Giởi Thiệu Tác Phẩm: VIỆT NAM THỜI LẬP QUỐC 1& 2 Của sử gia PHẠM TRẦN ANH.

Giởi Thiệu Tác Phẩm: VIỆT NAM THỜI LẬP QUỐC 1& 2

Của sử gia PHẠM TRẦN ANH.

Chu Tấn

I- LỜI MỞ: Sau khi đã xuất bản 7 tác phẩm về nhiều thể loại: Nghiên cứu sử, Văn hóa, Cách mạng, Thơ Văn trong tù, tác giả Phạm Trần Anh dự định viết Bộ Sử Mới Việt Nam gồm nhiều cuốn, qua các thời kỳ:

-Việt Nam thời Lập Quốc

-Việt Nam thời Vong Quốc

-Việt Nam thời Độc Lập

-Việt Nam thời Ý Thức Hệ

Trong dự định trên, và hôm nay Chu Tấn tôi được hân hạnh lên đây giới thiệu VIỆT NAM THỜI LẬP QUỐC 1 & 2 của sử gia Phạm Trần Anh.

Trong bài giới thiệu này chúng tôi xin đề cập đến:

v Nội  Dung Tác Phẩm (Cuốn 1 & cuốn 2)

v Những khó khăn chung của các sử gia khi viết về Việt Nam Thời Lập Quốc.

v Sử Gia Phạm Trần Anh đã phải đối diện và giải quyết những khó khăn, vấn nạn đó như thế nào?

v Những điểm son trong tác phẩm Việt Nam Thời Lập Quốc 1& 2 của Phạm Trần Anh.

 

 

I I- NỘI DUNG TÁC PHẨM:

 

Trong VNTLQ, cuốn 1 sách dầy  372 trang, gồm 5 chương:

 

CHƯƠNG MỘT:Việt Nam

 

– Đất nước Việt Nam.

– Dân Tộc Việt Nam.

 

CHƯƠNG HAI:  Khởi Nguyên Dân Tộc.

            CHƯƠNG BA: Lịch Sử Tiến Hóa Thời Đại Hùng Vương.

 

-Nền Văn Hóa Hòa Bình.

-Nền Văn hóa Bắc Sơn

-Nền Văn hóa Phùng Nguyên.

– Nền Văn Hóa Đông Sơn.

– Nền văn hóa Sa Huỳnh.

– Nền Văn hóa Óc Eo.

 

CHƯƠNG BỐN: Tiến Trình Lịch Sử Việt Nam.

 

– Người Tiền Việt Hoabinhian Protoviets.

 

CHƯƠNG NĂM :Cội nguồn Việt Tộc.

– Thư tịch cổ Trung Hoa.

– Văn hóa Khảo Cổ.

– Huỵết Học

– Khảo Tiền Sử..

– Kết qủa Mã Di truyền DNA.

–  Đại Dương Học

 

CHƯƠNG SÁU: Thời Đại Hùng Vương.

 

-Quốc Gia Xích Qui.

– Quốc Gia Văn Lang.

 

Trong Cuốn 2 VNTLQ sách dầy 310 trang gồm các chương chính sau:

CHƯƠNG BẨY: Xã hội Hùng Vương

 

–  Kinh tế thời Hùng Vương

–  Đặc Trưng Văn Hóa Việt

–  Văn Hóa Thời Hùng Vương.

–  Tiếng Việt cổ thời Hùng Vương.

–   Văn học nghệt thuật thời Hùng Vương.

 

CHƯƠNG TÁM:  Đời Sống Tâm Linh người Việt cổ

CHƯƠNG CHÍN:  Hán Tộc Xâm lược.

 

-Tộc Thương xâm lược.

-Triều Ân xâm lược.

– Triều Chu xâm lược.

– Triều Tần

 

CHƯƠNG MƯỜI: Quốc Gia Âu Lạc.

 

CHƯƠNG MƯỜI MỘT: Quốc Gia Nam Việt

 

-Triệu Vũ Đế  dựng nước Nam Việt

– Hán tộc xâm lược.Nam Việt tiêu vong

 

CHƯƠNG MƯỜI HAI: Trưng Nữ Vương.

–        Bà Trưng Khởi Nghĩa

–        Quốc Gia Hùng Lạc

–        Số phận Mã Viện và cây trụ đồng huyền thoại.

III-NHỮNG KHÓ KHĂN CHUNG CỦA CÁC SỬ GIA KHI VIẾT VỀ VIỆT NAM

THỜI LẬP QUỐC.

Không  riêng gì sử gia Phạm Trần Anh mà nói chung tất cả  các sử gia khi viết về Việt Nam Thời Lập Quốc đều gặp những khó khăn trở ngại phần vì thời kỳ Lập Quốc cách đây mấy ngàn năm, lúc đó VN chưa có sử hay đúng hơn không có sử, nhưng lại có cả một kho tàng huyền thoại như huyền thoại Họ HồngBàng, huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương,chuyện Chử ĐồngTử, chuyện Mỵ Nương- TrọngThủy,chuyện Tiết Liêu,chuyện  Sơn Tinh Thủy  Tinh, vv… Những chuyện này ít nhiều đều có liên quan đến thời đại Hùng Vương với 18 vị Vua?  Tưu chung, những khó khăn trở ngại lớn nhất  xoay quanh “Truyền thuyết Họ Hồng Bang”  và “ Thời Kỳ Hùng Vương” có thật hay không có thật trong lịch sử?

Như mọi ngừoi chúng ta đều  biết Việt Nam có 4 ngàn năm Văn Hiến, nhưng mãi đến năm 1272 (thế  kỷ thứ 13 thời nhà Trần) bộ Đại Việt Sử Ký  do sử gia Lê Văn Hưu phụng soạn theo lênh Vua Trần mới ra đời.Trong bô sử qui mô đầu tiên này, sử gia Lê Văn Hưu bắt đầu quốc sử từ đời Triệu Đà năm 207  TTL) và không viết gì về Thời đại Hùng Vương. Chúng ta phải đợi đến Thời Lê, sử gia Ngô Sĩ Liên khi viết bộ sử “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư: năm 1479 (thế kỷ thứ 15) mới chép sử nước ta  bắt đầu từ truyền thuyết Hồng Bàng với thời Đại Vua HùngVương . Bộ sử này  gồm 2 phần:Ngoại Kỷ (5 quyển) chép từ họ Hồng Bàng  (Hồng Bàng Thị) đến hết thời Bắc thuộc (938) và Bản kỷ chép từ Ngô Quyền đến Lê Thái Tổ lên ngôi (1428) .Chúng ta lưu ý sử gia Ngô Sĩ Liên chép chuyện Hồng Bang vào phần đầu gọi là “Ngoại Kỷ” có ý chưa xác thực 100% hay ít ra cũng cón chỗ nghi ngờ, khác với phần Bản Kỷ được  coi như là Chính Sử.) Dù vậy, ngày nay chúng ta phải cám ơn sử gia Ngô Sĩ Liên đã đưa câu chuyện Hồng Bàng và triều đại Hùng Vương mở đầu cho dòng lịch sử  của dân tộc Việt ..Câu chuyện Họ Hồng Bàng được chép như sau: “Tục truyền rằng cháu ba đời của Vua Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh,sinh ra Đế Nghi.Đế Minh đi xuống phương Nam tuần tra,đến vùng Ngũ Lĩnh, nằm về phía nam nước Trung Hoa, kết hôn cùng Tiên Nữ sinh ra Lộc Tục, một ngừời có thánh đức. Đế Minh muốn truyền ngôi, nhưng lộc Tục lại nhường cho anh, nên Đế Minh cho con trai trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và con thứ là Lộc Tục làm vua phương Nam năm Nhâm Tuất (2879 TDL) đế hiệu là Kinh Dương Vương lấy họ Hồng Bàng, đặt quốc hiệu là Xích Qủy.Vương lập gia đình với con gái Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Sùng Lãm. Sùng lãm nối nghiệp cha lên làm vua tức Lạc long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ sinh ra môt bọc trăm trứng đã nở ra 100 người con trai.Đay là tổ của Bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân  bàn với Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên,thủy hỏa khác nhau, chung hơp thật khó .Hai bên từ biệt nhau,chia 50 con theo mẹ về núi,50 con theo cha về miền Biển (Thủy Phủ) Trước khi từ giã, Bố Rồng dặn rằng: “Khi có việc khẩn cấp  kêu ta ta về ngay”  50 ngừời con theo mẹ lên núi suy phù ngừời con Trưởng lên làm vua, đặt tên nước là Văn Lang .Vua Hùng chia nước ra làm 15 bô, gồm có Giao Chỉ, Chu Diên,Vũ Ninh, Phúc lộc,Việt Thường,Ninh Hải, DươngTuyền, Lục Hải,Vũ Định,Hải Hoàn,Cửu Chân,

Bình Văn,Tân Hưng,Củu Đức, và Văn Lang,Vua chọn Phong Châu làm Kinh Đô.Vua đặt quan Văn là Lạc Hầu,tướng võ là Lạc Tướng, con trai gọi là Quan Lang, con gái là Mỵ Nương, cha truyền con nối được Mười Tám đời. Bờ cõi nước Văn Lang, phía Bắc giáp hồ Động Đình,(tỉnh Hồ Nam Trung quôc bây giờ) phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) phía Đông giáp bể Nam Hải phía tây giáp Ba Thục, Tứ Xuyên.

Từ khi sử gia Ngô Sĩ Liên đưa câu chuyện Họ Hồng Bàng và Thời Đại Hùng Vương mở đầu quốc sử Việt tới nay có một số ngừời nghi ngờ hay chống đối, gây ra nhiều tranh cãi tốn khá nhiều thời gian và bút mục và vẫn chưa đi dến một kết thúc sáng tỏ nào ….

  • Về sự hoài nghi chống đối xoay quanh câu chuyện Họ Hồng Bàng (Con Rồng Cháu Tiên) :Có thể chia ra làm 5 phái:
    1. Phái công nhận chuyên Hồng Bàng và  tin tưởng Thời Đại Hùng Vương là có thực  (Phái này gồm đai đa số  ngừời kể cả trí thức và quần chúng nhân dân Việt Nam)
    2. Phái nghi ngờ thậm chí chống đối: tiêu biểu như Vua Tự Đức đã phê bình chuyện Hồng Bàng là “ma trâu thần rắn”,và học giả Ngô Thời Sỹ cũng  tỏ ý hoài nghi hay như  học giả Nhượng Tống  (tức Hoàng Phạm Trân) cho chuyện Hồng Bàng là “Đâu cua tai ếch” cũng như gần đây linh mục sử gia Nguyễn Phương  công khai chối bỏ chuyện Hồng Bàng và thời đại Hùng Vương .
    3. Phái Tồn nghi: Sử gia Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam Sử Lược vẫn chép câu chuyện Hồng Bàng và thời đại Hùng Vương nhưng sau đó nêu ra nhận xét “Xét từ đởi Kinh Dương Vương, đến đời Hùng vương thứ 18 cả thảy 20 ông vua,mà tính từ năm nhâm tuất (2879) đến năm qúy mão (258 TDL)thì vừa được 2622 năm. Tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm! Dẫu là người đời thượng cổ đi chăng nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều ngưới sống lâu được như vậy.Xem thế thì đủ biết chuyện Hồng Bang không chắc là chuyện có thực” !
    4. Phái triết trung:  Tiêu biểu là sử gia Trần Gia Phụng: Trong Cuốn Việt Sử Đai  Cương cuốn 1- Lập Quốc,sử gia cho rằng:“Đứng về phương diện khoa học thực nghiệm, truyền thuyết Hùng Vương thiếu những chứng lý xác thực để được xem là lịch sử dân tộc.Tuy nhiên không thể đơn thuần thẩm dịnh giá trị  huyền thoại Hùng Vương  bằng khoa học thực nghiệm  mà phải chú ý đến giá trị quan trọng của chính  huyền thoại….. và ông đi dến kết luận sau cùng: Trong lịch sử nước ta huyền thoại Hùng Vương là mẫu số chung cho tất cả dân Việt ,thể hiện bản sắc và Quốc Thống dân tộc Việt….Huyền thoại Hùng Vương hoặc huyền thoại “con Rồng cháu Tiên” dù đi xa sư thực lịch sử,vẫn luon luôn rất cần thiết để nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết dân tộc, niềm hào khí Việt Nam.Chính nhờ niềm hào khí này mà biết bao thế hệ tổ tiên chúng ta đã hy sinh tranh đấu để đất nước được tồn tại cho đến ngày nay..Vấn đề là người Việt Nam chúng ta phải làm gì để xứng đáng với niềm tự hào của huyền thoại thiêng liêng đó.
    5. Phái  Sử gia Cộng sản: Phái này tuy ra sức chứng minh Thời Đại Hùng Vương là Có Thật  nhằm đông viên tinh thần yêu nước của đồng bào tích cực  “chống Mỹ cứu nước”Nhưng vì sợ đụng đến quan thày Trung Cộng nên niên đại Thời Hùng Vương thay vì có trước 2000 năm TDL) rút xuống  còn gần  700 TDL, như vậy VN không còn 4 ngàn năm Văn Hiến mà còn trên 2 ngàn năm Văn Hiến.Đó là rút ngắn về niên đại Hùng Vương.Còn về bờ cõi Nước Văn Lang cũng sơ “bị đụng với quan thày Trrung Cộng” nên chỉ nói cương vực nước Văn Lang giới hạn trong vòng Vịnh Bắc Việt hoặc lên tới Quảng Đông Quảng Tây là cùng !! Điều này hoàn toàn khác hẳn với truyền thuyết Hồng Bàng  nói cương vực nước Văn Lang Bắc giáp hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) Đông giáp biển Nam Hải và tây giáp Ba Thục !!Thực ra không phải các sử gia CS muốn viết như trên mà vì họ buộc phải viết theo Nghị Quyết của Đảng C.S mà ra nông nỗi!!  Điều đau lòng này đã sẩy ra nên Phan Huy Lê viện trưởng viện sử học gần đây đã viết: “Viết sử theo nghị quyết của Đảng thì lịch sử không còn là lịch sử nữa”. Chính vì viết sử theo nghị quyết nên sử gia Đào Duy Anh trước khi chết đã phải cay đắng thốt  lên “Ngừoi ta biết tôi cũng vì lịch sử và kết án tôi cũng vì lịch sử”
  • Nhũng vấn nạn về Thời Đại Hùng Vương:

Ngoài ra câu chuyện Họ Hồng Bang, cũng gắn liền với Thời Đại HùngVương  nên lại đặt ra  những câu hỏi hay những vấn nạn sau đây cho các sử gia :

  1. Câu chuyện họ Hồng Bàng dứới ánh sáng khoa học có kỳ quặc phi lý không? Có thể chấp nhận được không? Câu chuyện này muốn nói lên triết lý sâu xa nào?
  2. Ai đã sáng tạo ra Kinh Dịch? hay nói khác đi Kinh Dịch là do tổ tiên ta sáng tạo ra hay  của Tầu?
  3. Có hay không có một thời đại Hùng Vương trong lịch sử Việt?
  4. Nếu có, thì Nước Văn Lang có từ thời nào? Có thể xác định được niên đại thời Hùng Vương hay không??
  5. Bờ cõi nước Văn Lang rộng hẹp như thế nào? Có gì là bằng chứng.?
  6. Nguồn gốc Dân Tộc Việt Nam như thế nào? Do ngừời bản điạ hay từ đâu tới ? do lai Tầu mà ra ? hay do nguồn gốc Mã Lai  như cuốn sách “Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam? của học giả Bình Nguyên Lộc đã viết?
  7. Nước Việt Nam có thực là có 4 ngàn năm Văn Hiến hay không? Hay đây chỉ là sản phẩm của “lòng tự ái” hay “kiêu hãnh dân tộc rởm” mà ra??
  8. Nếu đã có  một nước Văn Lang từ mấy ngàn năm về trước thì tình trạng  Chính trị, Tôn giáo, Văn Hóa,  Kinh Tế , Chủng tộc,Ngôn ngũ, thời đó ra sao?? v.v và v.v….

Trên đây là những trở ngại, khó khăn chính mà bất cứ sử gia nào muốn viết về Thời Lập Quốc của Việt Nam đều phải đương đầu phải thử thách để vượt qua! Do dó sử gia phải suy tư rất kỹ, phải có tâm thức Việt, phải có con mắt triết và phải tìm tòi tài liệu thật nhiều, có thể nói là “tử công phu” hay có “đai duyên về sử” mới bắt gặp được những tài liệu “qúy giá hơn vàng ngọc” hầu có thể giải đáp thỏa đáng các câu hỏi “hóc búa” kể trên.

 

IV SỬ GIA PHẠM TRẦN ANH PHẢI ĐỐI DIỆN VÀ GIẢI QUYẾT NHỮNG KH1Ó KHĂN TRỞ NGẠI ĐÓ NHƯ THẾ NÀO?

  • Trước hết về câu chuyện Hồng Bàng:Tại sao lại có chuyện người đẻ ra trứng? rồi trứng lại nở ra người? Rồi bố Rồng lại chia tay với mẹ Tiên? Và lại hứa có việc khẩn cấp gọi Ta, ta về ngay? Thời xưa phương tiện di chuyển rất khó khăn, và phương tiện truyền thông  cũng đâu có tân tiến như bây giờ thì làm sao có việc khó khăn nguy cấp gọi Ta ta về ngay? Rồi số tuổi của mỗi vị vua đều sống tới 150 tuổi thì có tin được không?? Sử gia Phạm Trần Anh đã trả lời chúng ta như sau: Nếu suy nghĩ về Huyền thoại Hồng Bàng hay “Con Rồng cháu Tiên” theo nếp nghĩ “khoa học thực nghiệm” thì câu chuyệ này quả là huyền hoặc phi lý không thể chấp nhân được.Nhưng nếu chúng ta hiểu rõ bản chất của huyền thoại không thuộc về khoa học thực nghiệm mà thuộc về “khoa học nhân văn” thì chúng ta sẽ có suy nghĩ và cách nhìn mới lạ hẳn. Sử gia PTA cũng lưu ý chúng ta hiện nay tại Âu Mỹ ngừời ta rất coi trọng các chuyện huyền thoại của các dân tộc – tuy nó là sản phẩm của tưởng tượng – mà đã là tưởng tượng tất nhiên không có thực – vậy không đặt vấn đề thực hay giả trong huyền thoại mà vấn đề chính tìm xem trong câu chuyện huyền thoại  của  Dân Tộc Việt Nam ẩn tàng một triết lý, một thông điệp sâu xa cao đẹp nào? Đây mới là cách nghĩ cách nhìn đúng về huyền thoại Tiên Rồng của Dân Tộc Việt Nam..Theo PTA “Mỗi dân tộc đều có những truyền thuyết độc đáo mang sắc thái đặc thù biểu trưng riêng của dân tộc đó,  ngay cả những dân tộc mà ngày nay được xem là văn minh cũng đều có một con vật biểu trưng cho dòng giống như Ấn Độ là voi, Tàu là con cọp, Pháp là con gà trống Gaulois, Anh là con sư tử, Mỹ là con chim Ưng (đại bàng) nên Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ lấy chim đại bàng và Pháp lấy con gà làm quốc huy cho cả nước. Theo cơ cấu luận thì Sử ký là sử hàng ngang ghi chép các biến cố, các sự kiện cụ thể với những con người cụ thể theo năm tháng, còn Huyền sử được gọi là Sử hàng dọc mang tính tâm linh, xoay quanh những tác động lý tưởng biểu thị bằng những hình tượng nguyên sơ giàu phổ biến tính. Những hình tượng này tiềm ẩn trong đời sống tâm linh của một dân tộc như trong huyền sử Rồng Tiên thì Âu Cơ chỉ là hình tượng nguyên sơ. Mẹ Âu Cơ là chi tộc thờ chim của Việt tộc nên việc mẹ đẻ ra một cái bọc trăm  trứng là chuyện bình thường cũng như cái bọc không chỉ nói về cái bọc mà nó biểu trưng cho ý nghĩa của 2 chữ đồng bào cùng chung một bào thai của mẹ Âu Cơ. Huyền sử nói trăm con không nhất thiết phải là một trăm mà hàm ý số nhiều và quan trọng nhất là thư tịch cổ Trung Hoa chép về cộng đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật lịch sử của huyền thoại mà ta cứ tưởng là huyền hoặc hoang đường…(trích VNTLQ trang 90) … “Thật vậy Laurens va de Post đã xem huyền thoại là di sản thiêng liêng nhất vì nó diễn tả tinh thần dân tộc ở mức độ cao nhất. Micia Eliado cũng cho rằng “Huyền thoại là gia sản quí báu nhất vì tính chất thiêng liêng điển hình và mang lại ý nghĩa sống cho cả một dân tộc”. Lịch sử đã chứng minh nhận định của Karl Jung là “Dân tộc nào quên đi huyền thoại thì dân tộc đó dù là những dân tộc văn minh nhất sớm muộn cũng sẽ tiêu vong”.(VNTLQ trang 91) như trên chúng ta đã thấy mỗi dân tộc đều có một con vật tượng trưng  như “Gà trống” Pháp. “Voi” Ấn độ….Vậy dân Tộc VN lấy biểu tượng kép là “Rồng và Tiên” là điều rất hay rất đẹp và rất lạ nữa. Không những thế Bọc mẹ trăm con còn chứa đựng cả một kho tàng triết lý chứ không phải một triết lý mà thôi…(1) Bọc  mẹ trăm con Tiên Rồng  nói lên triết lý “Bình đẳng tột cùng và  thân thương tột cùng” (2) Bọc mẹ trăm con nói lên triết lý “Đại Đồng trong tiểu dị (3) Nói lên Nguyên lý Mẹ  (4) Bọc mẹ  trăm con Tiên Rồng còn nói lên hai sức mạnh chi phối vũ trụ là Âm và Dương. Hai sức mạnh này tuy mâu thuẫn nhau như nước và lửa -nhưng lại tương sinh tương hòa với nhau (Nhờ nước và lửa chúng ta mới nầu được nồi cơm chín để nuôi ta, gia đình và nhân loại). Đây là bài học rất lớn nếu chúng biết luật mâu thuẫn- gọi là biết 1 và biết khắc chế mâu thuẫn gọi là biết 2 và điều hòa mâu thuẫn gọi là biết 3, biết kết sinh mâu thuẫn gọi là biết 4 biết  kết  tinh mâu thuẫn gọi là biết 5, biết thăng hoa mâu thuẫn gọi là biết 6; biết “phân thân hiệp nhất” gọi là biết 7, biết bản thể vốn  “ở đây và bây giờ” là biết 8 ; biệt vượt mình- đại thức tỉnh để vượt mình là biết 9 v.v…Huyền thoại Hồng Bàng hay Triết lý Tiên Rồng hay và kỳ diệu,vô cùng kỳ diệu như trên, mà chúng ta lại phản đối, chống đối  hay không chấp nhận hay sao??
  • Cũng có một số ngừời gần đây không nghiên cứu kỹ về Huyền Thoại Tiên Rồng thấy sự tích chia con 50 con theo mẹ lên Núi, 50 con theo cha xuống biển thì vôi la lên rằng: “Thấy chưa thời Tổ Phụ và Tổ mẫu Lạc Long Quân & Âu Cơ đã có sự  ly thân ly dị rồi! Nên bây giờ Cộng đồng hải ngoại chúng ta có chia rẽ phân hóa cũng đừng lấy làm lạ vì chúng ta chỉ học “theo gương tổ phụ tổ mẫu đó thôi” ! Lối hiểu như vậy hoặc là cố tình “chế diễu” huyền thoại Tiên Rồng môt cách vô ý thức ! hoặc là hiểu sai huyền thoại Tiên Rồng từ căn bản! Chúng ta không thể đem chuyện  thông thường của thế gian để gán ghép cho lối hành xử của tổ phụ tổ mẫu với ẩn ý sâu xa trong huyền thoại Tiên Rồng…Nếu là “ly thân” hay “ly dị” thực thì  làm gì có chuyện “Nếu có việc nguy cấp gọi ta, ta về ngay” Đây chính là bài học thâm thúy  mà Tổ phụ muốn dạy cho chúng ta là phải biết vận dụng và phát huy  sức mạnh tối đa do tính chất  khác biệt  giũa  Âm và Dương nhưng trong âm có dương, trong Dương có âm  chỉ khác nhau là chỗ “Ẩn và Hiện” tuy xa mà gần tuy gần ma xa chứ có bao giờ xa cách nhau đâu! Bố Rồng muốn nói với Mẹ Âu “đừng hiểu theo nhi nữ thường tình” Điều quan trọng hơn nữa Bố Rồng và Mẹ Tiên tượng trưng cho nòi giống Việt  và nòi giống Việt là  gôm 2 chi lớn là Lạc Việt +Âu Việt  nằm trong bách Việt tộc đã trải qua  kinh nghiệm  mấy ngàn năm đau thương  là nòi giống bách việt luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm phương Bắc do Hán Tộc hung hãn muốn bành trướng ….  luôn luôn muốn xâm lăng và đồng hóa chúng ta .Trong trường kỳ lịch sử giống nòi bách Việt tộc  trước đây định cư chính tại vùng Hoa Nam rộng lớn (Miền Nam Trung Hoa)  đã bị quân Hán đánh chiếm và đồng hóa hầu hết, chỉ còn một vài chi  chạy xuống phía Nam và còn trụ lại tại Bình nguyên Sông Hồng là đất nước Việt Nam chúng ta  hiện nay, là còn đứng vững được một cách anh dũng và vẻ vang nhất .Rút tỉa từ bài học máu xương muôn đời đó Bố Rồng đã di huấn cho con cháu là  phải áp dung triết lý hay sách lược “Phân thân hợp nhất” 50 con ở lại “giữ đất” và 50 con có sứ mạng đi mở đất và  làm thế  “ỷ dốc”  cho nhau khi quốc biến. Đó cũng chính là huyền nghĩa trong lời di huấn của Bố Rồng: “Khi gặp nguy cấp, gọi ta ta về ngay” Nếu không có tâm thức Việt, nếu không có “con mắt triết” hay “con mắt Việt” thì làm sao khám phá ra hết những những huyền nghĩa qúy giá sâu thẳm trong huyền thoại Tiên Rồng.? Các thế hệ con cháu Tiên Rồng ơi, xin đừng hiểu huyền thoại trên bề mắt chữ nghĩa mà phụ tấm lòng thương yêu vô vàn của Bố Rồng Mẹ Tiên. Các con ơi ! các  con có hiểu? Và hiểu được  bao nhiêu ý sâu, huyền nghĩa  trong huyền thoại Tiên Rồng? Không những trước đây mà hiện nay giữa Quốc Nội và hải ngoại chúng ta cũng phải áp dụng sách lược “phân thân hợp nhất”  làm thế “ỷ dốc” trong ngoài, ,đại đoàn kết toàn dân mới chống được kể thù Nội xâm Việt Cộng và Ngoại Xâm Trung Cộng.(Xin nhớ rằng phải chống hai kẻ thù đó cùng một lúc, chứ không phải diệt xong  kể thù này rồi  mới thanh toán kẻ thù kia, thực tế cho biết rằng không thề phân chia chúng  dễ dàng và không giản dị như vậy đâu) mà muốn chống giặc “ Nội ngoại xâm” cùng một lúc  thì  phải Đại Doàn Kết  Toàn Dân “Bọc điều trăm họ thai chung-Đồng bào hai tiếng vô cùng Việt Nam (Thơ PTA) Nguyên chữ hai chữ “Đồng bào” đã là Đại Đoàn Kết Toàn Dân, đã là Hội Nghị Diên Hồng rồi.Chúng ta không chỉ Đại Đoàn Kết toàn dân Việt mà còn Đại Đoàn Kết liên minh với Đại Chủng Việt khắp Đông Nam Á và các chủng Việt hiện nay tại Hoa Nam nữa mới thắng được giặc  Ngoại Xâm Đại Hán Bắc Kinh.
  • Điều mà sử gia Trần Trọng Kim thắc mắc là tại sao thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm nếu chia đều cho 18 vị vua thì mỗi ông Vua thời Hùng Vương sống tới 150 năm và do đó hoài nghi là thời Hung Vương chưa chắc đã có thật ? Nay theo sự giải thích của sử gia Phạm Trần Anh: “ Gần đây, công trình nghiên cứu của Trần Huy Bá về “Hùng vương sự tích Ngọc Phả Cổ truyện” của Nguyễn Như Đỗ thời Lê Thánh Tôn cho thấy thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua.(11)  Theo bản “Hùng Vương Ngọc Phả” thì đời vua Chữ Hán là “Thế”, “Thế” không phải chỉ một đời người mà là một dòng vua gồm nhiều đời vua Mỗi dòng vua được xếp theo thứ tự bát quái và thập can như sau: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Theo sự tích Ngọc Phả thì thời Hùng Vương gồm cả thảy 47 đời vua” (VNTLQ trang 329-320).Rất tiếc sử gia Ngô Thời Sỹ cũng như sử gia Trần Trọng Kim khi tìm hiểu  về câu chuyện Hồng Bàng đã không có được tài liệu qúy hiếm này. Nếu bây giờ chúng ta đem chia 2622 năm cho 47 vị vua thì hơn bù kém mội vị vua khoảng 55 tuổi –và sẽ không còn là điều thắc mắc  hay đáng hoài nghi gì nữa..
  • Một câu hỏi khác khác, có phải Việt Nam có 4000 năm Văn Hiến hay không? Hay đó chỉ là sản phẩm của “lòng tự ái” dân tộc ? hay sự khoe khoang hãnh tiến rởm không có gì làm bằng cớ? Để trả lời câu hỏi này, nếu là cách đây 2, hay 3 thế kỷ về trứớc khi khoa “khảo cổ học” chưa tiến bộ ,chưa tìm ra cách tính tuổi bằng đo độ phóng xạ C14 thí câu hỏi trên còn là một vấn nạn , nhưng nay thì chúng ta có thể chứng minh một cách  rõ ràng: Theo các di chỉ khảo cổ khai quật tại tỉnh Hòa Bình Bắc Việt Nam được gọi là nền Văn Hóa Hòa Bình có độ tuổi từ 15.000 đến 10.000 năm trước đây ,tiếp đến nền Văn Hóa Bắc Sơn (tên huyện Bắc Sơn Tỉnh Lạng Sơn) có độ tuổi từ 10.000 đến 6000 năm cách ngày nay;Sau Bắc Sơn là nền Văn Hóa Phùng Nguyên phát hiện tại Phùng Nguyên  Lâm Thao Phú Thọ có độ tuổi khoảng 3 ngàn năm trước Dương Lịch và gần đây là nền Văn Hóa Đông Sơn (phát hiện tại một làng ở hữu ngạn sông Mã tỉnh Thanh Hóa) có độ tuổi khoảng 5 thế kỷ Trước Dương lịch đến thế kỷ thứ nhất sau Dương lịch. Xem thế chúng ta thấy Dân Tộc Việt Nam chúng ta có một lịch sử rất lâu đời. Vậy ông bà, tổ tiên ta nói nói  Việt Nam có 4 ngàn năm Văn Hiến không có gì là sai ngoa cả! Sử Gia Phạm Trần Anh trong Việt Nam Thời Lập Quốc xác nhận Việt nam có gần 5 ngàn năm Văn Hiến cũng là đúng, rất đúng với chân lý lịch sử vậy.
  • Ai là chủ nhân ông của Kinh Dịch? Trước Phạm Trần Anh, nhà Văn Hóa lớn Lý Đông A và tiếp theo là Linh mục triết gia Kim Định đều  đã lên tiếng : chính tổ tiên nòi giống Việt mới là chủ nhân ông của Kinh Dịch. Nay sử gia Phạm Trần Anh cũng tiếp tục nêu rõ và xiển dương chủ trương này là : chính Việt tộc kế thừa triết lý Âm Dương. Qua huyền thoại Hồng bàng hay  huyền thoại  cha Rồng mẹ Tiên chia 50 con theo mẹ lên núi và 50 con theo cha xuống biển đã nói ở trên, sử gia Phạm Trần Anh khẳng định : « Như vậy ngay từ thiên niên kỷ thứ 3 TDL, lời nói của bố Lạc một lần nữa đã chứng minh Việt tộc là người kế thừa sở đắc triết lý Âm Dương. Sự kiện bố Lạc phân chia bọc trăm trứng ra 2 bộ âm dương vừa tương sinh vừa tương khắc, tuy 2 mà lại là một. Lạc Long Quân (Dương) là Rồng ở dưới nước nên dẫn 50 con về về miền sông nước (âm) còn Âu Cơ là Tiên (âm) lại dẫn 50 con lên miền cao rừng núi (Dương) theo đúng nguyên lý Dịch là trong âm có dương, trong dương có âm, thể hiện “lý tương sinh tương khắc” tinh tuý cốt lõi của triết lý Đông phương. Sự thực trên đã minh nhiên khẳng định Việt tộc là người thừa kế triết thuyết Âm Dương Dịch biến luận khởi từ Phục Hi tới Thần Nông tức Đế Thần của Việt tộc. …Sự thật lịch sử này được thừa nhận bởi chính lịch sử Trung Hoa cổ đại. Sách “Kinh Thư” trong phần mở đầu chỉ đề cập đến Nhị Hoàng là Phục Hy, Thần Nông và Ngũ Đế là Đế Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Việc Kinh Dịch chọn 2 quẻ dành cho 2 con vật Rồng chim (Tiên) linh thiêng, vật tổ biểu trưng của Việt tộc đã minh nhiên xác định nguồn gốc xuất xứ của Kinh Dịch. Đến đời Chu, Chu văn Vương tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Việt rồi biến cải thành Chu Dịch thiên về bói toán chứ không phải là tinh hoa triết lý Âm Dương Dịch biến luận thể hiện nhân sinh vũ trụ quan của Việt tộc.
  • Tới đây một vấn nạn quan trọng khác đòi hỏi sử gia phải trả lời là Có hay không có một thời đại Hùng Vương trong lịch sử Việt?  Để giải đáp vấn nạn này sử gia PTA đã dẫn chứng bắng “các thư tịch cổ” cũng như các khám phá mới nhất của khoa “khảo cổ học” để chứng minh là thời đại Hùng Vương là thời đại có thật trong lịch sử Việt . Tác giả đã đưa  rất nhiều bằng chứng để chứng minh, và chúng tôi chỉ xin đơn cử 2 bằng chứng sau: Một là: “Đời Bàn Canh, triều Thương dời đô về đồi Ân nên sách sử gọi là triều Ân. Giặc Ân lại đem quân tiến đánh nước ta bị quân ta đánh cho tan tác còn để lại dấu ấn trong huyền tích “Phù Đổng Thiên Vương” phá giặc Ân thời vua Hùng Vĩ Vương húy Văn Lang 1431-1332TDL ngang với thời Bàn Canh triều Ân 1401-1374TDL. Thế  nhưng, sử Trung Quốc chỉ chép rằng:“Đời Cao Tông triều Ân (1401-1374TDL), vượt Hoàng Hà đánh nước Quỉ Phương 3 năm, đóng quân tại đất Kinh”…   Thời kỳ  này Việt tộc định cư từ Tam Giang Bắc gồm 3 con sông là  sông Vị, sông Lạc và  sông Hoàng Hà trải dài xuống tới Ba Thục là vùng đất đỏ Basalt mới bồi nên “Kinh Thư” gọi vùng này là “Xích Qui phương”. Chính vì thế mà Kinh Dương Vương đã lấy tên đất vùng này làm tên nước thời cổ đại là XÍCH QUI.Theo sách “Địa lý Tối tân Trung Quốc Phân tỉnh đồ” của Trung Quốc do nhà xuất bản Bắc Kinh ấn hành thì nước Qui Phương thời đó là tỉnh Quí Châu bây giờ. Như vậy bộ Vũ Ninh xưa nằm ở Quí Châu, lúc đó có tên là Dạ Lang. Triều Chu tự cho là văn minh nên gọi các nước khác là quỉ, sau khi đánh thắng 9 nước chư hầu Chu Công Quí Lịch đã gọi 9 nước này là cửu quỉ nên các sử gia Trung Quốc đã viết Xích Qui là Xích Quỉ. Hán tộc thâm độc đã triệt tiêu văn tự Việt cổ, bóp méo sửa đổi sự thật lịch sử đã qua hàng ngàn năm nên việc phục hồi sự thật khách quan của lịch sử là vấn đề hết sức cần thiết. Một sự thật không thể phủ nhận được là “Huyền tích về Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương”  đánh tan giặc Ân vào đời Hùng Vương thứ 8 đã được chính thư tịch cổ Trung Quốc xác nhận.(VNTLQ trang 174-175) Hai là: khi các nhà khảo cổ Trung Quốc tìm thấy 1 cái “Qua” là loại vũ khí độc đáo của người Việt ở phía Đông Trường Sa tỉnh Hồ Nam, đặc biệt  trên cái qua có khắc tên vua Nhược Ngao. Công trình khảo cổ gía trị này đã được sách Xuân Thu Tả Truyện và Sử Ký của Tư Mã Thiên, là bộ sử chính thống của Trung Quốc xác nhận như sau: “Nghi viết Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao là Hùng Vương thứ 14 (789TDL)”.Đã có Phù Đổng Thiên Vương –thuộc đời Hùng Vương thứ 8 đánh giặc Ân và di tích khảo cổ “cái qua” có khắc chữ đời  Hùng Vương thứ 14  như đã nói trên thì Thời Đại Hùng Vương hiển nhiên là một thời đại có thực trong lịch sử Việt ,không ai có thể hoài nghi phản bác, hay chối bỏ được nữa.
  • Lãnh thổ nước Văn Lang  rộng hẹp như thế nào? Bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên là Bộ Sử đầu tiên của nước ta viết về truyền thuyết Rồng Tiên và nước Văn Lang của Việt tộc. Cương giới Văn Lang trải dài khắp Trung nguyên trở xuống bao gồm miền Giang Nam và Lĩnh Nam Trung Quốc bây giờ cho đến Hoành Sơn của nước ta. Đại Việt Sử lược tuy là bộ sử xưa nhất còn sót lại nhưng đã bị Tiền Hy Tộ sử quan triều Thanh  sửa đổi ngay cả tên bộ sử sửa  lại là Việt sử Lược và  cố tình chép là 15 châu (bộ) chỉ nằm trong phạm vi Bắc Việt Nam mà trong đó, không có các bộ Dương Tuyền, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Quế Dương, Chân Định, Quế Lâm, và Tượng quận là những bộ trước đây của Việt tộc nằm trong lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Việt Sử lược chép 15 bộ theo ý đồ của Sử quan triều Thanh nên chỉ nằm trong phạm vi Bắc Việt Nam. Chính nhà bác học Lê Quí Đôn đã nhận định trong Vân Đài Loại ngữ là: “Tên 15 châu (bộ) là do triều Hán, Ngô đặt ra. Tên gọi lẫn lộn ngờ rằng những tên đó là do bọn hậu nho góp nhặt vay mượn chép ra, khó mà tin được”. (5) Cố Viêm Vũ, tác giả sách “Thiên hạ Quận quốc Lợi bệnh thư” viết về “AN NAM Cương vực Bị lục” liền bị triều Thanh tịch thu. Thế mà các sử gia nước ta từ Đào Duy Anh đến các nhà sử học Xã hội Chủ nghĩa cứ nhân danh sử học hiện đại cố tình kéo lùi niên đại lập quốc và nhất loạt cho rằng 15 bộ của nước Văn Lang chỉ nằm trong phạm vi của nước Việt Nam hiện nay! Các nhà sử học Xã hội Chủ nghĩa với duy vật sử quan viết sử theo nghị quyết đảng đã phủ nhận cả huyền thoại Rồng Tiên của Việt tộc khi viết: “Địa bàn đó quá rộng lớn bao gồm khắp vùng Hoa Nam, là nơi cư trú của tất cả các dân tộc Bách Việt chứ không phải của riêng người Lạc Việt. Người Lạc Việt cũng chưa bao giờ thống lãnh toàn thể các dân tộc Bách Việt. Vả lại, vị trí của 15 bộ đều tập trung ở Bắc phần Việt Nam hiện nay.!…. Vua Lê Thánh Tôn là vị vua ưu tư nhiều về ngọn nguồn gốc tích của tộc Việt cũng như về chữ viết Việt cổ. Nhà vua đã giao cho Bảng Nhãn Nguyễn như Đỗ nghiên cứu về cương giới nước Văn Lang xưa. Nguyễn Như Đỗ đã viết về “Hùng Vương bát cảnh” gồm:
    1. Cảnh Miền Gò Ngựa  rộng 2.000 dặm, xưa có tên là Châu Điền tức tỉnh Vân Nam TQ hiện nay
    2. Cảnh miền Cỏ Trâu, rộng 1.500 dặm tức tỉnh Việt Tây (Tây Việt) nay là tỉnh Quảng Tây TQ
    3. .Cảnh Miền Ao Cá, rộng 1.700 dặm tức Việt Đông (Đông Việt) nay là tỉnh Quảng Đông thuộc Trung Quốc.
    4. Cảnh Miền Rừng Quạ, tức tỉnh Phúc Kiến phụ thêm châu Kiềm, tức tỉnh Quí Châu, giáp hồ Động Đình. Tất cả rộng độ 1.600 dặm.
    5. Cảnh Miền Động Hoa, tức phía nước Phù Nam cổ mà thời Lê Thánh Tông là nước Chân Lạp, rộng khoảng 1.000 dặm.
    6. Cảnh miền Núi Quả  tức phía nước Hồ Tôn, thuộc vương quốc Lâm Ấp sau gọi là Chiêm Thành (Chămpa), rộng khoảng 1.000 dặm.
    7. Cảnh Miền Bầy Voi, tức phía nước Ai Lao, rộng khoảng 1.000 dặm.
    8. Cảnh Miền Lũ Hươu tức phía Nam nước Ai Lao, rộng khoảng 1.000 dặm.(VNTLQ trang 348-349)
  • Như vậy, cương giới quốc gia VĂN LANG trải dài từ Phong Châu xuống tận Bắc Việt Nam. Địa danh châu Phong mà sử sách Trung Quốc viết là Phong Châu là vùng đất trải dài giữa phía Đông xứ Tạng và phía Tây Ba Thục, nơi 4 con sông lớn hội tụ, đó là sông Minh sông Cửu Long, sông Dạ Lang và sông Dương Tử mà sách xưa chép là MIN (sông Minh) YA (Dạ Lang) KONG (Cửu Long) KẠ (Dương Tử).  Khi triều Đường thống trị nước ta, năm 621 mới đặt tên Phong Châu cho vùng đất ở Việt Trì Phú Thọ.Quốc gia Văn Lang bao gồm nhiều chi tộc Việt với những tộc danh như  Dạ Lang ở Quí Châu, Bạch Lang ở Tứ Xuyên, Việt Lang ở Quảng Đông và Văn Lang ở Quảng Tây và Việt Nam. Sự giống nhau trong tất cả địa danh, thủy danh và tộc danh của vùng Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam đã chứng tỏ cư dân 2 vùng cùng một chủng tộc Việt. Sự thật lịch sử này đã được các nhà Trung Hoa Học toàn thế giới, kể cả các Học giả Trung Quốc và Đài Loan thừa nhận trong cuộc Hội thảo quốc tế về nguồn gốc văn minh Trung Hoa tại Đại học Berkerley California Hoa Kỳ năm 1978.(VNTLQ trang 355-356)
  • Sau khi đã xác dịnh được Thời Dại Hùng Vương cũng như lãnh thổ  của Nước Văn lang bằng nhiều tài liệu phong phú và giá trị, sử gia Phạm Trần Anh cũng đã dày công nghiên cứu về xã hội Hùng vương qua các lãnh vực kinh tế, Văn Hóa, tôn giáo,chủng tộc, ngôn ngữ và văn học nghệ thuât thời Hùng Vương rất xúc tích và sống động.
  • Trong cuốn VNTLQ1 sử gia Phạm Trần Anh tập trung nỗ lực biên khảo về cội nguồn Dân Tộc, lịch sử tiến hóa của thời đại Hùng Vương, phục hồi được lịch sử của Thời Dại Hùng Vương với 2 quốc gia Xích Quy và văn Lang với rất nhiều khám phá Hay -Mới-Lạ và Đúng với chân lý Lịch sử Việt, Nòi giống Việt, Đạo Lý Việt và văn Hóa Việt
  • Sang cuốn VNTLQ 2 sử gia nghiên cứu tiếp về thời đại Hùng Vương và chuyển qua dại họa xâm lược của Hán tộc qua 4 triều dại: Thương, Ân, Chu, và Tần . Đặc  biệt sử gia đã  đưa ra nhiều kiến giải mới cùng nhiều khám phá mới về  quốc gia Âu Lạc, quốc gia Nam Việt cũng như cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng khiến cho chúng ta vừa thích thú vừa hãnh diện về bản lãnh và khí phách của tổ tiên nòi giống Việt.

V NHỮNG ĐIỂM SON TRONG VIỆT NAMTHỜI LẬP QUỐC 1& 2 CỦA SỬ GIA PHẠM TRẦN AN

Trên cương vị của ngừời giới thiệu, nhận định về Tác phẩm, chúng tôi thấy Việt Nam Thời Lập Quốc 1&2 có những điểm son chính yếu sau đây :

  1. 1.     Tác giả đã viết sử với tâm thức Việt, có con mắt triết, hay con mắt Việt ,và đã có cái nhìn thống quan, đạt quan về Văn Hiến, Văn Hóa, thấu rõ  sử tính và sử mệnh của Việt Nam.
  2. Sử gia Phạm Trần Anh đã đánh tan những ngô nhận, và làm hiển lộ chân giá trị của Huyền Thoại Tiên Rồng mà ông gọi là một thông điệp ngàn đời của Dân Tộc Việt Nam.
  3. Sử gia Phạm Trần Anh đã phục hồi được lịch sử,xác định rõ Việt nam có một thời đại Hùng Vương  xua tan đi những bóng đêm phủ trùm lên lịch sử Việt Nam  đã mấy ngàn năm suốt thời kỳ lập quốc do âm mưu thâm hiểm của Hán Tộc đã xuyên tạc bóp méo lịch sử Việt Nam,  cố tình xóa nhòa thời đại Hùng Vương hay ít ra hạ thấp giá trị của Quốc Tổ Hùng Vương, vị Quốc Tổ đã dầy công Khai Quốc và Lập Quốc
  4. 4.     Sử gia Phạm trần Anh đã khẳng định Việt Nam có gần 5 ngàn năm Văn HiếnTái Khẳng định Cương Vực  Nước Văn Lang xưa đồng thời sử gia  dõng dạc tố cáo Đảng CSVN “Sau công hàm ngoại giao bán nước năm 1958, Đảng CSVN đã chỉ thị cho Viện sử học, viện khoa học xã hội viết sử theo nghị quyết của đảng là không được đề cập tới thời lập quốc với phần lãnh thổ xa xưa bên Trung Quốc. Các nhà sử học Mác Xít thuộc Viện khoa học xã hội CHXHCNVN  nhất loạt cho rằng nhà nước Văn Lang ra đời cách nay khoảng 2500-2600 năm cho phù hợp với những gì sử quan triều Thanh là Tiền Hy Tộ sửa đổi Đại Việt sử lược của tác giả vô danh đời Trần rồi đổi tên là Việt Sử Lược chép về việc thành lập quốc gia Văn Lang như sau:“Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang”.  Nguyễn Khắc Thuần trong “Việt Nam, tư liệu tóm tắt” thì cái gọi là “Khoa học lịch sử hiện đại” cho rằng: “niên đại mở đầu của thời sơ sử được xác định là cách nay từ 2.600 năm tới 2.500 năm. Trái với những ghi chép của chính sử cũ và các tài liệu dã sử khác, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Khoa học xã hội nhà nước CHXHCNVN cho rằng nước Văn Lang của các vua Hùng chỉ tồn tại khoảng 300 năm và niên đại tan rã là khoảng 208 TDL chứ không phải 258 TDL. Việc sửa đổi niên đại vua Hùng dựng nước để phù hợp với quan hệ hữu nghị Việt Trung chính là hành động bán nước, chính thức hợp thức hoá các cuộc xâm lược của Hán tộc qua việc sửa đổi lịch sử Việt, những nhà sử học Mác Xít vong bản này đã phủ nhận huyền thoại Rồng Tiên, phủ nhận toàn bộ lãnh thổ xa xưa của Việt tộc !!!
  5. Qua VNTLQ 1 &2  Sử gia Phạm trần Anh đã có công lớn vun bồi Quốc Thống và vinh danh Quốc Tổi Hùng Vương -.Sử gia PTA cũng là ngừời viết tác phẩm Quốc Tổ Hùng Vương với nhiều tài liệu đầy đủ nhất và lối văn giàn dị dễ hiểu khiến các thế hệ trẻ sau này  và đồng  bào nói chung dễ tìm hiểu về cội nguồn Dân Tộc và nhớ ơn Quốc Tổ.
  6. Qua VNTLQ 1&2 sử gia Phạm trần Anh đã cống hiến cho chúng ta rất nhiều khám phá mới lạ như quốc Gia XÍCH QUY (Xích Quy chứ không phải Xích Qủy như bọn giặc Hán đã thóa mạ nòi giống Việt). Quốc Gia Xích Quy là tiền thân của Quốc Gia VĂN LANG, Thần Nông là người Việt chứ không phải Tầu. Khởi từ Phục Hy, Thần Nông, Đế Hoàng, Đế Nghiêu, Đế ThuấnVua lập ra nhà Hạ bênTầu cũng thuộc nòi giống Việt và ngƣời Hán chỉ mới chính thức lập ra nước Tầu từ thời đại Thương (1766 TDL), nhân Vật Triệu Đà tức Triệu Vũ Đế người dựng ra nước Nam Việt là người Việt, cuộc khởi nghĩa của Trưng Nữ Vương xảy ra ở Trường Sa, vùng hồ Động Đình ở Hoa Nam TQ bây giờ chứ không phải ở Bắc VN như sử sách từ trước đến giờ vẫn chép sao y sách sử của Hán tộc. chính Việt tộc  là kế thừa của tirết Lý Âm Dương v.v..
  7. 7.     Sử gia Phạm Trần Anh không chỉ lý luận,trình bầy minh giải về mặt tài liệu thuần túy lý thuyết mà ông còn Chứng Minh bằng những kết quả  mới nhất của các khoa Khảo cổ học, Dân tộc học, Nhân chủng học,ngôn ngữ học,  Huyết học, Kết quả Mã Di truyền DNA và Đại Dương Học (thuyết biển tiến và biển lui)  nên VNTLQ1 &2  của tác giả có sức thuyết phục rất lớn hơn hẳn các bộ sử đã có từ trước đế nay.
  8. Qua VNTLQ 1&2 đồng bào Việt Nam không chỉ kiên định Niềm Tin, phát huy Niềm Tin  cùng Hào Khí Việt Nam mà còn góp phần thiết dựng nền tảng, bổ sung, hoàn thiện và khoáng trương nền Văn Hiến Văn Hóa Việt Nam sáng ngời trong tương lai.
  9. Hiện Thực Hóa Huyền Thoại hay Huyền Thoại phát sinh từ Hiện Thực:Với Kết Quả Mã Di Truyền DNA (VNTLQ trang 275-285) đã xác nhận người Hòa Bình Hoabinhian chính là người tiền Việt Protoviets, chủ nhân của nền văn hóa Hòa Bình. Mỗi lần biển tiến, Protoviets đã phải di cư lên miền cao, sau khi nước biển hạ thì từ cao nguyên Malaya, những người Protoviets = Malayoviets đã tiến xuống vùng lưu vực các con sông Dương Tử, Hoàng Hà, Cửu Long để thành lập quốc gia Xích Quy, Văn Lang, Việt Thường và các quốc gia Bách Việt như sách sử cổ Trung Quốc xác nhận. Đặc biệt, huyền thoại không còn là huyền thoại nữa mà đã trở nên hiện thực sống động xác định truyền thuyết diễn tả qua việc mẹ Âu cùng 50 con ở lại vùng cao, Bố Lạc dẫn 50 con xuống “Thủy Phủ” miền sông nước. Hai Thạc sĩ sử địa người Pháp là J Loubet và P Gouron đã tìm ra địa danh Thủy Phủ chính là cảng Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên Phủ Trùng Khánh TQ được ghi rõ trong bản đồ Pacific Ocean và Atlas năm 1949.
  10. Sứ Mạng Bách Việt Tộc Trong Dòng Sinh Mệnh Nhân Loại: Sử gia Phạm Trần Anh viết: “ Kết quả mới nhất, thuyết phục nhất của các nhà Di Truyền học đã xác định Việt tộc hoàn toàn khác hẳn với Hán tộc. Người Việt có 1 tỷ lệ cao nhất về biến đổi di truyền trong dân tộc (Intrapopulatinal genetic divergence 0.236% và về Hinc II/ Hpal nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam Á. Chính vì vậy, Việt Nam là trung tâm của nền văn hoá Hòa Bình ảnh hưởng bao trùm Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ, Trung Cận Đông và cả châu Mỹ nữa. Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có Haplogroups chính gồm A, B, C, D và không có cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di truyền học gọi là “Đột biến đặc biệt Á Châu= “9bp deletation bettween CO I I tRNA LYS genes”, bp= base pair). Cư dân Nam Trung Hoa tức người Trung Quốc ở Hoa Nam, Đài Loan, Cư dân Đông Nam Á gồm Miến Điện, Miên, Lào, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Brunei và Đông Timor, thổ dân Đa Đảo Polynesian, thổ dân Hawai, thổ dân Maya ở Trung và Nam Mỹ, Pima ở Bắc châu Mỹ có cùng Halogroup A, B, C, D và Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS mà các nhà Di truyền học gọi là Đột biến châu Á Mitochondrial DNA Á Châu (Asian Mitochondrial DNA) của Việt tộc. Thực tế này xác định Việt tộc là một đại chủng lớn nhất của nhân loại”. Công trình nghiên cứu hết sức công phu giá trị của sử gia Phạm Trần Anh đã mở ra cho dân tộc và nòi giống ta một viễn tượng mới: “Sinh Mệnh dân tộc Việt nam gắn liền với sinh mệnh của Đại Chủng Bách Việt Tộc, gắn liền với sinh mênh của các Quốc Gia Đông Nam Á và gắn liền với Sinh Mệnh toàn Nhân Loại”.

VI- KẾT LUẬN:

Lịch sử Việt Nam Thời Lập Quốc viết về Quốc Tổ Hùng Vương trong tâm thức Việt, về bản sắc văn hóa truyền thống Việt, về phong tục tập quàn cùng những lễ hội dân gian từ xa xưa sẽ góp phần bảo lưu văn hóa truyền thống Việt Nam. Đặc biệt tác phẩm lịch sử Việt Nam Thời Lập Quốc viết về khởi nguyên dân tộc Việt với những kết qủa khoa học mới nhất về DNA của đại chủng Việt do viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ công bố sẽ giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam trong nước và hải ngoại hiểu rõ hơn về nguồn cội phát tích của dân tộc Việt Nam chúng ta.

Xin cám ơn sử gia Phạm Trần Anh đã dầy công tìm tòi nghiên cứu, về cội nguồn dân tộc để lần đầu tiên, chúng ta có một bộ lịch sử Việt Nam hết sức giá trị, đáp ứng được mong muốn của tất cả mọi ngừoi Việt Nam chúng ta về nguồn cội của một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất với gần 5 ngàn năm văn hiến.

Chu Tấn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bình luận về bài viết này