Ngàn năm bia miệng – NgyThanh
Ngàn năm bia miệng
– NgyThanh
Osama bin Laden mới bị bắn chết hai tuần. Còn sớm quá để cái chết của hắn, nhất là 3 ngàn cái chết do hắn gây ra tại Mỹ ngày 11/09/2001 chìm vào quá khứ, cho dù người còn sống biết mình phải tìm quen với nỗi đau và tìm quên với vết thương lòng. Để đoạn tuyệt hẳn với quá khứ, người ta đang nhắc lại tất cả những gì có thể, để một lần trực diện với cái tên OBL, dù xác thân hắn đã chìm sâu xuống lòng đại dương.
Vợ con nhà bin Laden
Giã từ trần thế, cùng một lúc bin Laden làm 24 người con phải mồ côi cha, và 4 phụ nữ góa chồng. Nhưng OBL vốn tính cẩn trọng. Hắn biết hắn sẽ chết, và sẽ chết vì súng đạn, nên hắn đã để lại những lời trăng trối.
Ký giả Damien McElroy phụ trách về bang giao quốc tế của tờ Telegraph tường thuật rằng lời trối trăn dài bốn trang của OBL đã được một nhật báo phát hành ở Kuwait đăng tải, trong đó bin Laden ngõ lời xin lỗi đã xao lãng bổn phận làm cha với đám con, và dặn dò các bà vợ mình đừng bao giờ tái hôn. Bức thư cũng yêu cầu đám con đừng theo chân bố dấn thân vào cuộc thánh chiến jihad.
“Các con, con của bố, bố xin lỗi vì đã dành quá ít thời gian trong cuộc sống của bố cho các con bởi lẽ bố phải đáp ứng nhu cầu của cuộc thánh chiến jihad”. Riêng cho cậu con trai tên Abdullah, OBL căn dặn đừng tiến hành cuộc thánh chiến nữa, sau khi trích dẫn lời dạy của Omar bin al-Khattab, kẻ kế thừa quyền lãnh đạo Hồi giáo sau Tiên tri Mohammad. Bức di chúc được trang trọng ký tên “Chiến hữu Abu Abdullah Osama Muhammad Bin Laden”.
Dành cho các bà vợ, bin Laden làm như mình là ông chồng rất đỗi mẫu mực: “Đừng toan tính tới chuyện tái hôn, và dành tất cả cho con cái chúng ta, và dẫn dắt chúng đi theo con đường chính lộ”. Ngoài tất cả những điều thú vị của bức di chúc, điều hấp dẫn nhất là tài liệu nầy được viết từ ngày 14/12/2001, ba tháng sau khi sát hại 3 ngàn người Mỹ, trùng khớp với thời gian tình báo Mỹ ghi nhận được các tín hiệu liên lạc vô tuyến của OBL phát đi từ các hang động vùng rừng núi Tora Bora giữa hai nước Afghanistan và Pakistan, và Tổng thống Bush hứa sẽ áp dụng công lý với tên tội phạm. Bức di chúc bằng tiếng Ả rập dành phần lớn để con cà con kê biện minh cho những nỗ lực bài Mỹ và chống Do Thái, nhưng không có điểm nào đề cập tới của cải, dù rằng người ta biết trước đây OBL thừa hưởng một di sản trị giá khoảng 18 triệu bảng Anh từ đời ông bố là một tài phiệt ngành xây cất ở Ả rập Saudi.
Hồi 2002, tờ The Washington Post đã loan báo một bức di chúc đề ngày 14/12/2001 đã lưu hành trong các nước Ả rập mặc dù al-Qaeda phủ nhận rằng đó chỉ là một tài liệu giả mạo nhằm tuyên truyền trong mặt trận tâm lý trong khi tình báo tây phương ghi nhận tài liệu ấy một cách nghiêm túc. Cũng thời gian ấy, một nhật báo phát hành ở Tây Ban Nha, tờ La Vanguardia, đã tường thuật rằng bin Laden luôn có ý nghĩ, rằng một ngày nào đó hắn sẽ bị bội phản bởi những người trong vòng thân cận nhất, và sẽ lên thiên đàng trong tư thế một người tử đạo.
Các bà vợ của OBL
Năm 2000, lúc cha mẹ của con bé 15 tuổi người Yemen cầm món tiền khoảng 5 ngàn đô-la Mỹ để phải gởi con mình qua Afghanistan nâng khăn sửa túi cho ông bin Laden già gần gấp ba lần tuổi nàng, Amal Ahmed al-Sadah chỉ là một đứa bé gái cả thẹn, nhút nhát. Hẳn con bé Amal không tiên liệu được cuộc hôn nhân của mình sẽ không thể “trăm năm hạnh phúc”, và mười một năm sau nàng sẽ chứng kiến biệt hải Mỹ đang đêm đổ bộ xuống bằng trực thăng giết chết chồng mình ngay trong phòng ngủ, và bắn vào bắp vế chân mình trước đôi mắt kinh hoàng của đứa con gái tên Safiyah. Amal Ahmed al-Sadah cũng không ngờ mình là một tài liệu sống quan trọng mà biệt hải Mỹ đành phải bỏ lại, vì chiếc trực thăng thứ nhì lâm nạn trong vòng rào biệt thự vào đêm đột kích và phải phá hủy nên hai tiểu đội “SEAL Team 6” và hai phi hành đoàn phải dồn chung trên cùng một chiếc trực thăng, cộng thêm xác của OBL trên đường rút lui qua biên giới phía bên kia.
Một phụ nữ Ả rập có chồng là chiến binh al-Qaeda kể lại với ký giả tuần báo TIME rằng sau “biến cố 911”, bin Laden cùng các phụ tá cao cấp của hắn trong khi bị Mỹ khép chặt vòng vây ở vùng Tora Bora đã phải quyết định cho vợ con chúng tản cư và lẩn trốn. Người vợ trẻ nhất của OBL lúc ấy mới 16 tuổi, nàng Amal Ahmed al-Sadah, đã trở về quê hương Yemen qua ngã Pakistan, trong khi các bà vợ kia của hắn trốn theo hướng khác qua ngã Iran, riêng trùm khủng bố mai danh ẩn tích một mình, theo một hướng riêng. Sau khi giao liên Abu Ahmad al-Kuwaiti đội lốt Arshad Khan tới gặp bác sĩ Qazi Mahfooz Ul Haq để mua miếng đất trống ở gần Hàn Lâm Viện Quân sự tại Abbottabad ở phía bắc thủ đô Islamabad vào năm 2004 rồi mua thêm những miếng đất tiếp cận năm 2005, nhà thầu xây cất Gul Mohammed tiến hành khởi công ngay sau đó, và bin laden dọn tới ngôi biệt thự ba tầng vào đêm 6/01/2006.
Nệm ấm chăn êm xong, cho bõ những ngày lao đao lận đận né tránh tình báo Mỹ, bin Laden bắt đầu phá lệ do hắn tự đặt ra về cảnh giác. Hắn triệu hồi về dinh ba trong năm bà: Amal Ahmed al-Sadah cùng hai bà người gốc Ả rập Saudi trí thức và mượt mà nhất: bà Khairiah Sabar là một bác sĩ tâm lý nhi đồng làm vợ bin Laden đã 25 năm và bà Siham Sabar là một nhà giáo về ngữ pháp Ả rập với 27 năm lấy họ bin Laden; bà nầy sau đó phụ trách làm cô giáo cho tất cả đám trẻ sống trong biệt thự ở một gian phòng cải biên thành lớp học.
Vợ bin Laden nói về ông xã
Sau nhiều ngày miệt mài lùng tìm, ký giả Khalid Nasr của tạp chí Al Majalla đã tìm ra được dấu vết của một trong các bà vợ của OBL. Với những điều kiện gặp gỡ khắt khe, không được mang theo máy ảnh và không được tiết lộ địa điểm gặp gỡ, Khalid Nasr đã thực hiện được cuộc phỏng vấn không tiền khoáng hậu, được nhật báo The Guardian dịch qua tiếng Anh đăng lại trên số đề ngày 15/03/2002, sáu tháng sau biến cố 911 ở Mỹ và ba tháng sau khi tình báo Mỹ mất dấu bin Laden ở vùng núi Tora Bora. Người vợ của OBL trong bài phỏng vấn chỉ được ghi tên tắt là “A.S.” chín năm trước đã tiết lộ một số chi tiết lý thú như sau, Thời Báo xin chuyển ngữ để may ra có thể soi dọi một chút ánh sáng vào tâm lý kỳ bí của con người suốt đời hận thù Mỹ:
– Ký giả Khalid Nasr: Trước tiên, xin cho biết cuộc sống trong tư cách là vợ của Osama?
– AS: Trong suốt thời gian chúng tôi sống chung, ông ấy nhiều khi về nhà rất muộn ban đêm rồi nằm thừ trên giường nhiều giờ. Ổng không muốn ai chuyện trò những lúc như thế. Ông sẽ nổi nóng ngay nếu tôi tìm cách bắt chuyện, nên tôi cứ để mặc ổng. Rồi ông ấy ngồi yên và suy nghĩ rất lâu, trước khi đi ngủ thật muộn. Giấc ngủ ông không quá hai hay ba tiếng đồng hồ. Dù ông hiện diện bên tôi, nhiều lúc tôi thấy hết sức cô đơn. Trong thời gian gần đây, ông ấy tỏ ra phiền muộn và có vẻ vừa mỏi mệt vừa kiệt sức vì thiếu ngủ, đến nổi nhiều ngày ông phải dùng thuốc ngủ hay các thứ thuốc khác để dỗ giấc ngủ.
– KN: Bà đã sống cùng với các bà vợ kia chung một nhà? Ông ấy đối xử với bà và với các vợ kia ra sao?
– AS: Không, chúng tôi không sống chung nhà. Bà nào sống riêng nhà bà ấy. Tại tỉnh Kandahar, ổng có hai bà. Bà ba có một căn nhà ở thủ đô Kabul, còn bà tư sống trong núi Tora Bora. Ông thường đến với tôi mỗi tuần một lần, còn các bà kia gặp ông một lần trong một hay hai tháng, vào lúc ông ấy tới ở lại với chúng tôi, hay sai một đứa trong đám con trai tới mang chúng tôi tới nhà riêng của mỗi đứa. Thường khi chúng tôi tới nhà Umm-Awad. Ông ấy luôn nhắc chừng việc tôi xuống phố một mình, và luôn dặn dò nếu tôi cần gì thì nên sai một trong mấy đứa con đi mua. Trong giai đoạn ấy, ông ít nói chuyện với tôi và tôi thường nằm ì ở nhà, vì ông cứ ngăn không cho tôi ra ngoài và bảo rằng nếu tôi ra nơi công chúng, tai ách sẽ đến với tôi. Vào giai đoạn sau, hai hay ba tuần ông mới tới với tôi một lần, và bảo rằng ông rất bận, gặp nhiều rắc rối, hoặc là bận họp hành với Mullah Omar và các người lãnh đạo phe Taliban. Ngay cả khi muốn tới một địa phương nào đó, ông không hở môi cho ai biết, ngược với trước kia ông thường mang theo một người vợ nào đó trong đám chúng tôi mỗi khi du hành.
– KN: Thế căn nhà mà bà sống như thế nào và Osama thích những món ăn gì?
– AS: Nhà tôi ở là một căn rất đơn giản như những căn nhà nông thôn khác. Về thức ăn, Osama thích bánh mì, sữa chua, mật và trái chà là. Ông ấy ít khi dùng thịt.
– KN: Khi ngăn cản bà ra ngoài, có phải vì ông ấy lo ngại cho gốc gác của bà, ví dụ, những người Taliban?
– AS: Có lần ông bảo tôi rằng ông rất lo lắng và sợ rằng phe Taliban có thể quay lại chống ông và tìm cách loại bỏ ông, hoặc là người Mỹ có thể bỏ tiền ra mua chuộc họ để loại bỏ ông ấy. Ông cũng nói với tôi rằng ông có một số dị điểm so với quan niệm của Mullah Omar và các người lãnh đạo Taliban nên họ đã quấy rầy ông có lẽ vì họ không muốn ông sống chung với họ nữa.
– KN: Những ai là người gần gũi ông ta nhất?
– AS: Ông ấy thường nhắc tới Mullah Omar, Sulayman Abu-Ghayth [phát ngôn viên chính thức của al-Qaeda] và Abu-Hafs [một bí danh khác của Mohamed Atef, là bạn của bin Laden, một chuyên gia về kế hoạch quân sự đã chết vì bom Mỹ ở Afghanistan], và bảo rằng những người nầy có tính kiên nhẫn và cương quyết. Ông ấy thường mang theo một trong mấy người nầy mỗi khi cần di chuyển tới đâu.
– KN: Ông ấy được bảo vệ cẩn mật chứ?
– AS: Ổng có một binh đội đông đảo, những người bộ tộc và những chiến binh Ả rập trẻ trung, cùng một số xe cộ dùng để di hành với họ.
– KN: Osama có nói với bà về ý định của ông muốn tấn công nước Mỹ?
– AS: Hoàn toàn không. Ông thường nói về tham vọng bá quyền của Mỹ và sự hợp tác của Mỹ với Do Thái. Ông luôn luôn nói với tôi rằng ông có một kế hoạch lớn và ông dâng hiến bản thân để chống lại người Mỹ. Ông thường bảo tôi rằng Hoa Kỳ làm nhục người Ả rập và ổng có một nhóm đông đảo các chiến sĩ trẻ trung rất căm ghét nước Mỹ đang mong muốn chiến đấu chống lại nước nầy.
– KN: Osama trả lời thế nào về cáo giác của Mỹ rằng ông ta nhúng tay vào các vụ đánh bom các sứ quán của họ tại Nairobi và Dar es Salaam?
– AS: Tôi nghe ông ấy nói hơn một lần rằng Hoa Kỳ là kẻ thù số một của ổng, rằng Mỹ đang tìm mọi cách để trút những rắc rối cũng như những gì đang xẩy đến cho họ lên phía chúng ta, họ săn lùng ông, tìm cách giết ông hay loại bỏ ông. Ổng bảo Hoa Kỳ xứng đáng bị như thế, và còn hơn thế nữa, và một số thanh niên đang được Thượng đế dẫn dắt để dạy cho nước Mỹ một bài học.
– KN: Có khi nào bà hỏi ông có phải chính ông là kẻ đứng bên sau các vụ tấn công ấy?
– AS: Không
– KN: Tại sao?
– AS: Ông ấy không ưa nói với tôi về các loại chuyện như thế. Có dạo tôi đã gặng hỏi làm ông ấy nổi giận, và bảo tôi đừng bao giờ mang những chuyện như thế ra bàn luận với ông nữa.
– KN: Ông ấy phân chia thời giờ cho gia đình, cho công việc và cho tổ chức al-Qaeda thế nào?
– AS: Ông thường về nhà tuần một lần.Ông ấy dành phần lớn thời giờ để quán xuyến việc làm ăn với một nhóm nhân viên của ông.
– KN: Ngành nghề làm ăn của ông là gì thế?
– AS: Mậu dịch và xây dựng. Ổng luôn luôn nói về các công ty của ổng lo việc xấy cất cao ốc và làm đường sá, cộng tác với một nhóm rất đông những hội thiện nguyện để giúp người nghèo khó và thiếu thốn trong nhân dân Afghan.
– KN: Lần cuối bà gặp Osama là lúc nào, và cuộc gặp như thế nào?
– AS: Lần sau cùng tôi gặp ông ấy là trước biến cố Tháng Chín. Ông tới nhà, cho tôi một cái điện thoại và bảo tôi gọi cho gia đình để báo cho mọi người biết chúng tôi sẽ dời chỗ ở và họ sẽ vắng tin tôi một thời gian dài.
– KN: Ông ấy có nói cho bà biết địa điểm mà bà sẽ tới? Thực tình bà có gọi cho gia đình không?
– AS: Có đấy, tôi gọi cho mẹ tôi và báo cho bà hay. Nhưng ổng không cho tôi biết chúng tôi sẽ dời tới địa điểm nào. Ổng đã chuẩn bị sẵn cái xe rồi bảo tôi lên đường với một trong những người con trai của ổng cùng mấy người cận vệ tới một vùng phía nam gần biên giới Pakistan mà trước đó tôi chưa từng hay biết. Chúng tôi tới nhà của một người trong bộ tộc. Nhiều ngày sau, chúng tôi nghe tin về các vụ nổ bên Mỹ và Hoa Kỳ tuyên chiến với Osama và phe Taliban. Khi bom Mỹ bắt đầu ném xuống Afghanistan, chúng tôi chuyển vào vùng rừng núi mang theo một số trẻ con và sống trong một hang động suốt hai tháng, mãi đến khi một trong mấy đứa con trai của ổng mang theo mấy người bộ tộc tới để đón chúng tôi đi. Tôi không hề biết là mình qua Pakistan, cho đến khi chúng tôi được bàn giao cho chính quyền Pakistan.
– KN: Có đúng là Osama bị đau thận và bị chứng trụy thận hành?
– AS: Ổng thường xuyên bị chứng đau thận và dạ dày hành hạ. Có lần ổng bảo tôi ông phải qua Pakistan để chạy chữa.
– KN: Ông nói cho bà biết chuyện nầy vào lúc nào?
– AS: Gần hai tháng trước biến cố Tháng Chín.
– KN: Ông Osama có liên lạc với bà trong thời gian từ khi bà rời Afghanistan tới nay?
– AS: Không. Ông ấy hoàn toàn không liên lạc với tôi.
– KN: Bà có nghĩ là ông ấy chết rồi?
– AS: Tự thâm tâm, tôi nghĩ là ổng còn sống. Nếu ông đã bị giết thì cả thế giới nầy ai cũng biết vì cái chết của Osama là điều không dễ gì giấu kín.
– KN: Nếu Osama vẫn còn sống, hiện ông ta phải ở đâu? Có thể nào ông ta đã rời Afghanistan chăng?
– AS: Ông không khi nào nói với tôi về ý định rời Afghanistan, và luôn luôn mong muốn được chết trên đất nước nầy. Có một lần ông ấy bảo tôi nếu ông có rời Afghanistan, họa chăng là để đi gặp Đấng Tạo Hóa.
– KN: Ông ta có các thú tiêu khiển nào đặc biệt?
– AS: Săn bắn. Ông ấy thường cùng một nhóm bạn đi săn vào các ngày Thứ Sáu.
– KN: Bà có hối tiếc vì đã kết hôn với Osama, vì trong con mắt của cả thế giới, ông ta đã trở thành một tên khủng bố?
– AS: Tôi không cảm thấy hối tiếc vì mọi sự trên đời được sắp xếp theo vận mạng và thiên số. Tôi chẳng hề nghĩ ông ấy là một tên khủng bố như tây phương gắn cho ổng.
– KN: Bà đã có con cái với Osama bin Laden. Bà nhìn về tương lai chúng như thế nào?
– AS: Tôi sẽ dạy cho chúng lẽ phải và con đường thánh thiện. Tôi không lo lắng cho chúng lắm vì chúng tôi chấp nhận những gì Đấng Toàn Năng đã vạch ra. Chúng ta không thể nào khước từ những gì đã được coi là vận mạng và thiên số.
– KN: Nếu Osama bin Laden xuất hiện trở lại và yêu cầu bà quay về Afghanistan, hay bất cứ đâu mà ông ta ở, liệu bà sẽ đồng ý?
– AS: Cứ chờ và xem chuyện gì sẽ xẩy ra trước đã.
– KN: Khi phe Taliban ra lệnh đóng cửa tất cả trường học và chỉ cho phép mở cửa trường dạy giáo lý đạo Hồi, con cái của Osama có đi học? Nếu tới trường, chúng học môn gì?
– AS: Con chúng tôi có thầy dạy kèm riêng cho chúng môn Anh văn và tiếng Ả rập, toán và khoa học. Các thầy cũng dạy cho chúng cách dùng computer nữa.
Đại gia đình Osama
Phân tích bản thiết kế ngôi biệt thự ở Abbottabad, chúng ta thấy có vẻ bin Laden tìm cách chia giang sơn cho ba bà đồng đều nhưng cách ly nhau. Mỗi bà cùng đám con của họ sống riêng biệt một tầng. Khi biệt hải SEAL của Mỹ đột kích, họ bắt gặp bin Laden ở tầng ba với al-Sadah, và bà trẻ nầy ăn đạn vì tìm cách che chở cho ông chồng.
Bin Laden cưới vợ 6 lần, nhưng một cuộc hôn nhân đã hủy bỏ, và một bà đã ly dị. Trong thời gian cư trú ở Afghanistan, các bà nầy sống tránh mặt nhau. Trên danh nghĩa, bin Laden là chồng của các bà vợ lần lượt như sau:
– Bà Nhất tên Najwa Ibrahim Ghanem, còn gọi là Um Abdullah hay Umm Abdullah, sinh năm 1958 tại Latakia, Syria vừa là anh em bà con thúc bá. Đám cưới của hai người đã được tổ chức bên nhà gái tại Syria vào năm 1974. Mặc dù báo TIME ghi nhận khi thành hôn, Najwa mới 13 còn bin Laden 19 tuổi, nhưng ở trang 292 của cuốn hồi ký, bà ghi rằng bấy giờ bà được 15 còn Osama 17 tuổi. Thủa ấy, bin Laden là một thanh niên giàu có và giao thiệp rộng nên Najwa Ghanem có lý do vững vàng khi chọn hắn làm nơi nhung lụa để trao gởi tấm thân. Kết quả bài toán tính sai, là một đáp số phải ôm 11 đứa con thường xuyên trong tình trạng bị săn đuổi, và lúc nào cũng phải bươn chải để tự duy trì cho mình một dáng dấp dễ nhìn giữa sa mạc xứ Afghanistan, vì ông chồng triệu phú cực đoan không chấp nhận thứ tiện nghi giả dối của con người qua máy điều hòa không khí hay các thức uống được đông đá, thậm chí không chịu nghe lời con mình để dùng các liều thuốc tây chống bệnh hen suyễn. Sau khi ông chồng chơi khăm vụ 911 để bị truy lùng, Najwa Ghanem phải đào tẩu khỏi Afghanistan với thằng con trai tên Abdul Rahman nửa điên nửa khùng và mấy đứa con gái, trốn về quê hương Syria. Vào lúc bin Laden bị nổ súng vào đầu, Najwa Ghanem vẫn chính thức là vợ tên khủng bố số 1, đang sống ở Syria tuy nhiên bà không bị giam giữ. Cũng may, sau những hy sinh triền miên, nay bà không còn phải lẩn tránh, thường xuyên bị săn lùng như một con thú. Biệt hải Mỹ đã mang lại cho mẹ con bà sự tự do tuyệt đối.
Trong cuốn hồi ký viết chung với người con trai thứ tư tên Omar bin Laden sẽ phát hành vào tháng tới mang tựa đề “Thế hệ bin Laden đang trưởng thành” kể về cuộc hôn nhân của mình, Najwa Ghanem viết rằng bà phải sản xuất cho bin Laden tới 11 trong 14 đứa con vì chồng bà bảo rằng Hồi giáo cần thêm thật nhiều chiến binh. Ngoài ra, Osama bin Laden là tên độc tài đã huấn luyện cho đám con trai mình trở thành các người mang bom tự sát, hay làm quen với máu bằng cách giết hại gia súc trong nhà. Ở một chương khác, Najwa Ghanem ghi lại hồi thập niên 1990, chồng bà mang nguyên gia đình gồm 4 bà vợ và 14 đứa con đi cắm trại ngoài sa mạc xứ Sudan. Sau khi tìm được một địa điểm hoang vắng, bin Laden đã bắt đám con trai đào cái hố thật sâu trong cát, rồi ra lệnh cả đám, kể cả những đứa mới một và hai tuổi, phải trèo ngược lên dốc cát, bảo rằng thử thách ấy sẽ là bài học cho cuộc chiến về sau giữa người Tây phương và tín đồ Hồi giáo. Trước mặt đám con nhất mực sợ bố, bin Laden tuyên bố: “Các con phải dũng cảm. Không được nghĩ tới rắn rết hay thú dữ. Những bài học đầy thử thách sẽ đến với chúng ta.” Khi bọn trẻ than rằng chúng bị cảm lạnh, người bố đơn giản bảo chúng chui mình xuống dưới lớp cát: “Tụi con sẽ ấm vì được thiên nhiên cung cấp nguồn hơi ấm”. Lúc ấy, Najwa Ghanem đã không dám phản đối cách người chồng đối xử với đám con. “Tôi luôn tự nhắc nhở rằng chồng mình hiểu biết về thế giới rộng lớn nầy hơn bất cứ ai trong đám vợ con của ông ấy. Vả lại, chúng tôi là những viên ngọc quý của ông ấy, nên ông ấy sẽ làm cách gì hay nhất để bảo vệ chúng tôi.” Cũng trong cuốn hồi ký nầy, các tác giả đã ghi lại quan điểm của bin Laden về bà Nhất của mình: “Vị trí của người vợ đầu tiên là một chỗ rất trang trọng về lĩnh vực danh giá trong văn hóa của tôi, và vị trí ấy được tam thừa giá trị khi bà ấy lại là bà con chú bác với tôi, vừa là mẹ của đứa con trai cả của tôi. Rất hiếm khi một nam tín đồ Hồi giáo ly dị người vợ vừa là người bà con thúc bá vừa là người mẹ của đứa con trai trưởng. Cha mẹ tôi cũng là những người được ràng buộc bằng huyết thống, bằng hôn nhân và bằng tình cha mẹ với con cái.” (Trg 41).
– Bà vợ thứ nhì tên Khadijah Sharif sinh năm 1948 tại Jeddah thuộc Ả rập Saudi, lấy OBL năm 1983, lớn hơn chồng 9 tuổi. Bà nầy sinh cho vua khủng bố 3 người con trước khi ly dị khoảng giữa năm 1993 và 1996 trong thời gian họ sống ở Sudan và bin Laden đang có rắc rối với chính quyền.
– Vợ thứ ba của OBL tên Khairiah Sabar cũng người miền Jeddah thuộc Ả rập Saudi như bà thứ nhì. Hai người cưới nhau năm 1985 do việc mai mối và sắp xếp của bà Nhất Najwa. Khairiah Sabar được coi là người “mẹ tinh thần” của gia đình qui mô nầy, mặc dù bà chỉ sinh cho ông chồng khủng bố một thằng con trai. Bà có bằng tiến sĩ, và là một nhà giáo chuyên khoa về dạy trẻ em câm điếc. Trái ngược với ông chồng giết người không gớm tay, bà Sabar là mẩu người tốt bụng, ai cũng thích vấn kế bà hay hỏi một lời khuyên. Sau biến cố 911, bà trốn khỏi Afghanistan qua ngã Iran và bị quản chế tại gia; về sau chính phủ Iran cho phép bà trở về Ả rập Saudi, rồi từ đây bà vượt biên bất hợp pháp vào Pakistan để đoàn tụ với thủ lãnh al-Qaeda ở biệt thự Abbottabad.
– Siham Sabar là người vợ thứ tư, cũng là nhà giáo, và cũng có mặt tại biệt thự Abbottabad vào lúc chồng bị giết. Bà nầy sinh quán gốc Medina thuộc Ả rập Saudi, thành hôn vào năm 1987, có 4 người con với Osama. Các tin tình báo quân sự nói sau ngày 11/9, bà trốn từ Afghanistan qua Pakistan và ẩn mặt cho đến khi bin Laden nhắn bà tới sống chung ở căn biệt thự ba tầng.
– Cuộc hôn nhân thứ năm của bin Laden là một bí mật. Hắn cưới vội vàng một phụ nữ không rõ quốc tịch ở Khartoum, thủ đô của Sudan vào năm 1994 rồi cuộc hôn phối bị hủy bỏ 48 giờ trước đêm hợp cẩn.
– Và sau cùng là Amal Ahmed al-Sadah sinh năm 1982, người vợ trẻ xứ Yemen như chúng ta đã biết đến với một tên thứ nhì là Amal Ahmed Abdul Fatah. Một phần tử al-Qaeda cầm súng bên cạnh bin Laden đã đứng ra làm mai mối cho cuộc hôn nhân thứ sáu nầy của OBL. Trong cuộc đột kích của biệt hải Mỹ vào biệt thự ở Abbottabad đầu tháng 5/2011, bà đã làm một động tác có tính cách đe dọa lính Mỹ, nên đã bị bắn vào bắp chân. Trong hàng ngũ các bà, Amal Ahmed vừa trẻ nhất vừa đẹp nhất, nên OBL đã phải ly dị bớt một bà để có thể lấy Amal Ahmed mà vẫn tuân thủ giới hạn 4 vợ của đạo Hồi.
Khi Osama Bin Laden quyết định cưới thêm bà vợ thứ năm, hắn đã nhờ đám cố vấn tín cẩn nhất đi tìm một nàng dâu. Và Abu al-Fida là người đã giới thiệu cô Amal Ahmed làm người vợ tuyệt hảo của vị thủ lãnh al-Qaeda 43 tuổi, bằng tuổi bố mình. Chọn làm một người vợ hiền thục suốt đời cung phụng hầu hạ cho chồng, Amal Ahmed tin sẽ nắm chắc chỗ của mình trên thiên đàng ở kiếp sau. Bấy giờ còn những một năm nữa mới xẩy ra bốn vụ cướp máy bay và giết 3 ngàn người ở Mỹ.
Sau khi Fida thuyết phục được ông bố lẫn cô gái, nàng dâu tương lai chia tay bố mẹ, ba người chị và bốn người anh ở Yemen để theo Fida và bà vợ tên Nabila qua Afghanistan gặp chú rể. Trước tiên họ tới Sanaa, thủ đô Yemen, rồi tới Karachi, thành phố biển của Pakistan. Từ đây, họ cắt biên giới ở Quetta để vào Afghanistan, nơi bin Laden đang chờ đợi. Đám cưới được tiến hành ngay trong doanh trại, do đảng viên al-Qaeda phụ trách tài chính tên Mustafa Abu al-Yazid đứng ra lo liệu. Đây là nghi thức chỉ có sự hiện diện của giới mày râu; cô dâu đã ưng thuận bằng cách băng rừng lội suối từ Yeman qua, nên không phải có mặt trong buổi lễ theo cung cách Hồi giáo phái Sunni. Phe đàn ông ca hát, ngâm thơ, giết cừu và đun cơm để hành lễ, trong khi cô dâu và cánh phụ nữ tham dự một mâm tiệc đơn sơ hơn, ở căn nhà khác gần đó.
Sau khi các máy bay bị cướp đâm vào Trung tâm Mậu dịch Thế giới và Ngũ Giác Đài được vài hôm, Amal Ahmed sinh đứa con gái đầu lòng, đặt tên Safiyah.
Lawrence Wright, nhà báo kiêm tác giả cuốn “Ngọn tháp mờ ảo: al-Qaeda và con đường dẫn tới vụ 911” đã viết: “Dù sống riêng rẻ như thế, quan hệ giữa các bà vẫn không tránh khỏi va chạm. Khi al-Sadah được thêm vào đại gia đình hồi 2000, các bà lớn đã lời chanh tiếng ớt ồn ào, đến mẹ của hắn cũng phải lên tiếng rầy la”.
Nhiều tờ báo Anh trích dẫn một câu nói về chế độ đa thê và gắn cho bin Laden là tác giả nhưng chúng tôi không thể kiểm chứng; có lẽ chỉ là một sự khôi hài: “Một vợ thì chắc ăn và an toàn như đi bộ. Có hai vợ cũng giống như đi xe đạp, nhanh hơn nhưng không ăn chắc mặc bền. Có ba bà chẳng khác đi xe ba gác, vững, nhưng chậm ì ạch. Nhưng khi bốn vợ thật lý tưởng, ta có thể vượt tất cả mọi người, nhưng cũng lắm tai ách.”
Chết đi, Osama bin Laden đã để lại nhiều bí mật cho nhân loại tìm tòi, khai phá. Ngày 13/05/2011, hai ký giả Mark Hosenball và Tabassum Zakaria của thông tấn xã Reuters tiết lộ rằng trong số tài liệu do biệt hải Mỹ tịch thu từ căn biệt thự của OBL tại Abbottabad, các nhà điều tra quân sự đã tìm thấy cả một ngăn bí mật chứa các phim video khiêu dâm. Chính quyền Mỹ chưa khẳng định số phim ảnh khiêu dâm nầy thuộc về ai trong căn biệt thự ba tầng, hoặc OBL có xem những phim ảnh ấy không. Các bản báo cáo cho hay căn biệt thự không gắn điện thoại hay internet, nên chưa ai có thể khẳng định bằng cách nào người trong nhà kiếm được những cuộn video ấy. Vừa rồi, một cuốn video do chính quyền Mỹ phổ biến cho thấy bản thân bin Laden sử dụng máy VCR để xem lại băng ghi hình của chính mình. Ba viên chức khác trong chính phủ có phận sự điều tra các phần tử Hồi giáo quá khích nói họ không ngạc nhiên vì các phim ảnh khiêu dâm tịch thu được từ đám ấy không phải là chuyện họa hiếm.
Hiếm hay không, chuyện về OBL còn dài, và còn rất lâu mới đi vào quên lãng, như người Việt chúng ta thường nói:
“Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Luật đa thê trong đạo Hồi
Từ lâu nay, đạo Hồi bị chỉ trích vì cho phép đàn ông cùng một lúc được lấy nhiều bà vợ, là điều mà văn hóa phổ thông tây phương xem như phản tiến bộ, còn các tín đồ Thiên Chúa giáo gọi là sự chung đụng xác thịt bừa bãi, và các tổ chức phụ nữ quan niệm là bằng chứng của việc vi phạm quyền bình đẳng nam nữ. Ngược lại, tín đồ Hồi giáo lập luận rằng tôn giáo mà họ tín ngưỡng đã không cỗ vũ hiện tượng đa thê, trong khi hiến pháp của nhiều quốc gia đông phương thừa nhận tình trạng nhiều vợ: trong thời cỗ, người Babylon, người Assyria, và người Ba Tư không bị hạn chế về số vợ mà một người đàn ông có thể lấy. Bấy giờ, mặc dù đế quốc Hy Lạp và La Mã không là xã hội đa thê, nhưng hiện tượng thê thiếp khá thịnh hành và phổ biến, trong khi Hồi giáo điều tiết hiện tượng đa thê bằng cách hạn chế con số vợ mà mỗi ông được phép, cũng như áp đặt trách nhiệm mà ông chồng phải tuân thủ theo luật pháp. Đọc Cựu ước, chúng ta thấy các tổ phụ Do Thái đều là những người lắm vợ: Abraham có 3 bà, Moses 2 bà, Jacob 4 bà, David có ít nhất 18 vợ, còn vua Solomon lập kỷ lục với 700 bà.
Hôn nhân trong Hồi giáo là một thỏa thuận hoặc sắp xếp có tính pháp luật được bảo vệ bằng một văn bản thay vì là một phép bí tích theo quan niệm Thiên Chúa giáo, do đó, hôn nhân của tín đồ đạo Hồi quy định quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm cho mỗi thành viên phu thê. Con cái ra đời từ những ràng buộc hôn phối nầy được hợp pháp hóa và đồng đều thừa hưởng gia tài của cha mẹ. Mục đích chính của hôn nhân trong Hồi giáo là điều tiết sinh lý trong hôn phối cũng như tạo dựng một không khí để mở rộng vòng nối tiếp gia đình – một quan niệm hoàn toàn tương phản với tâm lý người phương tây. Kinh thánh Coran đoạn 4 câu 3 khẳng định: “Hãy cưới những phụ nữ mà con muốn, hai hoặc ba hoặc bốn; nhưng nếu con lo sợ sẽ không công bằng với họ, thì chỉ cưới lấy một thôi”. Hôn nhân và đa thê trong Hồi giáo là một thỏa thuận song phương, không ai cưỡng bức một người nữ phải lấy một ông đã có vợ làm chồng. Nói cách khác, đạo Hồi cho phép nam tín đồ được lấy nhiều vợ, nhưng tín lý Hồi giáo không áp đặt hay đòi buộc chế độ đa thê. Ngược lại, dù Hồi giáo cho phép chế độ đa thê, nhưng trên thực tế, rất hiếm đàn ông chọn cuộc sống nhiều vợ trong các xã hội Hồi giáo. Một số nhà nghiên cứu ước lượng rằng con số đàn ông đồng thời có trên một bà vợ chỉ chiếm không quá 2%, vì phần lớn họ cảm thấy cùng một lúc khó để bảo toàn cho hơn một mái gia đình. Ngay cả những thành phần có khả năng tài chính để lo toan cho hai ba bà cùng lúc, họ vẫn không khỏi ngần ngại khi tính tới những gánh nặng tâm lý phải chu toàn cho hơn một bà. Từ suy nghĩ đó, con số đàn ông đa thê trong thế giới Hồi giáo ít hơn rất nhiều so với đàn ông tây phương chê “cơm” nhà để ra đường vụng trộm món “phở”. Nói cách khác, trái với cách suy diễn dựa trên sự dung tục của tôn giáo, trong các nước Hồi giáo ngày nay, đàn ông tuân thủ cuộc sống đơn thê đông hơn nam nhi trong xã hội tây phương – chỉ trừ một thiểu số như Osama bin Laden.
NgyThanh