MỘNG TUYỀN VẤN ÐÁP SAO LỤC 336
MỘNG TUYỀN VẤN ÐÁP SAO LỤC 336
THINH QUANG
VẤN: Cụ Hồng Văn Hạnh, San Jose: Thưa cụ bà, sau ngày Giáng Sinh là đến Tết Dương lịch ta thường nôm na gọi là Tết Tây, và sau Tết Tây theo người Á Ðông ta thì có Tết Aâm lịch. Tôi muốn biết thế nào là âm lịch. Bà cụ giải thích hộ cho. Cám ơn bà cụ.
ÐÁP ; Tết Aâm lịch xuất phát từ Trung Quốc – là một đất nước nông nghiệp, thường căn cứ vào thời kỳ sinh trưởng thành thục về ruộng lúa, lấy đó làm tiêu chuển. Theo Thuyết văn chép đại khái là“Năm” là một chu kỳ của “lúa” rộ chín- nhằm chỉ cho sự tương ứng của trái đất xoay quanh mặt trời một vòng. Theo lịch sách Trung Quốc căn cứ vào mặt trăng, còn tây lịch theo chu kỳ mặt trời tức Dương lịch – tính theo chu kỳ hồi quy.
Tính theo âm lịch một năm có 354 ngày – năm thường – còn dương lịch có 365 ngày chỉ về năm nhuận – chênh lệch nay 11 ngày. Tây lịch, nhuận ngày còn âm lịch nhuận tháng. Vì vậy ta có 13 tháng trong năm nhuận. Cứ 5 năm ta nhuận 2 lần. Vì tính ra chưa được chính xác nên cuối cùng nhà làm lịch nghiên cứu lại và xác quyết 19 năm hồi quy nhuận 7 lần.
Theo lịch nhà Hạ bắt đầu lấy tháng “Kiến Dần” tức là tháng có tiết Lập Xuân ta thườg gọi là tháng Giêng. Nhưng đời nhà Aân thì lấy tháng kiến Sửu tức là tháng 12 nông lịch làm đầu năm v.v…Nhưng các triều đại về sau các nhà làm lịch lấy lại tháng Giêng tức kiến Dần làm tháng đầu năm dẫn thẳng đến ngày nay. Lấy đó ta có thể tính biết:
Tháng Giêng kiến Dần
Tháng 2 kiến Mão
Tháng 3 kiến Thìn
Tháng tư kiến Tị
Tháng 5 kiến Ngọ
Tháng 6 kiến Mùi
Tháng 7 kiến Thân
Tháng 8 kiến Dậu
Tháng 9 kiến Tuất
Tháng 10 kiến Hợi
Tháng 11 kiến Tý
Tháng 12 kiến Sửu…
VẤN: Oâng Lê Hồng Sơn, LA. : Tôi nhớ trong Hồng Ðức Quốc Aâm Thi Tập có mấy bài thơ cùng nhau xướng họa trong dịp Xuân về. Bà cụ nhắc hộ lại cho.
ÐÁP: Tôi còn nhớ mấy bài như sau:
NGUYÊN ÐÁN
Am dương hái mặc xoay vần,
Nếu quả thờ đông đến tiết xuân.
Chân ngựa dong khi tuyết lạnh
Hàng loan sắp thuở canh phân.
Chín trùng chễm chễm ngôi hoàng cực
Năm phúc hây hây dưới thứ dân.
Mây hợp đền nam chầu chực sớm
Bên tai nhường mảng tiếng thiều quân.
BÀI HỌA
Ba dương đã gặp thuở thời vần,
Bốn bể đều mừng một chút xuân.
Nức ngai vàng.hương mấy hộc
Trang cửa phượng,ngọc mười phân.
Trời lộng lộng hay lòng thành.
Gió hây hây khắp muôn dân.
Nhờ bóng nhân khi bênh bóng nắng,
Ước dâng muôn tuổi chúc ngô quân.
BÀI HỌA 2
Khắp bốn mùa đều tạo hóa vần,
Cuối đông mừng đã lại đầu xuân.
Tiết ba dương thịnh hây hây mở,
Aân chín trùng nhiều mãi mãi phân.
Vây họp đại căn về một chốn,
Ðặt yên chân chiếu khắp muôn dân.
Hội lành đã gặp gồm năm –phúc,
Trỏ non Nam chúc thánh quân.
THINH QUANG