Buông Xả , Phá Ngã Chấp

Lê Quang Chưởng

 

 

Buông   Xả   , Phá   Ngã   Chấp

 

Nếu buông đuợc tất cả

                                                                Không còn tham, sân, si…

                                                                Sống bao dung, hỷ xả

                                                                Thân tâm thường an lạc.

 

                                                                             Qúy thay !

 

         Đây là đoạn cuối cuả bàì thơ “ THÔI…HÃY BUÔNG BỎ “  cảm tác theo giáo lý đạo Phật, tôi không nhớ rõ tác giả, hình như là Minh Lương Trương minh Sung.  Thật là một lời khuyên chí lý vô cùng !  Nếu chúng ta buông bỏ đuợc tất cả những gì vướng mắc, ràng buộc nơi thân và trong tâm cuả chúng ta thì có gì sung sướng hạnh phúc hơn.  Bởi mục đích của cuộc đời là trải rộng hạnh phúc, nếu chúng ta buông xả càng nhiều thì thấy càng thoải mái, an bình tự tại hơn, khác xa với thói quen càng thu góp mọi sở hữu càng nhiều thì càng mệt mỏi, càng lo lắng, buồn phiền vì sợ mất mác.

Đối với quý vị ở tuổi về hưu, rửa tay gác kiếm, thảnh thơi thơ túi ruợu bầu còn gì sung sướng bằng.  Ngoảnh mặt lại cữu hoàn coi cũng nhỏ.  Thực ra nghe nói thì cũng sướng thiệt, ai cũng muốn, nhưng cũng không mấy người làm đuợc.  Kỳ thiệt !  Tôi biết có người đã đến tuổi sắp về hưu.  Khi công việc của hãng bị sút giảm, nên anh ta bị mất việc.  Ở nhà lãnh tiền thất nghiệp một năm, ( có thể gia hạn thêm ) trong thời gian này sẽ lãnh thêm tiền hưu nữa, sướng qúa đi chứ!   Vậy mà anh ta đâu có vừa lòng.  Anh khiếu nại ở sở bảo rằng anh ta là kỷ sư thứ thiệt ( vì tốt nghiệp ở Mỹ như anh ta thường tự hào) kinh nghiệm mười mấy năm trong nghề của anh, một người kỷ sư mới ra trường không thể đảm nhiệm công việc của anh.  Khiếu nại không được, về nhà gây gổ với vợ con, cau có với bạn bè, ăn ngủ không được.  Tội nghiệp !   Sao không chịu buông bỏ cáí ngã chấp quá lớn đó.  Thiệt hết biết !

 

Quê tôi ở vùng kháng chiến Liên khu 5 (Nam, Ngãi, Bình, Phú ) trong thời gian chín năm kháng chiến  1945-1954,  phần đông không được học vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, vì thành phần địa chủ, phú nông.   Sau hiệp định Genève 1954 quê tôi thuộc vùng Quốc Gia tiếp thu.  Những nguời đi học lại, hầu hết khai sụt tuổi ít nhất cũng ba, bốn tuổi bằng giấy “ chứng chỉ thế vì khai sinh”.  Khi được tị nạn qua Mỹ và đi làm gần đến tuổi về hưu anh hùng cũng thấy thấm mệt nên xin ra tòa điều chỉnh lại năm sinh thật của mình để đuợc về hưu sớm hơn ba, bốn năm, sướng ghê!  Tôi cũng là một trong những người đó.  Mỗi người một hoàn cảnh, một suy nghĩ, một tâm tư, một quan niệm biết sao nói được.

 

Trong giai thoại Thiền, có truyện : Đường  Bùn  Lầy

 

Tanzan và Ekido một hôm đi với nhau đến một con đường lầy lội, laị gặp một cơn mưa nặng hạt vẫn còn đang rơi.

 

Tới khúc quanh, họ gặp một cô gái dễ thương trong bộ áo Kimono với đai lưng bằng lụa, không thể băng qua ngã tư đường đuợc.  “ Đi nào cô bé “  Tanzan vừa nói rồi đưa tay nhấc bỗng cô gái, đưa cô qua vũng bùn.

 

Ekido không nói năng gì, cho mãi đến tối hôm đó khi họ đến ngôi chùa tạm trú.  Rồi Ekido thấy tự mình không thể nhịn thêm được nữa bèn nói với Tanzan : “ Những nhà sư như chúng ta không thể đến gần phụ nữ, nhất là không đuợc gần những người trẻ và đẹp.  Nguy hiểm lắm đấy.  Tại sao huynh lại làm như vậy chứ ? “

 

“ Tôi đã bỏ cô gái lại chỗ đó rồi. “  Tanzan nói, “ Sư huynh vẫn còn mang cô ấy theo mãi về đây sao? “

 

Chuyện : Thiền ý một cốc trà:

 

Ở Nhật vào thời Minh Trị Thiên Hoàng (1868-1912 ), thiền sư Nan-In tiếp một giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền.  Thiền sư Nan-In đãi trà mời khách.  Ngài chế một cốc trà đầy và vẫn tiếp tục rót.  Vị giáo sư nhìn cốc trà nuớc tràn ra cho đến khi không nhịn được nữa , bèn lên tiếng: “ Nó đã đầy tràn rồi, không thêm được nữa đâu”

 

“Thì cũng như chiếc cốc này” Thiền sư Nan-In thong thả nói “ Ông đã mang đầy tư kiến và thành kiến làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền nếu ông không cạn cốc của ông.”

 

Đây là Chuyện của Tô Đông Pha (1035-1101).  Tô Đông Pha là đại văn hào đời nhà Tống, ngoài tài tề gia, trị quốc, Ông từng mang hàm Đại Học Sĩ, giữ chức Tể Tướng.  Ông chẳng những giỏi về thơ văn, từ, phú mà tài vẽ của ông cũng rất nổi tiếng , lại thông cả về âm nhạc.  Thật là một thiên tài trác tuyệt.

 

Tô Đông Pha cũng rất ham mộ đạo Phật và ông cũng tự xem mình như một Phật tử.  Ông thường đàm luận thân mật với các thiền sư.  Sách Thiền tông lục có chép một câu chuyện về tính ngã mạn của Tô Đông Pha.

 

Tô Đông Pha có một thiền sư thân tình là Phật Ân rất lỗi lạc.  Chùa của Phật Ân ở bờ tây sông Dương Tử, trong khi nhà của Đông Pha ở bờ phía đông.  Một hôm Đông Pha đi thuyền sang thăm Phật Ân nhưng không có thiền sư ở nhà.  Đông Pha bèn viết một miếng giấy mấy chữ có ý bông đùa:  Tô Đông Pha là một Phật tử vĩ đại mà dù có tám ngọn gió thổi cũng chẳng động được “.

 

         (Tô Đông Pha dùng tám ngọn gió trong bài kệ của ông rất nổi tiếng :

Cúi lạy Thiên trung Thiên

                          Hào quang chiếu Đại Thiên

                          Tám gió không lay động

                          Ngồi vững đài Kim Liên.  )

 

         Phật Ân về thấy tờ giấy của Tô Đông Pha viết như thế, sư mỉm cười và viết thêm : “Nhảm nhí!  Những gì mà ông vừa viết chẳng hơn một phát rắm. “  Rồi Sư Phật Ân sai đệ tử đem tờ giấy đó qua trả cho Tô Đông Pha.  Đông Pha thấy Thiền sư Phật Ân lăng mạ mình thì nổi giận, tức tốc đi thuyền qua sông để hỏi Phật Ân.  Khi Đông Pha qua tới, thấy Phật Ân liền la lên : “ Ông có quyền gì mà thóa mạ tôi bằng những lời lẽ như vậy ?  Quen biết tôi lâu ngày mà chẳng lẽ ông mù quáng đến thế sao ?”

 

Phật Ân lặng lẽ quan sát họ Tô rồi mỉm cuời nói : “ Tô Đông Pha một Phật  tử vĩ đại, tám ngọn gió không lay động được thế mà giờ đây chỉ một phát rắm cũng đủ thổi ông ta bay qua sông đến tận bờ bên này “.

 

Tô Đông Pha nghe lời nói đó xong thì bất ngờ đứng sửng khá lâu và tĩnh ngộ.

 

Đó là thièn sư Phật Ân dùng cái mưu chước ấy để thức tỉnh Tô Đông Pha về cái tánh ngã mạn của mình, để họ Tô đến gần với giáo lý của Đạo Phật.

 

Cũng chuyện Tô Đông Pha.  Có một công án ghi lại lần gặp gỡ đầu tiên giữa Tô Đông Pha cư sĩ và Ngọc Tuyền Thừa Hạo Thiền Sư như sau :

 

Tô Đông Pha nghe thiên hạ đồn đãi Thiền Sư rất giỏi về Thiền cơ và khả năng biện luận của ông đã đến mức siêu việt.  Để thử tài, ông giả làm thương khách tầm thường xin cầu kiến.   Vừa gặp mặt, Thiền Sư Thừa Hạo chấp tay xá dài rồi hỏi:

 

         “Dám hỏi tôn danh, quí tánh của tiên sinh ?

 

Tô Đông Pha đáp lễ và trả lời :

 

         “Tại hạ họ Cân, đó chính là cái cân dùng để thử trọng lượng của quí vị trưởng lão trong thiên hạ.”

 

Thiền Sư nghe nói liền cất tiếng cười vang, đột nhiên ông hét vào mặt Tô Đông Pha một tiếng thật lớn rồi hỏi :

 

Nhờ thí chủ cân giùm tiếng hét của lão tăng xem nặng nhẹ bao nhiêu?

 

Tô Đông Pha cúi đầu khâm phục, rồi vội vã đanh lễ và xin lỗi Thiền Sư.

 

Cũng như Thiền Sư Phật Ân, Thiền Sư Thừa Hạo đã phá đuợc ngã chấp, ngạo mạn của Tô Đông Pha.

 

Chúng ta biết một người muốn leo lên đỉnh núi phải vứt bỏ những gì không cần thiết phải mang theo.  Cũng như người thuyền trưởng tài giỏi, quyền biến khi gặp cơn mưa to, bão lớn phải biết vứt đi tất cả những hàng hóa, đồ vật trên tàu không cần biết nó quý giá đến cỡ nào.  Có thế mới cứu đuợc con tàu khỏi bị chìm đắm.

 

Câu chuyện một chiếc xe vận tải đi trên đường, phía trên là một cái cầu, vì xe có độ cao qúa mức qui định nên xe không thể qua được.  Do đó đường bị kẹt, mọi người đứng nhìn suy nghĩ có cả đôi ba người cảnh sát nữa.  Hơn nửa tiếng đồng hồ không ai tìm ra giải pháp nào để cho xe qua được.  May sao có một em nhỏ đến góp ý là nên xì hơi các bánh xe để xe thấp xuống thì xe có thể chun qua cầu.  Khâm phục !  Khâm phục !

 

Có nhiều người trong câu chuyện khi nhắc đến một người nào đó trước năm 1975 thuộc đơn vị của mình bèn nói anh ta là lính của tôi.

 

Lại cũng có những người khi nhắc đến người nào thành công, có danh phận cũng không quên nói : người ấy là học trò cuả tôi, hay bạn của tôi.  Như là một phản ứng tự nhiên.  Biết rồi, khổ qúa !

 

Có lần tôi nhận được điện thư chuyển nói về một người Quảng Ngãi sau hiệp định Genève năm 1954 tập kết ra miền Bắc hiện nay đuợc coi như nhà toán học nổi tiếng thì ai cũng mừng là điều tất nhiên.  Nhưng người chuyển thư lại ghi thêm lời bàn Mao Tôn Cương anh ta người Đức Phổ, học dưới tôi một lởp.  Chi vậy ! không biết nữa ?  Sao không chịu buông bỏ những rác rưởi đó mà cứ giữ mãi trong người.

 

Lại có những người tự lừa dối chính mình hay bị hoang tưởng, vọng tưởng.  Họ tự gán ghép cho mình những điều mà họ không hề có, rồi cứ khư khư giữ lấy như thiệt.  Khi nói một lời dối dang thì họ phải bịa thêm mười câu không thật nữa để bù đắp vào, cần gì khổ như vậy!  Những người này lại càng khó hay không bao giờ buông bỏ được cái ngã qúa lớn đó của mình, vì nó đã thành tật, nếu không chịu tu tập sửa đổi.  Họ tự làm khổ mình, thật tội nghiệp!  Hình như mỗi ngưởi sinh ra có một cái số, một cái mạng biết sao nói được.

 

Chúng ta đã biết chuyện một kẻ hung bạo chuyên giết người nhưng trong một giây phút bất ngờ Ngộ được, Buông Đao Thành Phật cũng là bài học cho chúng ta.

 

Mục đích của đời người là gi?  Là trải rộng hạnh phúc,  Hạnh phúc là gì mà sao có những người đã đạt đuợc mọi điều mình mong muốn mà vẫn không cảm thấy đuợc hạnh phúc?

 

         Tài sản rồi cũng mất

                 Vật chất chóng tiêu tan.

                  Vạn pháp đều như thế

                 Trần gian mãi vô thường.

 

                          Đáng thương !

 

         ( Một đoạn trong bài thơ “ Thôi …Hãy Buông bỏ “

 

Thật ra hạnh phúc chân thật là trạng thái tâm vui vẻ, an lạc, tự tại.   Sống trong xã hội đầy những quyến rủ hấp dẫn mà ta cứ dững dưng, không bị ràng buộc, vướng mắc vào những điều phiền toái ấy thì ta đã thực sự an lạc từ tâm.  Vậy nếu tự mình xả bỏ đuợc tự ngã, tiêu diệt hoàn toàn đuợc phiền não thì hạnh phúc sẽ ở trong tầm tay.

 

Trong cuốn “ Giai Thoại Thiền Sư “ của Lâm Thanh Huyền bản dịch của Phạm Huê có bài “ Ràng Buộc “ có đoạn :

 

Ràng buộc, cái gì là sự ràng buộc ?  Ai ràng buộc ai ?

 

Vô thường và sự giới hạn của con người thì tương đối dễ hiểu và cảm nhận đuợc.  Thế nhưng sự trói buộc, ràng buộc là một ý niệm tương đối mơ hồ nhưng lại là một điều kiện khá đặc biệt trong giáo lý Phật Giáo.  Đó cũng là một điều khác biệt so với những tôn giáo khác từ những quan niệm về con người.  Nếu chúng ta phân tích kỹ trong cơ bản giáo lý Phật Giáo thì sẽ thấy rằng ràng buộc chiếm lấy một địa vị quan trọng.  Bởi vì có ràng buộc thì mới có ý niệm giải thoát.  Từ những sự suy nghĩ mong tìm kiếm sự giải thoát đã manh nha ra giáo lý Phật Giáo.

 

Một con người sinh ra tồn tại trên thế gian đã chịu đựng những sự ràng buộc nào ?  Xin thưa, họ chịu sự ràng buộc của nhân qủa, ràng buộc của nghiệp lực, ràng buộc của luân hồi thậm chí đến sự ràng buộc của cơ thể, của dục vọng, của ước muốn, của vô tri, của kiến thức.  Hầu như con người lúc nào cũng phải chịu ràng buộc của tất cả mọi sự việc.

 

Con người thường tự tôn cho rằng mình là loài động vật thông thái cao minh nhất.  Thế nhưng con người lại không vĩ đại như họ tưởng.  Ta không thể bay cao như chim trên trời.  Ta không thể bơi lội nhanh nhẹn như cá dưới nước.  Ta không có tuổi thọ như loài rùa.  Ta không có sức mạnh như loài voi rừng, không nhanh hơn hổ báo, không có khứu giác linh lợi như giống chó mèo.  Điều duy nhất mà con nguời siêu việt hơn loài vật là một bộ óc nhạy bén, thế nhưng đầu óc phi thường của con người lại chính là sự trói buộc lớn nhất.

 

Khi đầu óc ta càng thông minh, thông thái thî ta càng có sự cố chấp, càng sinh ra tính tham, sân, si, ngạo mạn, nghi kỵ.  Đây là điều Phật Giáo gọi là Sở Tri Chuớng và Phiền Não Chuớng.  Một khối óc nhạy bén lại dễ dàng khiến cho chúng ta lạc lõng trong vòng lẩn quẩn của tri giác.

 

Đức Phật Đà biết rằng chính cơ thể và khối óc là những ràng buộc cho nên Ngài đã đặt ra Giới, Định, Tuệ, Tín, Nguyện, Hạnh.  Chỉ có con đường thông qua giới, định, tuệ, tín, nguyện, hạnh thì con người mới có thể vượt khỏi giới hạn của sự ràng buộc mà tìm được lối về Niết Bàn.

 

Trong kinh Pháp Hoa có một câu chuyện về sự xả bỏ:

 

Một nhà tu hành tiểu thừa tên là Phạn Chí đã tu luyện nhiều năm vẫn không đạt thành chánh quả.  Một hôm ông mang hai chậu hoa ngô đồng đến dâng cho Đức Phật Thích Ca.  Phật Đà đang giảng đạo cùng chúng đệ tử đã quay lại nói với ông :

 

– Phạn Chí, bỏ xuống.

 

Phạn Chí bỏ chậu hoa đang cầm bên trái xuống đất.  Đức Phật tiếp tục nói :

 

– Phạn Chí, bỏ xuống.

 

Phạn chí nghe lời bỏ chậu hoa còn lại đang cầm bên phải xuống đất, nào ngờ Đức Phật lại tiếp tục nói :

 

– Phạn Chí, bỏ xuống, bỏ xuống.

 

Phạn Chí ngơ ngác hỏi Đức Phật Thích Ca :

 

–  Thưa ngài, con đã bỏ hai chậu hoa xuống đất rồi, ngài còn bảo con bỏ gì xuống nữa ?

 

Đức Phật từ bi trả lời :

 

– Ta đâu có bảo ngươi bỏ hai chậu hoa xuống mà ta bảo ngươi hãy xả bỏ đi tất cả lục trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) của ngoại giới, cũng như lục căn ( nhãn, nhĩ, tì, thiệt, thân, ý ) của nội giới và tất cả những kiến thức sinh ra từ lục trần và lục căn.  Chỉ khi nào ngươi có thể bỏ xuống tất cả những thứ ta vừa nói và trong tâm không còn gì để xả bỏ nữa thì trái tim của ngươi mới đạt đuợc sự bình yên.

 

Phạn Chí nghe xong lời Phật dạy lập tức giác ngộ.

 

Phương pháp hay nhất để chữa trị sự ràng buộc là bỏ xuống, là phóng xả, là xả bỏ.

 

Vượt thoát khỏi những ràng buộc không có nghĩa là không có những sự níu kéo của thân và tâm, mà là không để cho những biến hóa của nội tâm và ngoại thân làm chủ trái tim ta.  Chính “ ta “ phải tự làm chủ thân, tâm và ngay cả đến mọi đổi thay của ngoại cảnh.

 

( Lâm Thanh Huyền)

 

Như một đoạn trong bài thơ “ Buông Xả “ của Quang Tuấn:

 

Nay buông xả và lãng quên tất cả

                 Những lợi danh, những ngang trái hận thù.

                 Buông xả hết nghe đời tươi đẹp qúa,

                 Như bình minh xóa sạch bóng đêm thâu.

 

         Theo lời Phật dạy, trong mọi tình huống để được an vui chúng ta phải thích ứng, muốn thích ứng chúng ta phải buông xả, buông xả bằng nhận thức sáng suốt, còn buông xả một cách bất đắc dĩ thì hoàn toàn không có gía trị.  Vậy chúng ta hãy buông xả như thế nào?  Theo Thích Minh Dung, ta buông xả với chính mình truớc, rồi buông xả những phiền muộn từ những người khác đem đến cho ta.

 

Buông xả với chính mình như:

 

–  Buông xả sự ận hận dai dẳng.

 

Nếu bạn cứ tiếp tục ôm giữ sự ân hận ấy thì chẳng mang lại cho bạn một chút an lạc nào cả.  Đã không có sự ân hận thì làm gì có sự buông xả.

 

–  Buông xả lòng ích kỷ.

 

Sự ích kỷ sẽ làm cho tâm hồn bạn nghèo nàn và cô lập bạn với thế giới chung quanh.  Muốn buông xả lòng ích kỷ bạn phải cần tập sống đời hy sinh và thương yêu.

 

–  Buông xả sự nóng giận.

 

Sự nóng giận là một trong những đối tượng có khả năng hủy hoại niềm hạnh phúc của chúng ta.  Vậy nên mỗi khi biết mình sắp nóng giận, bạn hãy hít hơi thở thật sâu vào rồi từ từ thở ra, bạn sẽ cảm thấy trở lại trạng thái bình an.

 

–  Buông xả sự kiêu ngạo.

 

Sự kiêu ngạo sẽ làm cho mọi người ghét bạn và xa lánh bạn.

 

Ông Descarte có nói: Trong một phiên họp có nhiều thành phần trí thức khác nhau và mỗi nguời phát biểu một kiểu.  Như thế không có nghĩa là người này hơn người kia mà là mỗi nguời hướng dẫn một ý thức khác nhau.

 

Ý nghĩ độc tôn là một ý nghĩ rất ngây thơ và khờ khạo.

 

         “ Tôi gặp bất kỳ người nào họ cũng hơn tôi mặt này hay mặt khác”  Đây là câu nói đầy từ ái của một danh nhân phương Tây.

 

Buông xả những phiền muộn từ người khác mang đến cho bạn.

 

         Đức Phật khuyên chúng ta : mọi phiền muộn người khác mang đến cho ta, như họ mang đến cho ta một món qùa .  Nếu ta không nhận lấy thì món qùa ấy ắt về họ.  Hãy trả lại mọi bất an cho những ai đa mang đến cho ta.  Lòng ta sẽ trong vắt và thơ mộng như bầu trời xanh.

 

Nguời khác mang đến cho bạn những phiền muộn, nếu bạn khôn ngoan, bạn không nắm lấy nó lâu thì nó sẽ đi qua rất mau.  Ngược lại nếu bạn cứ khư khư giữ nó thì sự bất an và phiền muộn càng lúc càng gia tăng thêm.

Một người mắng nhiếc bạn, bạn căm hờn họ, tìm cách trả thù.  Nếu bạn không bận tâm lời nói của kẻ khốn mạt như thế thì bạn thấy lòng thư thái hơn.  Ngay cả trong đời sống gia đình, bạn cũng thường gặp những sự xung đột phiền toái.  Nếu bạn cứ giữ mãi trong lòng từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động mà người khác làm phật lòng bạn thì thân nhỏ bé của bạn cứ phải vác thêm mãi những hòn đá phiền muộn như vậy thì làm sao bạn có thể sống đuợc.

 

Đây là câu chuyện ngụ ngôn của nhà văn hào Nga Lev Tolstoy :  Hòn Đá Ném Đi

 

         Có một người hành khất nọ đến truớc cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí.  Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có.  Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.  Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy hòn đá ném vào con người khốn khổ.

 

Người hành khất lặng lẽ nhặt hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “ Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế.  Ta sẽ dùng nó để ném trả lại cho ngươi.”

 

Đi đâu người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy.  Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.

 

Năm tháng qua đi.  Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật.  Vì biển lận, người giàu có bị tuớc đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục.  Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vô tù ngục.  Nổi căm hờn sôi sục trong lòng ông.  Ông theo đoàn người áp giải.  Tay ông không rời bỏ hòn đá đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.  Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông.  Nhưng cuối cùng nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ : “ Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua.   Con người này giờ đây cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.

 

Tha thứ là điều khó khăn nhất, nhưng cũng là điều cao cả nhất.

 

Tóm lại bạn đang ao ước có đuợc một đời sống thật an lạc và hạnh phúc.  Bạn đang tập tha thứ cho chính mình, bạn đang mở lòng để chia xẻ sự sống với những người chung quanh.  Bạn buông xả những chuyện không vừa lòng mà người khác mang lại cho bạn.  Như thế bạn đang thật sự hạnh phúc  và an lạc.  Xin chúc mừng bạn.

 

Trong cuộc sống văn minh kỷ thuật hiện đại chúng ta bị quay cuồng cuốn hút theo giòng thời gian không ngừng nghỉ.  Chúng ta bị thúc bách tính toán, lo toan việc này chưa xong đã lo sắp đặt cho việc kế tiếp.  Không lúc nào chúng ta đuợc rảnh rỗi tâm trí thảnh thơi nhìn ngắm trời mây, khi trăng lên đỉnh núi, khi mặt trời lặn sau đồi. Thiên nhiên đã ban cho ta bao nhiêu vẽ đẹp tuyệt vời đã bị chúng ta hờ hững.  Ngay cả những người thân yêu đang sống bên ta cũng bị chúng ta lãng quên.  Vì bận rộn lo toan công việc, nụ cười cho nhau cũng không có.  Sao mà hà tiện qúa vậy ?  Chúng ta hãy nghe Triết gia Krishnanmurti nói :

“ Mỗi ngày bạn hãy tìm một nơi yên tĩnh trong mười phút tạm quên đi những lo âu của cuộc sống, buông xả tất cả tinh thần và thể xác.  Hãy lắng nghe từng hơi thở của mình.  Hãy khách quan nhìn ngắm mọi vật chung quanh ta mà không suy nghĩ, xét đoán gì hết.  Hãy hòa mình với thiên nhiên, nghĩ đến những điều tốt … mỉm cười với cuộc đời… Hãy cố gắng thiền định như vậy mỗi ngày, một thời gian sau bạn sẽ có được sự hiểu biết về chính mình, và sẽ được thanh thản tâm hồn. “

 

 

Về chuyện   Một Ngày Không Vội Vã

 

Chính phủ Canada mỗi năm chọn ra một ngày, thường là vào mùa hè vào cuối tuần gọi là Một ngày không vội vã.

 

Khoảng chừng vài tuần truớc ngày đó, báo chí, các cơ quan truyền thông đều loan báo và nhắc nhở để mọi người chuẩn bị.  Ngày không vội vã  bắt đầu từ 8 giờ sáng đến 9 giờ tối.  Mọi người đuợc khuyên là:  Bạn hãy ngủ cho thẳng giấc, thức dậy khi nào bạn muốn.  Hãy nhâm nhi tách cà phê và ngắm khu vườn của bạn, nghe tiếng chim hót líu lo.  Hãy đi ra ngoài nếu bạn thích, vào ăn trưa ở một nhà hàng nào bỗng dưng bạn muốn.  Còn nếu không bạn có thể mời bạn bè đến nhà nướng thịt ngoài trời, tán gẫu và nhìn trời mây.  Bạn cũng có thể chạy xe đạp một vòng thành phố, hay nằm dài trên bãi cỏ của một công viên gần nhà vân vân và…vân vân.

 

Tóm lại chính phủ khuyến khích người dân :  Hãy thưởng thức từng phút giây hạnh phúc, bình an của một ngày không vội vã. Hãy biết sống và tận hưởng hạnh phúc ở quanh  ta như lời của một người phóng viên trên đai TV đang nói.

 

Thật là tuyệt vời cho người dân Canada và cũng cảm ơn ai đó đã có sáng kiến này.  Nhưng tôi nghĩ nếu được thì khi nào chúng ta có điều kiện không bận rộn, lòng cảm thấy thảnh thơi thì chúng ta hãy sống với một ngày không vội vã, chứ không phải đợi đến một năm mới có một ngày.

 

Đối với những người đã về hưu, tôi nghĩ mọi ngày có thể là những ngày không vội vã thì đời có gì đẹp hơn.

 

Trong khi viết bài này, tôi có nhận một thư chuyển nói về ngày không vội vã :

 

         Bận rộn làm cho ta không có bình an và hạnh phúc

.

         Bận rộn làm cho sự hành xử của ta vụng về.

 

         Bận rộn làm cho sự hiểu biết của ta khô cằn

.

         Bận rộn làm cho sự sống của ta ngắn lại.

 

         Bận rộn khiến ta không thấy đuợc cái đẹp của người ta thương yêu.

 

         Bận rộn khiến ta đi trên đường như ma rượt.

 

         Đời sống bận rộn là đời sống bất hạnh nhất trên đời.

 

         Thế đấy, nhưng con người ai ai cũng luôn luôn tìm đủ mọi lý do để mà…BẬN  RỘN.

 

         Và rồi một ngày kia , thử hỏi có ai mang theo đuợc cái “ BẬN  RỘN “ về bên kia thế giới ?.

        

         Hãy biết dừng lại

 

         Hãy biết nghỉ ngơi.

 

         Hãy tập thanh thản.

 

         Và buông xả, thảnh thơi.

        

         Thì cái ngày ấy đến, chúng ta mới có thể ra đi với cái tâm Không Bận Rộn !!!

 

Và đây là bài thơ “ Buông Xả đi “ tôi không nhớ tên tác giả.

 

                 Thương tiếc trong lòng mãi vấn vương,

                 Hơn thua được mất :  Chuốc thêm phiền.

                 Vui buồn chẳng qua :  Như gió thoảng. 

                 Tốt xấu khen chê :  Chỉ một lời.

                 Quẳng gánh lo đi :  Nhẹ cuộc đời.

                 Hành trang chuẩn bị :  Kiếp lai sinh.

                 Công danh tài sắc :  Như sương khói.

                 Buông xả đi rồi :  Sống thảnh thơi.

 

         Rất mong và cầu chúc các bạn buông xả đi những ràng buộc nơi ngoại thân và trong nội tâm và quẳng gánh lo đi để có cuộc sống an vui, tự tại.  Biết rằng việc làm này không phải dễ gì trong một sớm một chiều, nhưng ta hãy tri thiên mệnh và tận nhân lực để cho nhẹ nhõm cuộc đời, sống thảnh thơi.

 

Cuối cùng tôi cũng xin cảm ơn anh Đào Đức Nhuận, trưởng ban báo chí Hội Đồng Hương và Thân Hữu Quảng Ngãi Nam California và anh Đỗ Vĩnh Khanh trưởng ban báo chi Liên Hội Đồng Hương và Thân Hữu Quảng Ngãi vùng New England, mỗi năm vào tháng tám, tháng chín thường xuyên gọi điện thoại và gởi thư đòi nợ bài cho Đặc San Quảng Ngãi.  Tôi đã trả nợ và cũng là dịp cho tôi được học và tu tập.

 

Qúy Thay !

Lê Quang Chưởng

 

                                           Massachusetts, Ngày 11 tháng 11 năm 2011

Bình luận về bài viết này