Củi mục trôi về… Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
Củi mục trôi về…
Truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Những đám mây tối thẫm, trĩu nước sà thấp, ậm è như đang cố ấn ngôi chùa lún vào khoảng vườn ngập lút đầu ngọn cỏ. Những cái bọng mưa sắp bục vỡ ra. Hối hả kê bộ ván ngựa trước chánh điện – một chỗ ngồi cho bữa tụng niệm chiều, thầy bỗng ngó ra ngoài trời, bảo “đường sá gì mà vắng hoe, buồn quá, ông”
Từng lời của thầy vừa thốt ra khỏi đầu môi đã bị thinh lặng đóng băng. Thầy chờ đợi gì ở gã, một kẻ – đã – chết thì buồn vui có ăn nhập gì.
Gã, khúc củi mục trôi giạt về Thổ Sầu, ghé qua ngôi chùa nghèo này. Nghèo đến mức người xa về không biết gọi là nhà hay chùa. Tuềnh toàng đến mức không cửa, không rào, đến nỗi xưng hô với người kinh kệ trong chùa thế nào cũng ngại. Gọi thầy như những bậc chân tu thấy không được, gọi tao mày như người thế tục cũng không xong. Đành lúng búng hỏi :
– … Quên tôi rồi, phải không ?
– Nói chơi hoài!? – Thầy trợn mắt – Tôi đâu có tệ vậy.
Thầy là người đầu tiên ở Thổ Sầu, nhận ra gã, ngay cái nhìn đầu tiên. Những ngón tay xương xẩu của thầy níu lấy vai gã, run run, “Chịu trồi đầu về rồi hả? Ngon! Tôi tưởng ông bỏ xứ đi luôn chớ.”
Gã nhìn bên kinh, nơi tre mọc xanh rì là nền nhà cũ. Gã cũng tưởng mình vĩnh viễn không quay lại nơi này. Gã vật vờ hết đất này đến đất khác, làm lụng mưu sinh, vắt mình kiệt như tìm chút nước trong chày. Hết ngày, trở về nhà trọ, gã thường bàng hoàng, cảm giác những đốt xương mình khô đi, rơi ra lừng lóng, từng lóng một. Gã bỗng thèm trở lại Thổ Sầu. Chẳng làm gì cả. Chẳng ai chờ đợi gã. Cả nhà gã đã bỏ xứ đi vì không dám ngẫng đầu nhìn chòm xóm bởi nỗi ô nhục mà đứa con trai gây nên. Vậy thì phải về, cho người Thổ Sầu thấy gã bây giờ sống tử tế như thế nào. Về để tìm lại cảm giác thanh thản đã bị đánh mất. Hay về để nhìn lại cọng cỏ mình đã giẫm nát, cái cây mình đã vặt trụi ngọn, con lạch trong lẻo đã bị mình sục đến đục ngầu bùn, gã không biết nữa. Chỉ cảm giác thèm về da diết.
– Tôi muốn té chỗ nào thì đứng lên ngay chỗ ấy – Gã cười, và cảm giác nụ cười thật kỳ dị, một xác chết mà nhoẻn cười thử hỏi có khó coi không? Thầy trợn mắt, môi lật phật ở chỗ hai cái răng gãy, rồi phụt ra một bụm cười, “Trời, nói chuyện văn hoa triết lý quá cha nội? Chắc gặp nhà văn nào ở trong tù hả?”.
Bất giác, thầy cũng ngó bên kinh, chỗ ngày xưa gã hay ra đứng đái, và thầy hồi ấy là chú tiểu con con cầm nạng thun rình bắn cho bỏ tội chỉa chim trước chùa. Tiểu bắn không tệ, có bữa thằng nhóc bụm tay giữa hai đùi nhảy cà nhót, chửi thề ỏm tỏi. Bờ đất đó giờ rối nùi cỏ dại, thầy ngậm ngùi, “Ở chùa với tôi, đắp đổi cháo rau qua ngày…”.
Thêm một người cũng không làm chùa vui hơn. Gã cũng trầm mặc, cũ kỹ như mấy bức tượng, nhưng không có được cái an nhiên, thanh thản của thần Phật kia. Trên gương mặt chỉ hiện lên sự nhàu úa. Nhiều khi thầy nói chuyện gì đó và phát hiện ra có con cóc trong góc nhà cọt kẹt trả lời mình. Chỉ lúc thầy giả bộ bâng quơ, “con nhỏ đó vẫn chưa ai cưới”, thấy gã tái đi. Con nhỏ mà thầy nói, vẫn thường ghé chùa chơi, mấy hôm rày không biết đau ốm chi mà không thấy.
Gã ở chùa, người đến chùa bỗng đông. Họ cúi đầu lạy Phật mà mắt láo liêng tìm gã, hớn hở, nườm nượp như hồi nhà văn hóa huyện triển lãm heo ba mắt, ngựa hai đuôi và những thai nhi dị dạng ngâm trong mấy chậu thuỷ tinh hoá chất. Gã hay tránh ở vườn thuốc phía sau mỗi khi có bóng người xấp xãi rẽ vào sân trước. Loáng thoáng nghe hỏi dồn, nó về rồi hả? thằng đó đâu? Sao thầy chứa nó trong chùa? Nghe thầy cười nhẹ, nói thấy về thì biết về nhưng chưa về đâu. Ủa, vậy là sao? Thầy niệm mấy tiếng a di đà. Gã hình dung được ánh mắt hấp háy, tinh quái.
Thầy nhờ gã tiếp một tay làm hàng rào sân trước. Thầy buộc gã phải từ giã việc chui lủi bên những pho tượng. Hì hụi trên sân, vần nhau với những khúc cây ngâm nước lâu ngày tanh tưởi mùi bùn, gã gặp lại nhiều người quen cũ. Bối rối không giấu được, họ nhận ra đã quên gã rồi, từng chi tiết một, nên chẳng thể căm thù, xua đuổi càng không thể đối xử mặn nồng như một người xa xứ trở về. Không biết phải đối xử thế nào với cái thằng người đã từng là thú vật.
Những cây son mọc hoang ngoài đường bắt đầu trổ bông, một bữa, gã bê bức tượng Đức Di Lặc ra sơn lại, thì một cô gái già xộc vào. Cô định đạp xe đâm thẳng vô gã, nhưng nhác thấy bức tượng, sợ vỡ, nên cô dùng thân mình nhảy chồm trên đất ghìm trớn xe đang nhanh. Mặt đỏ lựng, bết mồ hôi, cô hét : “Ê…!”.
Tiếng kêu gọn lỏn. Như người ta vẫn thường ê xe vua, ê xe lôi, ê hủ tiếu bò kho… Nhưng sau tiếng “ê” ấy thì mọi ngôn ngữ tắc nghẹn. Cô cũng rơi vào bi kịch của sự không đủ nhớ để nhảy xổ vào cào cấu, băm vằm gã đàn ông ấy cho hả giận. Chỉ biết chơi vơi nhìn mối thù lớn của đời mình tơi tả như con bù nhìn rơm giữa gió trời. Những ngày qua, lúc buồn, lúc những gã trai trong xóm rước cô dâu mới về, lúc… đạp phải đinh, lúc… ho, cô đều bới tên gã ra chì chiết, để hả hê, để sống tiếp. Nhưng giờ điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết.
Cô quày quả bỏ đi, mặc kệ gã đàn ông đang chết sững. Sau này, cô cũng chỉ kêu mỗi tiếng “Ê!!!” khi ghé lại. Có bữa nghe da diết, như bảo tôi đây nè, tôi ra nông nổi vầy nè, ông sáng mắt chưa. Có bữa chất chứa tủi hờn, tôi nè, đã nông nổi vầy rồi, hết hy vọng rồi. Bữa khác trong âm nghe hằn học, tôi đây, tôi đã ra nông nổi này, tại ai tại ai tại ai. Và đợi gã ngước nhìn cô sẽ quay đi. Những bữa không thấy gã cô day qua hỏi thầy :
– … đâu rồi?
Thầy thấy bụng mình hơi quặn chuyện thế tục.
Những bông son nở bung từng chùm trắng xoá. Son ra bông trắng, báo hiệu mùa mưa rất dài, trời lạnh lẽo. Người già trong Thổ Sầu rủ nhau chết, thầy đi tụng kinh siêu độ suốt, chùa vắng tanh. Dù gã ở đó, dù cô có ghé kêu “Ê”. Nhưng cuộc gặp gỡ chỉ là của một – người – đã – chết ngồi nhìn một – người – đã – chết.
Chết từ cái lúc thằng con trai mười bảy tuổi dìm đứa bé gái xuống mé ao. Đứa bé mỏng manh ấy đã la hét hãi hùng vì đau, gã choáng váng nghĩ rằng tiếng kêu đó xuyên thấu vào đầu từng người trong xóm Thổ Sầu, đến với bà mẹ già ốm o của hắn đang ngồi câu. Gã muốn bịt kín tiếng hét cho đến khi con bé kiệt sức đến mức không còn giãy dụa. Nước trong, gã nhìn thấy da con bé tím dần, ngực nó thôi phập phồng, tóc nó trôi lều bều quyện vào đám rong nhớt. Xuyên qua làn nước, đôi mắt đen buốt của con bé nghẹn ứ những câu hỏi về sự tha hóa, man rợ của con người. Trong khoảnh khắc, gã thấy mình chỉ còn là một cái xác. Gã chết rồi. Vì những ly rượu đầu đời, những bộ phim tục tỉu đầu đời. Vì gã đang rạo rực không kiềm chế nỗi, và con bé đi học một mình trên đường trưa thưa vắng người.
Năm đó, son trổ bông đỏ như đang cháy. Nhà chức trách dẫn kẻ phạm tội ra khỏi đầu kinh xáng, ngoái lại bông son rực như ai đó vãi lửa lên trời. Gã nửa sợ nửa như nhẹ nhõm khi nghe tin đứa bé gái đã được cứu.
Được cứu, cũng không có nghĩa là sống lại, gã tin điều đó, khi trông vào mình. Trông vào cô, cũng vật vờ, chao chát, khác thường. Buồn lại cười, lúc vui vùi đầu vô góc bếp khóc. Buồn, vui đều thái quá, như cơm quá lửa khét, canh quá muối mặn lè. Cả xóm ngậm ngùi, “con nhỏ chết hụt mà, bây giờ không tưng tưng mới là lạ”. Người ta chỉ nhớ biến cố đó, và vì mãi nhớ nó nên cô vẫn không lấy được chồng. Thầy thì không nhớ, nhưng phải kinh kệ giữ chùa. Những lúc Thổ Sầu có đám cưới, cô hay mua rượu về, uống một mình. Qua chùa, cô ghé vào than, gần như là câu kinh điển, “Thầy ơi, tui ế chồng thiệt rồi, thầy tính sao đi chớ!”. Thầy day mãi cuốn kinh Phật trong tay, tụng niệm mãi mê để át ý nghĩ vừa loé lên thảng thốt, nếu mình không theo Phật nữa? Mà cô ta không lấy được chồng liên quan gì tới mình?
Thầy luôn ám ảnh câu hỏi đó. Thầy nghĩ, nếu mình trút áo nâu rồi, ít nhất có một người sẽ thôi say, khi mùa cưới đến. Ba tuổi, cả nhà chết vì chìm ghe, thầy lon ton vào chùa, theo sư bà Tư Huệ học đạo. Rồi sư bà buông tay lúc thầy vẫn còn lơ ngơ, không còn ai dắt thầy đi trên con đường đạo sâu thẳm. Nên gần bốn mươi năm sau thầy vẫn chưa đủ hạnh, cũng giận, cũng buồn. Giận vẫn chửi, có điều chửi chay, kiểu như rầy đám con nít hái trộm bông trang trong vườn chùa : “mấy đứa bây kiếp sau sẽ biến thành cỏ.. cứt heo”. Có lúc, hứng chí quá uống chút rượu, về tụng kinh sám hối suốt đêm, mà thầy bảo là “bù đắp cho hạnh bị hót mất một lổ”. Mấy bà già quen lối nghĩ người tu hành thường nghiêm trang, từ tốn, gặp thầy lần nào cũng buộc miệng rầy, “thầy chùa mà không nên nết”. Thầy cười xuề xòa, nhìn cái áo thì không biết được ai là bậc chân tu đâu.
Thầy chỉ cãi cố vậy thôi chứ không ám chỉ mình. Thầy vẫn phân vân, hay ngoái lại nẻo đời, vẫn loay hoay với ý nghĩ có những số phận mà trăm ngàn quyển kinh kệ cũng bó tay, không cứu chuộc được. Đó là lúc bông son rụng trụi cành, người ta nườm nượp cưới xin, cô say nhiều hơn, ghé chùa thường hơn, gục gặc bên mấy pho tượng Phật. Gã bạn thầy chỉ biết nhìn cô vơ vất, không biết nói gì, làm gì, bản thân gã chết rồi làm sao cứu được người chết khác.
Gã lao vào học Phật. Chùa cũng không còn mấy quyển kinh, gã thuộc mau, tụng niệm mê mỏi. Gã còn đòi xuống tóc. Thầy cười buồn, không còn tóc thì tâm vẫn chẳng an, có nghĩa gì đâu. Và để chứng minh điều đó, thầy cũng làm cái lễ xuống tóc nho nhỏ. Cô trông thấy cái đầu trọc bóng của gã, kêu “Ê! Sao ai cũng bỏ tui đi tu hết vậy?”, chới với như té cầu khỉ. Bữa sau, mở cửa thấy cô nằm bẹp trước sân, người vương vất sương, thầy nổi quạu, ôm mấy cuốn kinh quăng phẹp trước mặt gã, chửi mặn :
– Ông là thứ cỏ chỉ vô dụng. Tối ngày chỉ biết làm chuyện bá láp, may vô đất thì có ý nghĩa gì? Người ta té sông, ông đọc kinh sám hối thì tự dưng người ta nổi lên sao? Phải lấy tay mình kéo họ kìa, ông ơi.
Thầy nắm tay, dứ trước mặt gã, như níu lấy một cái gì đó, không rõ ràng. Gã lúi húi nhặt nhạnh, như nỗi khổ tâm đang rơi ra, lúc nhúc bò trên đất. Vì lời của thầy, vì màu da dưới áo cô nhiễm lạnh ngã tím, như bị dìm lâu trong nước. Khi cô tỉnh giấc, ra về, gã nói vói theo, “chừng nào buồn, lại rủ tôi uống rượu với”.
Cô hơi khựng lại, có lẽ giọng nói của gã rất khó nghe, nó đã quánh đặc, đông thành khối trong lòng, từng từ rắn như đá, lục cục lăn qua đầu môi. Thầy nghe còn lạ, bấy lâu gã không nói với thầy bằng lời như vừa rồi, ngộ ở chỗ thầy lại thấu điều gã sợ, điều gã đau.
Mình cũng giỏi thiệt, nhiều khi nghĩ lại, thầy mắc cười. Gã đã chịu ngồi chơi với cô, đôi khi còn uống chút rượu. Dù mùi men rượu gạo của năm mười tám tuổi thốc lên làm gã sợ đến tê dại, đến mụ mẫm. Sau cơn chếnh choáng gã đầm đìa mồ hôi như vừa xông nồi lá thuốc. Người nhẹ hẫng, vì ngó vào lòng, thấy dục vọng trống không. Gã có thể nhìn thẳng vào cô, bàng hoàng vì trên gương mặt của cô gái chớm già đã xuất hiện những đốm tàn nhang. Cô nạt :
– Ê!?
“Ê” có nghĩa, “nhìn gì mà nhìn?” Mặt cô hơi đỏ, như máu đang mon men quay lại chảy trên những cái mạch đã cũ. Có gã giữ chai rượu, cô không còn cơ hội để say, bớt xơ xác. Kinh Phật không làm được điều này, nghĩ tới đó, gã hoang mang. Thầy ngó cái lưng của bạn, nghĩ, hình như gã đã ngộ ra được điều gì rồi.
Và điều đó hẳn rất quan trọng, lớn lao khi thầy thấy gã từ trốn chạy nhớn nhác chuyển qua chịu trận đương đầu. Gã thôi bỏ chạy khi có việc ngang qua bờ chuối cũ. Những tay chuối rối tung. Nơi đứa bé gái giãy khóc ằng ặc, đòi méc má trong bàn tay thô bạo cuống cuồng của gã. Gã chịu trận những ánh nhìn nghiệt ngã lúc theo thầy đến những đám tang, thức thâu đêm, giữ đều từng hồi trống, phụ gia chủ phần trà nước.
Giữa hai mùa son, gã đã dựng được cái hàng rào, tôn nền mộ của sư bà lên cao, trồng bốn luống mỏ quạ, thuộc được mấy bản kinh, cạo đầu một lần. Một lần được cô gái buồn nhất Thổ Sầu, đề nghị, “Anh cưới tui đi” sau khi chúc cạn chai rượu vào đất. “Không là tui chết đó”, cô giơ cái chai không dấm dứ thêm. Gã đứng chết trân.
Gã bỏ Thổ Sầu đi. Chuyện đi ở của gã như khúc củi mục linh đinh dưới sông, thầy đã cố vớt lên, nhưng rồi con nước dâng, củi lại trôi rồi. Gã cần thời gian để đương đầu với nỗi sợ khi bóc tách lớp áo của cô ra, sẽ hiện ra hình ảnh đứa bé gái gầy gò, tóc dài, mắt chong chong ngơ ngác trước sự tàn nhẫn của con người.
Chùa nhớ gã, sáp đèn cầy chảy ròng như nước mắt. Cô nhớ gã, ghé chùa dáo dác, “Đi luôn rồi hả? Không cưới tui thì thôi, mắc gì phải trốn đi?”. Thầy nhẹ nhàng nói, đừng lo. Tới nắng gã lại về.
Thầy đoán trúng. Chỉ không biết mình lại chơi vơi khi thấy đôi người ấy đi cạnh nhau trên con đường xóm, như hai con số 11, hai cây tre miễu lêu đêu, bóng soi xuống sông dài nhằng, vặn vẹo… Thầy chỉ không hiểu sao mình lại nghe rười rượi lúc nhìn khói bếp bọc lấy ngôi nhà nhỏ vừa dựng trên vườn cũ bên sông. Vì cái buồn vơ vẩn đó, thầy nghĩ chắc mình phải đi tu chùa xa quá.
BỘ TƯỢNG CHÚA VÀ BA TỶ BẠC
thái san
Sáng thật sớm, cô gái vừa chân ráo chân ướt từ Hà lan trở về nói với tôi:
-Cháu sẽ chẳng bao giờ lấy chồng, và Hạnh (cháu tôi cùng đi với nó qua đó) còn ở lại bển để sống cùng với anh chị. Riêng cháu thì về vì chẳng tham lam của cải làm chi nữa nên về may quá vừa về tới nhà, cha đã kêu bố cháu lên nhận chức trùm thánh thể, thực tế cháu cũng mừng. Nhìn cô gái trẻ từ đầu tới chân, ăn mặc kiểu tân thời dự đoán tuổi chắc cũng khoảng chừng ba mươi mấy. Tuổi này tình dục còn hơi cao nên cũng không dám phán đoán vì yêu hay tình dục. Có khi cả hai hay cả ba, từc là tình, yêu, tiền.v..v…Nhìn kỹ và chủ quan là như vậy.
Và đúng trưa là rước bộ tượng thánh thể về nhà để vừa thờ vừa chuẩn bị lo cho những đám rước sau này trong xứ và trong khu nữa.
Một anh chàng vừa đi qua hỏi:
-Thế em có định lấy chồng không vậy? Chưa kịp nhìn người ta, đã trả lời không chần chừ tức là trong đó đã quyết định sẵn:
-Không, chẳng bao giờ.
-Chắc chứ?
-Tất nhiên rồi, lại nữa chân em chẳng thể nuôi con được. Anh chẳng biết đâu khi xưa bị tai nạn xe, cái chân em đã muốn hư mất may quá, nhiều khi em phải điện thoại cho cán bác sĩ đã dầy công. Càng phải cám ơn Chúa ban đã bớt hẳn.
-Sao vậy. Nhìn người đàn ông bị thương ở chân đang đi cà thọt cô gái nói như người sành sõi:
-Theo cháu, bây giờ chú nên rửa chỗ chân bị thương đó bằng nước muối đặc là mau khỏi nhất. Quay qua chú bé ngồi bên cạnh cô gái nói:
-Thì anh thấy đó khi xưa bị tai nạn phải gìn giữ cái chân sao cho đến giờ nên em sẽ quyết định chẳng lấy chồng vì phải nhiều nhiệm vụ, chẳng hạn cho chồng, cho con nên em vẫn lần khân đó thôi. Chợt quay qua nhìn tôi hỏi lại:
-Nhưng anh thắc mắc làm chi?
-Vì anh định nói với em về đám cưới của mình chứ chi. Cô bé đã quay ngoắt to tiếng:
-Anh Long em chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đó đâu, anh cũng đừng nghĩ tới nữa nhé. Cô bé nói như an ủi. Chàng trai còn hoa bướm trêu vì dù sao cô bé cũng dễ trông:
-Ừ. Thế buổi sáng qua anh thấy em ở nhà cái thằng gì con bà Kiểm D đó đang bước bước như đo đất người ta chi zậy?
-Hứ..hứ…
Cái anh chàng cắc cớ còn hỏi thêm:
-Vậy bề ngang đất nhà trên Lộ 1 được bao nhiêu:
-Gần ba chục mét nặng đó anh, mà anh hỏi làm chi vậy?
-Thì hỏi để mà hỏi. Thử xem giữ lời không lấy chồng được bao lâu nào.
-Đã nói không lấy là không lấy, có vàng ròng em vẫn không chịu mà.
-Chắc nhé.
-Thì chắc, nhưng mắc mớ gì đến anh mà anh phải bận tâm. Người con trai ngang ngạnh nói vừa nhìn thẳng vào mật cô gái với bộ mặt khôn ranh:
-Vì anh muốn lấy em chứ chi.
-Hứ..hừm…anh chĩ rỗI chuyện nào.
Sau hôm đó gần như cuộc cãi vã lại biến thành sự thật. Vì chính chú bé chủ sở hữu miếng đất đó đã được chiêu đãi bằng cách cô bé đứng sát với cái áo bó sát như áo may ô mầu hồng dán sát bụng của cô gái đang ưỡn ẹo qua lại. Kể ra cũng hấp dẫn thiệt, sao chịu nổi. Tôi nghĩ:
-Chắc chú bé chẳng qua nổi chiêu độc của đàn bà con gái kiểu này. Bỗng dưng nói với mình. Có người cũng đã lớn tuổi đứng xa xa châm vào:
-Con gái thời nay ăn với mặc gì như điêu khắc gia vào mình thế thì coi sao được. Thế mà có ông già đi qua đường thôi nghe thấy chêm vô:
-Chú mày sai rồi, càng hở rốn nhiều càng chững chạc đó, chú trẻ hơn tôi mà xưa hơn tôi, xưa lắm rồi. Chợt quay qua người phát ngôn chưng hửng, chắc đoán cụ năm nay cũng phải hơn bảy mươi, tôi cười và nói dỡn làm cho vui câu chuyện:
-Thế không trách ông thợ may chửi thằng con đo để sửa quần bò cho khách nữ:
-Mày chỉ việc nhận, không chê trách, phán đoán bậy bạ, biết gì nào, miễn có việc làm là tốt thôi. Ngừng một chút ông thợ may còn nói con tiếp:
-Mày biết không như vậy là mình làm đẹp cho khách vì bó những mớ thịt dư của những người béo đi làm đẹp thêm đời cho người. Cho đời không được sao?
Nghe câu chuyện trên cho ta thấy bao nhiêu suy nghĩ của người khó đoán được lòng người kể cả theo câu chuyện của cô bé vừa hứa là sẽ không lấy chồng. Theo tôi, hứa mạnh bạo bao nhiêu là vấp bấy nhiêu. Y như rằng sớm tinh mơ hôm sau khi tôi đi tập dưỡng sinh đã thấy hai chị và anh chàng chủ đất đang ôm chặt nhau ngay lề đường trước khi chia tay sau lễ chủ nhật. Tôi chẳng lạ nhưng có loại người lời nói, thường không đi đôi với việc làm như vậy là thường sự. Vì quá nửa đời người nên chẳng lạ. Lặng thinh bước qua mau đến nơi tập mà lòng suy nghĩ chuyện người còn nghe thấy tiếng nói:
-Em chỉ hứa với anh thôi còn bất kỳ cho vào sọt rác.
-Thế lỡ người có cười em không?
-Cười để mười răng ra có sao nào, chuyện mình sao lo người là sao hé anh?
Vài hôm sau xây móng nhà. Khi đi qua tôi hỏi dù đã biết tỏng vẫn hỏi:
-Thế cháu định lấy chồng ư?
-Vợ Dũng thay cháu còn siêng hơn cháu nhiều phục vụ ông già tốt lắm.
-Nó mới cưới mà.
-Vâng nhưng nó ngoan lắm, vì nó vừa bên Bắc vào thì như người Việt mình đi Mỹ chứ chú. Tại chú không biết đó thôi, họ muốn hơn đi Mỹ nữa, thế chú nói không tốt hay sao. Tôi ngứa miệng hỏi:
-Vậy chắc cháu cũng định lấy chồng là cái chắc.
-Thì cháu phải lo phận cháu chứ chú. Mặt tôi nhìn thẳng vào cô gái mang nhiều tính cách lừa dối (nay này mai khác) trên mặt và chính chưa hiểu chỗ hay nói dối nó thể hiện ở đâu nên cũng cố nói cho cô bé nghĩ về chính lời nói của mình và việc làm:
-Thế hôm trước tôi nghe thấy cháu có hứa với Long là sẽ không lấy chồng cơ mà, hay cho đến hôm nay không nhịn được nữa à?
-Chuyện hứa là một chuyện còn làm là một chuyện chứ chú.
-Không lẽ không cho mình một cuộc sống chính thực ư?
-Thường đều do mình mà ra cả hay là bị cái gì nó cám dỗ mất rồi.
-Nhưng thực tế lại không phải câu nói làm cô bé đỏ mặt nhưng lại là chuyện chính giá trị ba mẫu đất (trong cầu một) và ngay tại bên quốc lộ 1 kia kìa khiêu khích quyến rũ cháu. Suy nghĩ hồi lâu cô bé hỏi lại tôi:
-Thế chú cảm thấy cháu nhẹ như vậy có được không ạ? Một câu hỏi tránh né khôn ngoan của cô bé đã hơn ba chục. Tôi chẳng nên suy nghĩ gì thêm trả lời thẳng thừng:
-Thích thì lấy còn không thích thì đừng mơ tưởng gì cả thế thôi, lại nữa lúc này cháu có suy nghĩ gì về cái chân không nhỉ?
Đám thợ nề đang tráng xong phần cuối của cái hè nhà là xong. Nhìn họ làm tôi chợt dâng lên bao bùi ngùi không đáng vì không phải chuyện của mình. Bất chợt cô bé thêm:
-Đúng ra cháu chẳng lấy chồng là phải, nhưng chú thấy chuyện đời thì biết thế nào là phải ăn thua mình thích hay không thế thôi, và bất chợt vì cái gì hoặc chẳng vì cái gì cũng thế thôi. Tôi buông thỏng câu như không lọt tai cách lý luận:
-Tất nhiên rồi. Bên cạnh hè là căn nhà của chính ông bố xưa kia cũng chẳng phải của ông trùm nữa nhưng nhanh chân từ sư đoàn bảy con chim gỗ vùng dưới về vội nhận lấy, nếu không nói là chiếm ngay miếng đất xưa kia mà chỉ bà cụ và hai đứa cháu gái đổ mồ hôi sôi nước mắt trên đó, chính ông cũng chẳng bỏ ra dù một ngày công để bảo toàn hoặc nuôi cha mẹ.
Cái bảng simily quảng cáo cho phone viettel có hai mầu đen và trắng đứt một bên rủ xuống, trong đó có câu giảm giá sáu mươi giây thứ hai, cũng một mánh khóe quảng cáo bị đứt một bên giây rũ xuống như cờ báo tang một gia đình có người qua đời nhìn đến phát sợ.
Chiều đến cô gái đã mang về nhà ba cái tủ gọi điện thoại công cộng đặt vào trong nhà, ngoài cửa treo bảng ”bán thẻ cào chêm thêm câu nên gọi 178 trước” và sáng hôm sau mang về toàn bộ bức tượng chúa ngự ngay trên bệ mấy tủ điện thoại. Tôi chợt nghĩ, những gì nói trước thường không thể xẩy ra như dàn cảnh một vở tuồng và bây giờ cô bé đã chính thức xin cha rao ba tuần để chuẩn bị lấy chồng thế là hết truyện.
Nhìn cái hè trồi xa ra chiếm thêm phía ngoài đường làm cho bao nhiêu người đi ngoài đường thắc mắc cái tính chất xâm lấn lòng lề đường thành một thông lệ của người Việt mình.
Đáng ra tôi chẳng cần mất chút dù chỉ một giây tư duy nhưng nó làm cho tư tưởng tôi lan man qua chuyện khác làm tôi cảm thấy trò đời chứ chưa nói đến chình trị chính em gì nữa. Tôi không tin tưởng vào bản thân về sự suy nghĩ bèn nói với ông bạn trong quán càfê. Ông trả lời:
-Chuyện đời nó thế mà lo chi không xẩy ra, ối còn bao nhiêu câu chuyện hắc ám nữa vẫn thể xẩy ra mà, nên bỏ ngay cho tâm nó an, còn cứ suy nghĩ mãi càng muốn phát khùng chứ ích chi. Tôi nhìn thẳng mặt ông trên bộ mặt ông hiền từ, bao hàm sự yên tĩnh vĩnh hằng.
Ông chỉ nhìn tôi rồi cười rồi bước qua đường nhìn theo cô gái vừa về lễ, ngực áo cố tình để hở theo kiểu tây phương thấy mà phát ghét, đi sát bên cạnh chàng trai mà cô bé đang định theo đuổi, cho đến nay vẫn chỉ chuẩn bị cưới mà thôi vẫn chưa xúc tiến hẳn hòi.
Anh chàng có vẻ sắp nản chí vì tiếng đời xầm xì to nhỏ thường là:
-Tiền tỷ mà rúc vào chỗ không ngoan nết tý xíu nào nhưng rồi đây ai biết được tương lai ra sao, có khi lại phát triển hơn thật tuyệt vời của cú lừa đảo kiểu gần giống như bán thịt người vậy thì sao? chú bé kè kè theo sau như chính thức nhận sự việc đã rồi coi bằng như thua những sự lừa lọc tinh vi của cô gái, bề ngoài có vẻ dịu dàng ấy ai ngờ đó chỉ là vỏ bọc, một tuồng diễn khá khéo trong có dục tính, bao thèm thuồng của trai trẻ, vì phía ngoài dầu sao cũng được ông trùm thánh thiện che chở cả rồi. Và những gì tiếp diễn vẫn tiếp diễn, nếu nói ngược thì vũ như cẫn, chẳng ai để ý đến vì ai cũng phải lo cho chính của sống mình thì ai chết mặc ai, cũng như một dân biểu khi kê khai tài sản mất trộm quên khai với ca là mình mất thêm cả mười ngàn đôla đâu, thì thử hỏi ai biết được chỉ một dân biểu thôi mà còn bao nhiêu đó thì người lớn hơn thì bao nhiêu nữa.
Nói ai mà tin hả trời….cùng lúc với tin trên tivi đang nói tin thế giới bỗng nhiên lọt vô tai về cuộc đánh bom tự sát để bảo vệ đất nước mình sau khi bị mỹ chiến đóng lấy cớ tìm kiếm vũ khí hạt nhân, chết gần hai trăm người tàn sát một cái chợ.
Cho đến nay vẫn chẳng có tìm lấy dù một chứng cứ. Người chết vẫn cứ chết.
Thật đúng là một vở kịch diễn quá thô. Kèm theo tiếng phát ngôn viên nói về cấm các anh chàng ca hút thuốc và đeo kiếng đen.
Thật đúng là một trò hề, ai dám đứng ra bắt hoặc dân chúng ư?
Họ đã chán chết những bảng quảng cáo kiểu cải lương.
Nhà cửa đã xây xong cô bé thường đứng nhìn qua lại để nghe bao tiếng trầm trồ của bao dân nhập cư miệt ngoài mơ ước dù chỉ để có chỗ ở à việc làm mà thôi, bên cạnh đó ông bố bán kèm những bánh trái cho con trẻ và nay lại bán thêm cháo đa dạng, chắc mỗi gói cũng được lời khoảng vài trăm bạc là nhiều lắm.
Ngoài trời không khí chuẩn bị tết ta cũng chẳng có dù một tí. Tôi tự nhủ với lòng:
-Năm nay chắc chưa thấy không khí Tết chút nào.
Nản lòng vì cái bệnh tật đeo đẳng trong mấy năm cả hai vợ chồng ngồi buồn mà nghe tê tái. Chỉ nguyên tiền thuốc cũng không đủ mua để uống chờ cho kết thúc chuyện đời.
Thấy ngồi suy tư nhà tôi nói để an ủi, thường bà ấy biết cái tính xấu thường cu ky:
-Thôi kệ mẹ nó ông ơi đời ra sao thì ra, nghĩ chi chuyện đời. Tôi nghĩ và nói theo thuyết định mệnh. Ông trời gọi thì dạ, thế thôi nghĩ làm gì cho buồn. Đúng không gì bằng vợ chồng, lan man nghĩ không biết hai đứa trẻ có được như vậy không nhưng chẳng nói ra. Thế rồi cũng quên khuấy chuyện hai đứa trẻ. Tự nhiên chỉ nghĩ đến mình và tự an ủi:
-Chuyện mình còn chưa xong nghĩ ra làm chi.
Bởi câu chuyện trên làm cho tôi thấu hiểu thêm tình người cũng cần phải có nhau như theo câu của họ trịnh (ngàn năm sỏi đá cũng cần có nhau) nên từ đó câu chuyện của Hương bạn thơ ngày xưa tôi cũng cho trôi theo ngày tháng tuy vậy trong lòng vẫn ấm ức chuyện nói một đàng làm một ngả. Khó chịu đó bủa vây miên man suốt buổi sáng đến chiều vẫn chưa yên ả. Biết ý tôi bà tôi nói:
-Sao mày cứ hay câu mâu chuyện người thế vậy. Hãy bỏ đi cháu cuộc đời không có cháu hoặc có cháu vẫn trôi chẩy có cháu cũng chẳng thêm nỗi gì. Nghe bà nói đừng nên làm những chuyện vô ích thêm nữa, và tự lo cho chính bản thân kẻo rồi mang họa cháu ạ.
Chiều đến tiếng xe máy nổ H cô gái tên (H) ngồi chễm chệ mặc đồ pull. Tôi nhìn còn cảm thấy ngạc nhiên huống hồ đã bị vô tình hay hữu ý bị người quản lý, dù rằng sáng sớm kia đã chuyển toàn bộ tượng Chúa về, và đĩnh đạc trong tủ kính nghiêm trang, tôn kính.
Trong lòng tôi đã nghe theo lời người vợ khuyên bỏ qua đi những mớ bòng bong hoặc những hơi hám không lành và bước vào trong giường qua một giấc ngủ tinh thần sẽ sảng khoái, mặc mọi chuyện đó đã dính đeo theo từ bao lâu cũng chẳng biết nữa.
Trong đầu luôn mang mang rằng con ông trùm thánh thể nay đổi ý.
Sẽ lấy chồng chỉ vì ba mẫu đất với gần ba chục mét mặt đường.
Thật bố nào con nấy.
thái san