CHÉM VIỆT GIAN – Ngày 2 tháng 9 năm 1945

CHÉM VIỆT GIAN

 

Nguyễn Liệu

Đình làng đã thành cơ quan khởi nghĩa xã Long Phụng.

Chiều hôm đó quanh đình treo nhiều biểu ngữ viết chữ đỏ trên

các cuộn buồm: “Tiêu dit bn Vit gian phn quc”. Lần đầu

tiên tôi nghe hai chữ Việt gian, thì ra có Việt gian và Việt không

gian. Chữ là lạ tạo hình ảnh khủng khiếp. Dân làng kéo đi biểu

tình đông lắm, có lẽ không còn ai ở nhà vì hình như có người

vào từng nhà kêu gọi, bắt buộc đi. Có những đứa nhỏ hai ba tuổi

cũng được bồng bế theo. Có lẽ nhà tôi bị liệt vào loại Việt gian,

nên không ai vào bắt đi. Từ hôm khởi nghĩa, bà con láng giềng

sợ liên lụy không ai đến nhà tôi. Đoàn biểu tình chiều hôm ấy nét

mặt có vẻ nghiêm nghị, lo lắng báo trước một việc rất nghiêm

trọng sắp xảy ra. Họ đi theo từng giới nam phụ lão ấu, đàn ông

đi riêng, đàn bà đi riêng, người già đi riêng và trẻ em cũng đi

riêng, vừa đi vừa hô các khẩu hiệu sắt máu — tiêu dit bn Vit

gian phn quc, đ đo phát xít Nht, đ đo thc dân Pháp, đ

đo bn phong kiến bóc lt… Tiếng hô vang xóm làng. Tất cả

kéo đến đình làng rồi ra bờ sông Vệ. Không ai kêu gọi, nhưng tôi

cũng nhập vào đám thiếu nhi, gặp một số bạn bè cũ ở trường

làng. Bọn nó thấy tôi nhưng không gần gũi chuyện trò như xưa.

Đám đông thật đông chưa từng có bao giờ, đủ mặt bà con trong

làng. Chúng tôi đi ép một bên đường để nhường chỗ cho đoàn

thanh niên đằng đằng sát khí đi ngược chiều. Họ hàng ngũ chỉnh

tề, dậm chân mạnh, bụi bay tung. Tay mặt mỗi người đều cắp

dao lưỡi dài, sắc gọi là dao bảy, cán dài bằng gỗ độ hai tấc, lưỡi

to bản dài độ năm tấc mài rất bén. Tôi nghe mấy đứa trong hàng

xầm xì chiều nay chém ông C., ông N. và một số nữa, bảy ông.

Một thằng hỏi sao mầy biết, thằng kia quả quyết: “Cha tao bo,

vì chính cha tao chém, hi trưa ông không ng mài mãi lưỡi dao

ri xoa du phng vào lưỡi cho lóng lánh. Bà ni tao bo đng

chém, ko tri tr báo, đ người khác làm cái ác đc đó, nhưng

cha tao la bà tao bo bà già biết gì mà nói.” Thằng khác hỏi

“Vy chiu nay ba my cm dao chém?” Thằng kia hãnh diện

đáp “Đúng, cha tao ch huy toán lính làng mà, v li cha tao có

võ nên cha tao biết chém”. Bn nó k chuyện thản nhiên, từng

tiếng rõ ràng làm cho tôi choáng váng. Trời ơi, chém người trong

đó có cha, anh tôi không? Bất giác tôi nắm bàn tay, duỗi ra từng

ngón 1,2, 3…đến 7. Tôi rùng mình nhiều quá, 7 người làm sao

tránh được cha và anh. Tôi nghĩ trước đây, cha tôi thường binh

vực bọn Nhật bản. Ông hãnh diện về quân đội Thiên Hoàng vì

người Nhật làm cho người da vàng châu Á, trong đó có Việt

Nam rất hãnh diện với bọn da trắng Tây phương. Trong nhà có

những tập “Trung Nht chiến tranh” mà tôi thường đọc và rất

khâm phục sự chiến đấu anh dũng của quân đội hoàng gia

Nhật. Tôi quá ngạc nhiên và gần như không tin tại sao quân đội

Nhật hùng hồn như vậy mà lại thua, thua cả đám dân làng như

thế này. Cha tôi lại vào đảng Tân Việt của ông Đào Duy Anh,

một học giả nổi tiếng lúc bấy giờ. Cha tôi cho biết sẽ mua chiếc

xe đạp để đi họp cho tiện, nhất là họp ở quận, ở tỉnh. Tôi đã

mừng nếu cha tôi có xe đạp thì tôi tập cỡi dễ dàng hơn tập cỡi

lén xe của anh tôi thường canh lúc người lớn ngủ trưa, dắt rất

nhẹ nhàng, dở hỏng xe khỏi đất, đem ra sân, lấy dây cột kỹ cái

chuông lại, dựa vào bực cấp mà xích tới, xe lịnh quỵnh vài ba

thước rồi té. Đời người nào cũng có những kỷ niệm ngây ngô về

 

lúc tập cỡi xe đạp. Anh tôi, khi Nhật đảo chánh Pháp, thôi học về

nhà giúp cha buôn bán, rồi vào đoàn thanh niên của ông Phan

Anh, một luật gia tên tuổi và là bộ trưởng thanh niên của chánh

phủ Trần Trọng Kim, chánh phủ đầu tiên độc lập của Việt Nam

sau thời gian dài bị Pháp cai trị… Bây giờ Nhật thua, cha anh tôi

có thể bị chém. Tôi không dám nghĩ xa, cố xua đuổi hình ảnh

chém, nhưng hình ảnh kinh khủng ấy cứ ám ảnh. Miên man với

ý nghĩ kinh hoàng đó, đoàn thiếu nhi ra đến bãi sông tôi không

hay. Trên bãi cát đã đầy người từ bao giờ. Người ta nhốn nháo,

bọn thiếu niên trong đoàn tôi la lớn “Kià h dt ra kìa. ! ông C.,

ông N.”. Tôi nhìn bên trái, một toán thanh niên như toán lúc nãy,

cũng dao bảy, cũng đi đều, giữa toán có hai ông già, ở trần, có

lẽ bị lấy áo bịt mắt. Hai bàn tay tội nhân nắm đầu cây gậy, đầu

kia một thanh niên nắm dắt đi. Nhìn nhanh, tôi giật mình, ông già

này nước da trắng, hơi mập. Trời ơi! cha tôi! Tôi muốn oà la lên

nhưng kịp dừng lại vì nghe ! Ông C., ông C!.” Nhiều người nói

cùng lúc. Nước mắt tôi trào ra chảy trên gò má, chảy vào miệng.

Tôi liếc mắt bên trái lần nữa, tiếp theo cũng một ông già. Ông

này có râu đen dài, cũng ở trần bịt mắt đi chậm chậm tay nắm

một đầu gậy. Tôi chỉ thấy hai người bước nặng nề chậm chậm,

làm cho người dẫn cũng chậm lại. Phiá trước, người ngồi đông

thật đông, ngồi tròn quanh hai cây nọc chôn từ hồi nào, bên hai

cây nọc, hai cái hố đào sẵn. Như vậy là chỉ chém hai người chứ

không phải bảy như người ta xầm xì. Tôi hơi yên tâm vì hai tử tội

này không phải là cha, là anh tôi. Lấy lại tinh thần, tôi ngẩng đầu

lên quan sát kỹ.

Hai tử tội quỳ xuống cát trắng, hai tay đưa về sau lưng buộc chặt vào cây cọc đã chôn sẵn, đầu cúi gần như quặp xuống. Họ nói gì hay không, tôi không rõ vì ngồi xa, vả lại

quá khiếp sợ. Độ bốn năm chục người đi qua lại gần hai tử tội,

trong đám đó, một người bước lên đứng trên cái bân học trò,

sau này tôi biết đó là ông sáu Thụy. Ông Thụy là ủy viên quân

sự xã, ở xóm dưới nhà tôi, tướng người lùn nhưng rắn chắc,

nước da ngăm đen. Ông là võ sư, cũng như ông Kha, người ta

đồn về võ nghệ của ông nhiều lắm. Ông có đứa con trai nhỏ hơn

tôi, thường biểu diễn quyền cước, đánh côn mỗi khi có lễ trong

làng, được dân làng khen ngợi. Ông mặc bà ba đen, ống quần

cột chặt vào cổ chân, đi chân trần đầu đội mũ vải màu vàng, một

tay cầm tờ giấy để công bố tội ác của hai tử tội, một tay cầm

kiếm sáng ngời. Tôi không nghe hết câu vì quá sợ, nhưng tôi

NGUYNLIU 􀁺 69

nghe được tên hai ông, tội hai ông đều là người theo đạo Cao

Đài, làm tay sai cho Nhật. Mỗi khi đọc một tội, ông Thụy tung

mũi kiếm lên trời. Mọi người im phắc, mặt cúi gầm xuống cát. Tôi

cũng vậy, không dám ngước nhìn ông sáu Thụy nữa. Lời tuyên

án dứt, một khoảng im lặng khủng khiếp. Tôi cúi đầu gần sát cát,

nín thở, nghiến chặt hai hàm răng như để chịu đựng. Bỗng ba

tiếng chát chúa sẹt, sẹt, sẹt, như xói vào đầu tôi sắc lẹm, rồi im

bặt. Thời gian như ngừng lại, tôi nhắm mắt, trán chạm vào cát.

Tiếng sẹt sẹt lại tiếp theo, lần này không phải ba tiếng mà nhiều

tiếng không thể đếm được. Tôi nghe bốn phiá đều vang lên “Ô!

Ô! Ô!” Tôi như chợt tỉnh và mọi việc đã xong rồi, ngửng đầu lên

nhìn vào hai cây cọc. Máu đỏ vung một vùng cát đỏ lòm, một

người nằm qụy xuống, không còn cái đầu, người kia còn dính

vào cây cọc, cái đầu ngã qua một bên lủng lẳng, máu phun ra

thành vòi. Đám đông không còn trật tự nữa, mạnh ai nấy chạy,

họ chạy lung tung tứ phiá, không hàng không ngũ, họ chạy xa ra

khỏi vùng máu đỏ. Tôi cũng theo đám đông chạy khỏi bãi cát,

mệt thở hút hơi, vội vã cắm cúi về nhà. Trên đường, nhiều người

mặt tái ngắt, im lặng, rất im lặng, rảo bước không ai đợi ai. Vào

nhà, tôi không kể lại chuyện khi chiều, lặng lẽ ngồi vào mâm ăn.

Tôi nuốt không nổi, mẹ tôi bảo tôi đau rồi đó. “Thng Hoán đau

liệt giường, không thuc men phi ung nước h, coi chng ti

my na.” Tôi biết tôi không đau cảm gì, chỉ khiếp quá thôi. Hình

ảnh cái đầu lủng lẳng một bên vai, máu phun ra thành vòi, ám

ảnh mãi. Đêm đó, tôi không ngủ được, hễ chợp mắt là hình ảnh

cái đầu ngoẻo lủng lẳng một bên, máu phun thành vòi lại hiện

về. Tôi nằm sấp, úp mặt sát giường vẫn thấy rõ mồn một cảnh

ban chiều….

( Trích hồi ký Đời Tôi của Nguyễn Liệu trang 66-69 )

Bình luận về bài viết này