VIỆT NAM: LẠM PHÁT SẼ TĂNG VỌT NĂM 2012 Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
VIỆT NAM:
LẠM PHÁT SẼ TĂNG VỌT NĂM 2012
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Ngày 09.07.2011
Web: http://VietTUDAN.net
Theo phân tích của Bản Báo Cáo của Ngân Hàng Thế giới đầu năm 2011, thì “Từ góc độ lịch sử, Việt Nam luôn có tỷ lệ lạm phát cao hơn các nước láng giềng.” Câu vắn gọn này nói về Lạm phát tại Việt Nam có những chữ như “lịch sử“, “cao hơn các nước láng giềng“ cho thấy tính chất đặc biệt của Lạm phát VN:
* Lạm phát tại Việt Nam là thường xuyên, liên tục như “lịch sử “ chứ không phải chỉ là biến cố nhất thời xẩy ra rồi biến đi;
* Lạm phát tại Việt Nam không phải chỉ là một hoàn cảnh chung, như Khủng hoảng Tải chánh hoặc Đầu cơ năng lượng chẳng hạn, xẩy đến cho mọi nước như nhau. Việt Nam có những lý do Lạm phát riêng thuộc cơ cấu Kinh tế khác với những nước khác nên Lạm phát “cao hơn các nước láng giềng “
Chính vì vậy, những biện pháp khống chế cái Lạm phát thường xuyên và liên tục ấy tại Việt Nam phải tìm vào những nguyên nhân đặc biệt thuộc cơ cấu Kinh tế khiến Lạm phát “cao hơn các nước láng giềng “.
Lạm phát cuối tháng 6/ 2011 này lên tới 20.82%. Theo Bản Tin của Bloomberg ngày 08.07.2011, thì Ngân Hàng Thế Giới đã cảnh cáo Việt Nam về độ tăng Lạm phát “không thể tha thứ“ được (intolerable):
“The World Bank last month described price gains in Vietnam as “intolerable” and had called upon policy makers to maintain tight monetary conditions until inflation is sustainably below 10 percent.”
(Tháng vừa rồi, Ngân Hàng Thế giới đã vạch rõ vật giá leo thang ở Việt Nam như điều “không thể tha thứ “ và đã kêu gọi những người hữu trách hoặch định Kinh tế phải xiết chặt những điều kiện tiền tệ cho đến khi nào Lạm phát có thể chịu đựng nổi bên dưới 10%”
Những biện pháp của Nhà nước
nhằm kềm chế Lạm phát
Xin nhấn mạnh một lần nữa là Lạm phát ở Việt Nam không tăng theo hoàn cảnh chung của các nước láng giềng, mà còn mang những lý do nội tại “Từ góc độ lịch sử“, nghĩa là lý do thuộc chính Cơ chế CSVN nắm “chủ đạo“ nền Kinh tế/ Tài chánh/ Tiền tệ.
Từ đầu năm nay, Nhà nước VN coi Lạm phát là vấn đề hàng đầu phải khắc phục. Nhà nước đưa ra ào ào những biện pháp nhằm khống chế Lạm phát, trong đó Nghị Quyết 11 ký bởi Nguyễn Tấn Dũng nhằm thắt chặt Tiền tệ.
Nhìn những biện pháp này của Nhà nước, chúng tôi có hai nhận xét sau đây:
* Nhà nước có những Chuyên viên đã từng học tại các Đại học Aâu, Mỹ về Kinh tế Tự do và Thị trường, về Ngân Hàng Trung ương và nhiệm vụ điều hành Khối lượng lưu hành Tiền tệ để kềm chế Lạm phát. Họ đưa ra những biện pháp thắt chặt Tiền tệ học được tại Aâu, Mỹ với nền Kinh tế Tự do và Thị trường, nhưng lại áp dụng cho một nền Kinh tế độc tài định hướng XHCN tréo cẳng ngỗng. Những biện pháp rất trúng cho Aâu, Mỹ, nhưng lại ở một Cơ chế độc tài chính trị, độc đoán Kinh tế mà dân chúng cầm đồng tiền khôngh còn tin tưởng vào Nhà nước nữa. Vì vậy những biện pháp mà Nhà nước đưa ra, dân không tin tưởng và làm theo.
* Lạm phát xẩy ra từ hai nguồn ảnh hưởng chính, đó là từ (i) Lãnh vực Tiền tệ (Vốn) và từ (ii) Lãnh vực Hiệu năng Kinh tế thực. Những biện pháp mà Nhà nước Việt Nam đưa ra chỉ nhằm Lãnh vực Tiền tệ (Vốn), nghĩa là tìm mọi cách thắt chặt lại lượng Tiền (Vốn) lưu hành, mà không đưa ra hoặc bất lực đưa ra những biện phát làm tăng Hiệu năng (Efficacité/ Productivité) của các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh khi sử dụng Vốn. Thế nào là Hiệu năng sản xuất khi sử dụng một số vốn đầu tư? Hiệu năng được tính theo Lượng Hàng hóa/ Dịch vụ sản xuất trong một Thời gian nhất định khi sử dụng một Lượng vốn. Nếu Lượng Hàng hóa hay Dịch vụ sản xuất trong Thời gian nhất định giảm đi khi sử dụng cùng Lượng vốn, tất nhiên Lạm phát tự động sinh ra. Cụ thể, các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh do đảng nắm, mà người của đảng chỉ lo cắt xén ăn bẩn, chứ không chịu khó làm việc để tăng hiệu năng. Hàng sản xuất ít đi thì tương đương hàng hóa sánh với lượng tiền cũng ít đi, đó là định nghgĩa của Lạm phát. Lục đục cá đối bằng đầu, Nguyễn Tấn Dũng không dám sửa sai những Tổng Giám đốc Tập đoàn Nhà nước, và do đó không thể tăng hiệu năng sản xuất.
Chính vì nhìn những biện pháp mà Nhà nước đưa ra có tính cách phiến diện như vậy mà chúng tôi đã viết liên tiếp 4 Bài dài phân tích để cuối cùng Kết luận rằng nếu Cơ chế CSVN hiện hành còn tồn tại, thì không thể nào kềm chế được Lạm phát. Và liều thuốc chữa trị đúng căn nguyên của Lạm phát là phải Dứt bỏ chính cái Cơ chế CSVN hiện hành để Dân chủ hóa Kinh tế.
Những biện pháp thắt chặt Tiền tệ (Vốn)
Và Ngân Hàng Nhà Nước VN tự thú thất bại
Để điều chỉnh lượng Tiền (Vốn) lưu hành trong Kinh tế, quyền lực Chính trị không thể mang súng dí vào gáy dân, bắt họ đem Tiền bỏ vào Ngân Hàng. Ở những nền Kinh tế Tự do và Thị trường, phải dùng Lợi nhuận để nhử mồi đối với những kẻ cầm Tiền (Vốn). Lợi nhuận ấy tuỳ thuộc vào việc lên xuống của cái Giá vay mượn Vốn, tức là Lãi suất. Ngân Hàng Trung ương (Ngân Hàng Quốc gia) có quyền quyết định trên Lãi suất chỉ đạo nhằm điều chỉnh lượng Tiền (Vốn) lưu hành trong nền Kinh tế. Khi tăng giảm Lãi suất, thì lượng CUNG, CẦU Tiền (Vốn) cũng theo đó mà giảm hoặc tăng.
Khi hạ Lãi suất chỉ đạo xuống, thì dân chúng thấy không có Lợi mang Tiền đến Ngân Hàng để gửi, nghĩa là lượng Tiền (Vốn) trong dân gian lưu hành dồi dào. Đồng thời các Công ty thấy Giá thuê vốn rẻ, thì dễ dàng thuê Vốn để kinh doanh. Tỉ dụ trong thời gian Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế Thế giới vừa qua, nền Kinh tế mọi nơi thấy thiếu vốn để kinh doanh. Các Ngân Hàng Trung ương lần lượt hạ thấp Lãi suất chỉ đạo để lượng vốn lưu hành được dồi dào và cổ võ các Công ty vay vốn rẻ để kinh doanh.
Khi tăng Lãi suất chỉ đạo, Ngân Hàng Trung ương muốn rút lại lượng Tiền (Vốn) đang lưu hành quá mức làm tăng Lạm phát. Khi Giá vốn lên cao, dân chúng thấy có Lợi nhuận cao khi mang Tiền gửi vào Ngân Hàng. Đồng thời các Công ty thấy Giá vốn quá cao, nên không vay vốn để kinh doanh nữa khiến lượng vốn lưu hành giảm đi. Đây là nguyên tắc điều chỉnh lượng vốn ở những nền Kinh tế Tự do và Thị trường đích thực.
Những biện pháp khống chế Lạm phát mà Nhà nước VN đưa ra trong những tháng gần đây quy tụ vào việc thắt chặt Tiền tệ (Vốn) bằngh tăng Lãi suất chỉ đạo lên rất cao.
Thực vậy, trước khi Lạm phát tăng phi mã, Nhà nước đã đổ dồi dào Tiền chùa ra cho các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh. Có dồi dào vốn để lưu hành, đó là nguồn Lạm phát thứ nhất. Các Tập đoàn này tiêu xài tiền chùa, mà hiệu năng sản xuất lại yếu kém, đó là nguồn Lạm phát thứ hai.
Khi quyết định tăng Lãi suất lên cao, Ngân Hàng muốn thắt chặt lại lượng vốn lưu hành. Đồng thời đây cũng là biện pháp chiêu dụ dân chúng mang Tiền (Vốn) gửi vào Ngân Hàng. Nếu biện pháp thắt chặt Tiền tệ (Vốn) này đúngh tại các nên Kinh tế Tự do và Thị trường Aâu, Mỹ, thì biện pháp dùng Lãi suất cao để thắt chặt Tiền tệ (Vốn) lại rất khó áp dụng cho nền Kinh tế độc tài Chính trị và độc quyền Kinh tế định hướng XHCN vì những lý do sau đây:
* Dân chúng không tin tưởng vào Ngân Hàng của Nhà nước độc tài từ Chính trị đến Kinh tế, Tiền tệ. Dù thấy có Lợi cao do Lãi suất cao, nhưng dân chúng không muốn giao Tiền cho một Nhà nước độc tài Tiền tệ có thể phá giá chính đồng bạc. Được Lợi nhuận cao, nhưng nếu đồng bạc bị phá giá để mình mất tiền, thì Lợi nhuận kia chưa chắc bù lại được việc mất mát do phá giá đồng bạc.
* Các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh dửng dưng với việc có vốn dồi dào hay thiếu vốn. Nếu thiếu vốn vì thắt chặt tiền tệ màTập đoàn phá sản, thì đó cũng là Nhà nước phá sản chứ không phải Công ty tư riêng của họ. Có tiền thì làm việc, không có vốn thì ngồi chơi mà vẫn xơi nước.
Trong những tháng trường áp dụng những biện pháp thắt chặt vốn bằng tăng cao Lãi suất, Nhà nước thấy không những không kềm chế nổi Lạm phát, mà còn phải chứng kiến tình trạng Lạm phát càng tăng lên, thậm chí tới mức cao nhất Thề giới 20.82%
Bản Tin Bloomnberg 08.07.2011 viết như sau:
“Vietnam raised borrowing costs every month this year through May, pushing market lending rates to more than 20 percent and slowing economic growth.”
“Tightening too much is self defeating,” said Alan Pham, chief economist at VinaCapital Investment Management Ltd. “Many businesses are cutting back production, lowering supply of goods which can cause inflation.”
“Some commercial banks in Vietnam has charged clients an interest rate of as much as 27 percent, the newspaper Dau Tu reported June 30. Surging borrowing costs forced about 30 percent of the companies in Vietnam to close factories or postpone production.”
(Vietnam đã tăng những chi phí vay vốn lên cao mỗi tháng trong năm nay đến tháng Năm, đẩy Lãi suất cho vay vốn trên Thị trường lên trên 20% và như vậy làm hạ xuống Độ phát triển Kinh tế.
Thắt chặt quá đáng Tiền tệ tức là tự thối lui, ông Alan Pham, Kinh tế gia trưởng của VinaCapital Investment Management Ltd. nói như vậy. Nhiều tổ chức kinh doanh cắt giảm sản xuất, hạ xuống việc cung cấp hàng hóa, đó là những lý do tạo lạm phát.
“Một số những Ngân Hàng Thương mại Việt Nam đã bắt ép khách hàng chịu lãi suất lên tới 27%, báo Dau Tu đã tường thuật như vậy. Chi phí thuê vốn cao đã ép buộc khoảng 30% những Công ty ở Việt Nam phải đóng cửa hoặc hoãn lại việc sản xuất về sau.)
Ngày 04.07.2011, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam quyết định hạ Lãi suất chỉ đạo xuống 1 điểm, nghĩa là từ 15% xuống 14%. Việc tự động hạ Lãi suất chỉ đạo này của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam là việc TỰ THÚ thất bại của biện pháp thắt chặt Tiền tệ (Vốn) bằng tăng Lãi suất chỉ đạo mà CSVN tin là có thể khống chế Lạm phát, vấn đề quan trong hàng đầu của Cơ chế.
CREDIT SUISSE tiên đoán Lạm phát
sẽ tăng vọt trong năm 2012
Nhà nước CSVN sống trong thế lưỡng nan: lực chọn ổn định Kinh tế bằng kềm chế Lạm phát hay lựa chọn tăng Độ phát triển với nguy hiểm Lạm phát.
Bản Tin Bloomberg 08-07-2011 viết:
“The decision reflects the government’s long-standing bias in favor of growth over stability, which caused the current high inflation and trade deficits in the first place.”
(Quyết định phản ánh khuynh hương của Chính quyền nghiêng về độ tăng Kinh tế hơn là ổn định định, điều đã gây ra lạm phát cao và thâm thụt thương mại.)
Nếu cứ giữ Lãi suất chỉ đạo cao, thì Nhà nước lo sợ tình trạng thiếu vốn kinh doanh làm thụt lùi Độ phát triển Kinh tế và phá sản các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh. Nhận định về việc cắt giảm Lãi suất ngày 04.07.2011, CREDIT SUISSE tiên đoán việc Lạm phát sẽ tăng vọt trong năm 2012:
“The State Bank of Vietnam said it lowered the rate to 14 percent from 15 percent effective today, according to an e- mailed statement.”
“The State Bank of Vietnam on July 4 lowered its repurchase rate to 14 percent from 15 percent.”
“Vietnamese inflation will be higher next year than previously forecast as a result of a central bank rate cut this week that was “premature” and may confuse investors, Credit Suisse Group AG (CSGN) said.”
(Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam tuyên bố hạ Lãi suất xuống 14% từ 15% có hiệu lực từ ngày hôm nay, theo khẳng định trong một E-mail.
Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã hạ Lãi suất vào ngày 04.07 từ 15% xuống 14%.
Lạm phát Việt Nam sẽ tăng cao hơn nữa so với ước tính trước đây do hậy quả của việc hạ Lãi suất của ngân hàng trung ương tuần này, việc này được coi như “sinh non“ và có thể làm hỗn loạn những người đầu tư, Credit Suisse Group (CSGN) đã tuyên bố như vậy)
CREDIT SUISSE nhận định chính yếu về Lãnh vực nới rộng lưu hành Tiền tệ (Vốn) như hậu quả của việc cắt giảm Lãi suất chỉ đạo làm cho Lạm phát hiện hành đã ở mức 20.82% sẽ tăng thêm cao hơn nữa trong năm 2012.
Tuy nhiên, nếu nghĩ đến trường hợp tụt giảm Độ phát triển Kinh tế và phá sản Hiệu năng của các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh, thì hậu quả vẫn là làm Lạm phát tăng vọt trong năm 2012. Tăng vốn cho các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh để tránh phá sản mà Nhà nước bất lực không thể cải thiện Hiệu năng sản suất của các Tập đoàn này, thì vốn có dồn vào bao nhiêu cũng như gió thổi vào nhà trống.
Tăng Lãi suất để thắt chặt Tiền tệ (Vốn), lạm phát vẫn tăng. Giảm Lãi suất để thả vốn ra, Lạm phát càng tăng. Điều quan trọng là có cải thiện được Hiệu năng sản xuất của những Tập đoàn quốc doanh hay không. Việc bất lực cải thiện Hiệu năng là do Cơ chế Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế để Tham nhũng Lãnh phí hoành hành, để Tiền (Vốn) đổ vào những Tập đoàn quốc doanh như gió vào nhà trống.
Đôi lời Kết luận
Như chúng tôi đã viết nhiều về tình trạng tụt dốc Kinh tế của CSVN hiện hành, Lạm phát càng ngày càng tăng làm đại đa số quần chúng phải rơi vào cùng cực. Lạm phát càng tăng thì dân chúng sẽ bị đẩy vào phẫn nộ và NỔI DẬY đấu tranh cho quyền sống của mình. Đây là cái đại họa thứ nhất vì lý do tụt dốc Kinh tế mà CSVN không thể cứu vãn.
Họa vô đơn chí ! cái đại họa thứ hai đang giáng trên đầu CSVN, đó là việc xâm lăng Hải đảo và những vùng biên vây quanh tại Biển Đông do Trung quốc khăng khăng thực hiện. Chính Trung quốc nêu ra Công Hàm bán nước Phạm Văn Đồng/ Hồ Chí Minh để dân chúng cuối cùng không thể tha CSVN về cái tội bán đất và biển của tổ tiên.
Câu Kết luận của của chúng tôi vẫn là phải DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH để Dân chủ hóa Kinh tế, để thực hiện đúng nguyên tắc tối sơ của Kinh tế tư hữu tư doanh: “Làm Tiền đã khó, mà tiêu Tiền còn khó hơn !”. Tiêu tiền theo nghĩa Kinh tế là phải nghĩ đến cố gắng làm việc cho có hiệu năng để khi tiêu một đồng phải nghĩ đến thu vào hơn một đồng. Nếu không thu vào được hơn một đồng, thì đừng tiêu đồng bạc mình đang có.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Ngày 09.07.2011
Web: http://VietTUDAN.net