúc ở phi trường. Trên đường về nhà, cháu hỏi:
– Mẹ à, mẹ đã nấu gì cho con ăn chiều nay đây?
– Con về bất ngờ quá, ba mẹ ăn cơm rồi. Nhà cũng chẳng có gì ăn, thôi thì con tắp vô nhà hàng Tàu, hay quán hàng của Mỹ, Mễ… chi đó, ăn tại chỗ, hay mua gì đem về nhà ăn đi con.
– Thôi mẹ à, về nhà có gì con ăn nấy.
Về đến nhà, thằng nhỏ lo sắp đồ đạc ra khỏi các va-li rồi đi tắm. Từ trong phòng tắm vọng ra giọng hát như bò rống: Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như làn sóng đùa ngọt ngào… Lòng tôi chan chứa yêu thương, tôi mỉm cười một mình, dòng lệ hạnh phúc chảy xuống má. Từ nhà bếp, tôi gọi lớn:
– Tắm lẹ lên con, rồi ra ăn cơm. Cứ ở đó mà hát với hò.
Từ nhà tắm cháu hỏi lớn:
– Mẹ ơi, con hát có hay không?
Tôi cười hạnh phúc, trả lờI con:
– Hay lắm! Hay hết chỗ chê!
Cháu mở cửa nhà tắm bước ra cười hề hề:
– Bộ tệ lắm sao? Mẹ phải nung đúc tinh thần con, để con luyện giọng làm ca sĩ chớ.
Tôi trìu mến nhìn con hỏi:
– Ai dạy con hát vậy?
– Không ai dạy hết, con đi chợ Việt Nam, hỏi mua băng nhạc nào có những bài hát ca tụng mẹ. Thế là bà chủ tiệm đưa cho con rất nhiều cuốn băng. Mấy băng nhạc ca tụng mẹ, hay quá. Nhưng bài nầy con thích nhứt. Có nhiều chỗ hơi cao một chút, nhưng tới chỗ nào cần cao giọng thì con la lớn lên, giọng sẽ lướt qua. Sao, mẹ xem con có triển vọng làm ca sĩ không mẹ?
Minh ngồi xem báo ở phòng khách không nhịn được, cười lớn:
– Con hát được lắm, rất có triển vọng. Sao con không mua những băng nhạc ca tụng về người cha? Để ba thấy mình cũng ngon lành, chớ không thì mẹ con sẽ hỉnh mũi lên nước lắm!
– Có chớ ba. Con có hỏi, nhưng bà chủ tiệm nói rằng: Những bài hát về cha ít lắm, nên bà không biết, và tiệm bà cũng không bán băng nào có cái tựa Lòng cha, Cha tôi, Nhớ cha, Thương cha hay Quê cha….
Tôi hỏi Minh:
– Em ăn rồi. Ba nó có ăn cơm thêm với con cho vui không?
Minh mắt vẫn chăm chú vào tờ báo:
– Không, Anh còn no lắm. Còn con, muốn ăn gì, nói để mai mẹ làm. Nấu ăn là cái thích thú của mẹ con. ầ, thằng bé An có hay gọi cho con không? Em con có nói chừng nào nó về đây không?
– Dạ thưa ba, có. Hai anh em con gọi nói dóc cho hả hơi để rồi học bài. Nó rất bận rộn vì năm cuối tốt nghiệp kỹ sư rồi. Mau thật! Nó học khá lắm, điểm ra trường của nó sẽ rất cao cho coi. Thằng nhỏ lẩm rẩm mà không chừng sau nầy ngon lành hơn con và chị Diễm. Và ngược lại lời của má Năm và má Sáu đã nói: ‘’Thằng bé An nầy tốt mã gà đồng, lém lĩnh, đẹp trai. Mấy đứa như vậy học hành sẽ khó mà đến nơi đến chốn. Chắc chắn sau nầy sẽ được vợ nuôi…’’.
Phúc vừa ăn vừa nói chuyện với ba nó. Tôi lâu lâu cũng xen vô vài câu. Ăn xong, nó đứng lên nói:
– Mẹ nấu ngon quá, con đã ăn sạch hết.
Tôi cười:
– Con có muốn ăn canh thêm không?
– Thôi đủ rồi mẹ. Ăn no quá, con muốn phát ách rồi đây!
Thức ăn có gì đặc biệt đâu. Khi rước cháu về tới nhà, tôi lật đật vào mở tủ lạnh xem có gì để nấu cho cháu ăn liền được không. Thật may mắn, còn bó rau spinach và trái mướp. Tôi rửa nắm tôm khô để nấu cho cháu tô canh. Tôi còn chặt đùi gà làm món mặn kho sả ớt. Chỉ có vậy thôi mà cháu nói:
– Lâu quá, mấy tháng rồi con mới được ăn món bình dân của Việt Nam, mà sao ngon quá chừng chừng! Mẹ à, khi nào ra trường, con sẽ xin về vùng ấm áp. Ba mẹ nghỉ việc rồi về chung sống với con. Đã mấy chục năm khổ cực rồi, bây giờ ba mẹ đã lớn tuổi, không phải đi làm nữa, hãy ở nhà nghỉ ngơi cho khỏe. Mọi thứ trong nhà con sẽ lo hết, mẹ chỉ nấu cơm thôi.
Tôi và chồng tôi cười mà ứa nước mắt cảm động. Nuôi con mấy chục năm rồi, bây giờ chúng tôi đã da mồi tóc bạc. Trong tương lai, không biết nó có lo cho mình không, nhưng giờ nghe được câu hiếu hạnh của nó vợ chồng tôi cũng thấy ấm lòng. Tôi vui vẻ nói:
– Tới chừng đó con sẽ có vợ, có con. Vợ của con lo cho con chu đáo đủ mọi thứ còn hơn mẹ nhiều.
Thằng nhỏ cười:
– Tạ ơn Trời Phật. Nếu được như vậy là con trúng số rồi. Mấy cô bây giờ ớn lắm mẹ ơi!
Minh nói:
– Phước phần thôi, con à. Ở đâu cũng vậy. Ở thế hệ nào cũng vậy. Có kẻ xấu người tốt. Nếu ai cũng xấu hết, hoặc ai cũng tốt hết thì nơi đây không còn là hạ giới nữa. Nhưng ba chắc chắn là con sẽ có người vợ tốt. Vì con giống ba.
Phúc cười khà khà:
– Mẹ thấy chưa? Ba con muốn khen mẹ đó.
Tôi rất hài lòng nghe câu nói của Minh, nhưng cố nói cho qua đi!
– Thôi đủ rồi, cha con bây thì lúc nào cũng vậy, cứ khen mẹ hoài, đôi lúc mẹ nghi ngờ cha con bây xạo.
Quê hương yêu dấu ơi!
Ở xứ lạ quê người tuổi đời của chúng tôi càng đi xa dần nhân thế. Chúng tôi luôn được tin tức từ quê nhà gởi sang: Bà dì vừa mất. Ông chú qua đời. Bà cô nằm bịnh viện chờ chết. Toàn là những buồn thảm khổ đau. Quê hương thân yêu, miền quê ngoại, căn nhà cũ, ngôi trường xưa, chỗ làm việc, những vùng tôi đã đến trong chuyến công tác, những nơi tôi đã có dịp viếng thăm… Ngồi ôn lại dĩ vãng những chặng đường tôi đã đi qua mà nhớ mà thương quay quắc! Quê hương tôi là một lâu đài, dù to lớn đến cỡ nào cũng không làm sao chứa hết những kỷ niệm hơn nửa cuộc đời bên đó của chúng tôi. Nó còn tồn tại mãi và bất tuyệt như cuốn sách không bao giờ có trang cuối…
Vào Thu, năm 2002
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5622
Email: dtdbuon@hotmaol.com
Thank bạn