SỰ BIẾN CHẤT CỦA VĂN HÓA VÀ TÌNH YÊU
SỰ BIẾN CHẤT CỦA VĂN HÓA VÀ TÌNH YÊU
Nguyễn Hữu Nghĩa
Chúng ta đã tìm được cội nguồn của Văn Hóa và Tình Yêu, ta vui mừng vì nguồn gốc đó là hoa trái được sinh ra từ sự sáng tạo của Thiên Chúa; từng bước một hoa trái này sẽ tiếp tục triển nở trong kế hoạch ân sủng. Ngắm nhìn các tạo vật, Ngài hài lòng vì chúng thật đẹp đẽ, hoàn hảo.
Loài người – tạo vật được tạo ra sau cùng lại là loài duy nhất hưởng ân huệ để phản ánh được đôi nét về lương tâm và trí tuệ của Thiên Chúa, để kết nối với Thiên Chúa, là tạo vật có thể hình đẹp hoàn hảo, được cài đặt một lương tâm biết phân biệt sự lành sự dữ, một tinh thần tự do để toàn quyền chọn lựa, một ý thức bác ái để nếu cần sẽ quả cảm hy sinh, một khả năng khái quát về sự liên tục của thời gian nhằm liên kết các thành phần của chúng lại để tạo thành và ghi nhận lịch sử; có khả năng tư duy trừu tượng để sáng tạo không mệt mỏi, được trang bị một tâm hồn sâu rộng để đón nhận những nhận thức tâm linh, có khả năng suy nghĩ đến tương lai nhằm hoạch định con đường sẽ đi, suy nghĩ về quá khứ để tìm dấu vết sự sáng tạo, hướng về nhau cho Tình Yêu đơm hoa kết trái và quy về Thiên Chúa theo cách thờ phượng thanh sạch như một biểu lộ của lòng biết ơn. Tất cả những đặc quyền, những ưu ái trên được Thiên Chúa kết hợp với nhau một cách phi thường trong sáng tạo để dành riêng cho loài người – loài tạo vật độc nhất vô nhị có đủ khả năng nhận quyền quản lý muôn loài trên trái đất(1).
Nhưng chính hai loài thụ tạo được phú cho sự hiểu biết nhất lại khiến Thiên Chúa đau đớn, nỗi đau lớn theo thời gian, lớn dần đến độ Ngài đã tự trách vì đã tạo nên loài người (2). Ðây là nỗi đau đầu tiên của Ngài kể từ khi khởi đầu sự sáng tạo; nó đã xảy ra vào một buổi sáng trong vườn Ðịa Ðàng; khi hai loài, một loài thể thần linh đề nghị một kế hoạch, một loài thể xác thịt ủng hộ kế hoạch đó và đã cùng liên kết với nhau chống lại Cha của họ – Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nếm mùi vị cay đắng của sự phản bội bởi chính những người con yêu dấu, những đứa con mà Ngài đã đặt vào đấy các kế hoạch lớn lao cho tương lai của vũ trụ, vì trong sự sáng tạo loài người được lập trình để sẵn sàng cho môi trường hưởng sự sống đời đời kèm theo với chỉ một điều kiện độc nhất là “vâng lời”, cho chỉ một điều luật duy nhất là không ăn trái của một loại cây đã được chỉ định chính xác để không thể nhầm lẫn (3).
Ðiều cần phải nhắc lại là không hề có sự cưỡng bách phải vâng lời, loài người có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận điều luật ấy, Ngài chỉ tuyên bố hậu quả không thể miễn trừ khi đã chọn lựa để loài người biết rõ trước khi quyết định, điều Ngài tuyên bố công khai chính là luật về sự chọn lựa trong tự do; vì rằng Thiên Chúa chỉ chấp nhận sự vâng lời trong tự do cũng như chỉ trong tự do sự vâng lời mới có giá trị đích thực. Như vậy, loài người trong thái độ đáp trả đầu tiên với Thiên Chúa, trong tự do đích thực đã tự nguyện chọn lựa điều mình muốn. Họ đã chọn thế nào? Với đầy đủ tự do ý chí, bằng hành động dứt khoát rất cụ thể loài người đã đơn phương hủy bỏ điều Thiên Chúa giao kết với họ. Họ đã chọn sự bất tuân trong một ý thức rõ rệt về hậu quả (4). Loài người không chấp nhận đồng hành cùng Thiên Chúa nữa; để thực hiện tham vọng, họ đã chọn chủ khác để thờ!
Khi hành vi bất tuân thực hiện hoàn tất; ngay lập tức, tòa án công lý được thiết lập, đã không thể tìm được bất kỳ một lý lẽ nào có thể biện hộ cho hành vi của kẻ xúi giục lẫn kẻ nghe theo lời xúi giục vì kẻ nào cũng chọn lựa cho mục đích riêng mình. Sự công bằng được thực thi không hề chậm trễ, hậu quả tất yếu phải xảy ra. Sự phản bội trong tự do, tự nó đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời và di lụy đến hậu duệ muôn đời của những kẻ phản bội.
Sự chọn lựa của loài người không đơn giản chỉ là sự chọn lựa đơn thuần, cũng không đơn giản chỉ là sự ngây thơ nghe theo lời xúi giục mà có mục đích rõ ràng. Nội dung chính của sự chọn lựa là thể hiện một thái độ, một lập trường đối với việc vâng lời, là việc không tin vào sự chính trực của Thiên Chúa, là việc thách thức hậu quả xảy ra, là việc liên kết với một thế lực khác nhằm xóa bỏ luật vâng lời dù chỉ có một điều khoản duy nhất. Loài người từ bỏ vị trí được đặt định là dưới một Ðấng nhưng trên muôn loài để đòi vị trí ngang bằng Thiên Chúa.
Muôn loài theo lập trình từ thuở sáng tạo đã và vẫn đang tuân thủ luật lệ thiên nhiên một cách hoàn hảo, bất kỳ tình huống nào chúng vẫn thể hiện tràn trề tự do dẫu chỉ mang tính bản năng. Với chúng, bản năng hướng dẫn sự chọn lựa và vạch sẵn lộ trình cho lẽ sinh tồn.
Riêng loài người – vật thụ tạo siêu đẳng, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa có ý nghiã là trong các loài được dựng nên trên mặt đất thì loài người và chỉ loài người mà thôi, là sinh vật duy nhất được tạo dựng có đặc ân ý thức sâu sắc về sự hiện diện của chính mình, ý thức chuẩn xác về các quy luật vũ trụ cũng như nhiệm vụ và quyền hạn được trao (5). Thật vinh hạnh cho loài người khi được Thiên Chúa mời gọi trở thành cộng tác viên để cùng Ngài quản lý vũ trụ này, tiếc thay loài người đã từ chối lời đề nghị ấy bằng cách liên kết với Satan(6) để tạo thành một liên minh thế lực chống lại sự quản trị của Thiên Chúa. Hậu quả thật nhãn tiền và đích đáng làm sao! Cái chết đã làm tan vỡ mộng thần linh và đưa loài người trở về chỗ nó từ đó mà ra (7). Sự phản bội được trả công bằng sự chết (8); kể từ ấy, loài người bước đi trong đau khổ, trong bóng đêm muôn trùng của sự chết.
Có ai đó và cả tôi nữa, vì sự chọn lựa của mình hoặc vì trong những hoàn cảnh bất hạnh của cuộc đời đã bị xô đẩy đến quẫn bách, khốn cùng, những lúc buộc phải trải nghiệm những đắng cay đã không ít lần âm thầm oán trách Thiên Chúa sao không dùng quyền lực buộc loài người phải vâng lời ngay từ đầu, sao lại cho loài người tự do như thế, sao Ngài không tuyên bố một cách cấm đoán mang tính cụ thể là “…ngươi không được ăn…” cho nó chắc chắn mà lại tuyên bố mang tính khuyên bảo là “… nhưng chớ ăn…” (9) khiến loài người đánh giá không đúng cái giá phải trả của sự bất tuân, hiểu sai đi sự nghiêm minh của lẽ công bằng. Ðỉnh điểm của sự vô ơn là khi hậu duệ của họ đặt câu hỏi “Có chân lý trong tay sao Thượng Ðế không thông đạt rõ ràng cho con người mà chỉ sẵn sàng trừng phạt các nghi ngờ của họ – Thượng Ðế đã chết” (10). Có điều gì không rõ ràng trong lời truyền dạy này “nhưng cây hiểu thiện biết ác thì chớ ăn, vì bất cứ ngày nào ngươi ăn vào ngươi sẽ phải chết”(11). Loài người chỉ muốn lập luận để bắt bẻ Ngài, họ không cần biết đến một giá trị tột cùng là tự do đã được trao cho họ. Họ không muốn trưởng thành nên đã dùng tự do để phán xét tự do. Với thái độ ấy, ác thần không còn gặp cản trở nào khi thống trị loài người.
Lời trách móc đã thủ tiêu tự do. Tự do là quyền cơ bản nhất, mọi quyền còn lại đều có nguồn gốc từ tự do. Lịch sử đã nhiều lần cho thấy một quy luật rất xác đáng là không có tự do, mọi thứ sẽ chấm dứt ngay, nếu còn điều gì đó, thì chỉ có thể là ân huệ hoặc là sự tồn tại cần thiết nhất thời chứ không phải là quyền. Kẻ nô lệ được sống không phải vì có quyền được sống, mà được ban ơn để tồn tại; cái giá để được tồn tại là vâng lời vô điều kiện hoặc chấp nhận như một thứ hàng hóa, như một công cụ. Sự đối xử ấy là thái độ tước đoạt tự do, làm mất đi phẩm giá con người. Những trang sử đau thương giữa người với người luôn khởi đầu bằng ý muốn cưỡng đoạt tự do của nhau; các giai đoạn chiếm hữu nô lệ, các chế độ độc tài và ngay các thể chế tự xưng là kiệt tác của nhân loại, tự do đích thực vẫn mờ nhạt ở phía cuối con đường. Trong tự do con người mới trở về đúng với phẩm giá vốn có ngay từ thuở sáng tạo. Quyền tự do khiến con người chính là người với ý nghĩa đích thực là chủ thể của tự do. Sự mất tự do trước tiên và nhẹ nhàng nhất là mất đi phẩm giá, nghiêm trọng hơn và quy mô hơn là khẳng định sự bất bình đẳng, sau đó là lệ thuộc và cuối cùng là tiêu vong, không chỉ cá nhân mà đôi khi cả một dân tộc.
Hãy suy nghĩ về tự do để ngẫm xem Thiên Chúa đã tôn trọng loài người đến thế nào. Ngài chỉ ký giao ước với loài người vì là loài được ban cho khả năng thấu hiểu về sự cao quý của tự do, vì lẽ đó tự do là yếu tố đầu tiên của giao ước, không có tự do giao ước sẽ trở thành mệnh lệnh được tuân thủ một cách vô hồn, vô nhân tính. Sự vâng lời ấy không đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài đòi hỏi sự vâng lời phải tự nguyện, sự vâng lời trong tự do và ý thức, trong chân thành và tin tưởng. Sự đòi hỏi ấy đã nâng loài người lên vị trí rất cao, cao đến mức Ngài đã ủy quyền để loài người quản trị muôn loài trên đất này, hơn nữa sự vâng lời sẽ phản ánh chính xác ý chí kẻ vâng lời nếu kẻ đó có tự do. Vì thế, Ngài đã không cưỡng bách mà chỉ khuyên bảo. Sự cưỡng bách là biểu trưng của bất bình đẳng, của mối quan hệ chủ ông với nô lệ, là việc buộc phải làm, là buộc phải tạo lợi ích cho ông chủ. Trong khi đó, sự khuyên bảo biểu đạt cho mối quan hệ nồng ấm tình yêu thương giữa cha với con, giữa bằng hữu với nhau, là việc nên làm, là việc tạo lợi ích đời đời cho kẻ vâng lời, kẻ trung thành trong tự do và trên tất cả là sự tôn trọng các khác biệt. Khi bị buộc phải chọn lựa, người ta nhắm vào cái phải chọn để giảm thiểu đến mức ít nhất sự tổn thất, khi tự do người ta sẽ nhắm vào kết quả của sự chọn lựa để đạt lợi ích tối đa.
Luật pháp là con đẻ của trí tuệ siêu đẳng, là sản phẩm riêng tư nhất dành cho loài người, là công cụ của tự do, là giềng mối của trật tự. Không có luật pháp, tất cả chỉ là hỗn độn; không thể và không bao giờ có tự do trong hỗn độn vì hỗn độn phản ánh tình trạng thiếu vắng ý thức, mà ý thức cùng với tự do lại chính là điều kiện tiên quyết của trách nhiệm. Không có luật pháp sẽ không có đúng sai, không có trách nhiệm, không có phán xử và đương nhiên là không có tội lỗi.
Luật pháp không sinh ra tội lỗi, nó là bằng chứng xác nhận là đã công bố những nhận thức rõ ràng và chính xác của xã hội về trách nhiệm hành vi của mỗi người khi thực hiện trong ý thức và tự do. Nó chỉ rõ ràng cho ta biết đâu là ranh giới của tội lỗi, nó giúp ta có ý thức về tội lỗi khi quy định cụ thể hành vi nào là hành vi phạm tội, phạm như thế nào và trong tình trạng nào là có tội. Hành vi vi phạm đã thực hiện trong ý thức và tự do sẽ đưa đến một hoặc nhiều kết quả mà hậu quả hoặc hình phạt của nó được quy định tại các điều luật cụ thể, theo cách hiểu đơn giản nhất chính là cái giá phải trả đã được thông báo trước.
Loài người trong ý thức và tự do đã tuyên bố sự chọn lựa. Hậu quả của sự chọn lựa lên tiếng, cái giá của nó là kể từ đấy họ buộc phải xa rời sự sống đời đời, phải đổ mồ hôi kiếm miếng ăn trong lúc chờ sự chết dần dần đến. Tổ tiên chúng ta bước ra khỏi Ðịa Ðàng với hành trang là sự hối tiếc muộn màng và lời hứa về tương lai của Thiên Chúa. Lẫn trong bước đi ấy, Văn Hóa và Tình Yêu đồng hành với ông bà trong tăm tối, đớn đau. Trên đất mới này, con người, Văn Hóa và Tình Yêu đã bị biến dạng đi để phục tùng chủ nhân mới – con rắn xưa.
Bước đi trong giai đoạn mới con người cũng khác đi, họ giảm dần lòng yêu mến Thiên Chúa và thay vào đó là việc yêu và tìm cái đẹp tuyệt đối nơi chính bản thân mình, họ sáng tạo một hình thức được xem là mặt đối kháng của Văn Hóa rất riêng biệt của loài người xuyên qua việc thờ phượng, có thể tạm gọi là sự nghịch đảo của Văn Hóa biết ơn hoặc đơn giản là “sự vô ơn”. Trong mộng ảo của hành trình đi tìm lại điều đã mất, họ kiến tạo một không gian huyền hoặc và cưỡng buộc đồng loại suy tôn mình như một thực thể thần linh của cõi bất tử, còn chính họ thì quỳ lạy các ác thần để có thể làm phép lạ mê hoặc lòng người (12). Ngay dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn dân cũng nhiều lần sinh lòng ngỗ nghịch, oán trách, tạo phản dù rằng chính họ vừa được Ngài dẫn qua khổ ải đắng cay(13). Ðiều thật lạ lùng là ngay một vị vua được Thiên Chúa yêu thương đến mức đã phú cho sự khôn ngoan nhất trong các vua thế gian cũng phản bội Ngài (14), sự phản bội không xảy ra trong lãng quên mà bằng cách xây đền thờ các ác thần để ông và các bà vợ cùng tế cúng. Họ đã phủ nhận Ngài. Họ không còn biết ơn.
Sự biết ơn là một hành vi đẹp. Trước tiên, nó là một thái độ trách nhiệm, nó ghi nhận cụ thể những gì tốt lành đã đến với mình, ghi nhận rằng những điều đó không phải do tự chúng ta có mà nó đến từ sự quan tâm của ai đó dành cho chúng ta. Biết ơn là thể hiện sự ghi nhớ về những ưu ái ấy; sự biết ơn không đòi buộc nhất thiết phải cân xứng với sự ban ơn; nó đơn giản lắm, đơn giản đến mức chỉ cần nhớ là mình đã thọ ơn, đồng thời thực hiện những gì đã hứa làm hoặc hứa không làm, thế là đủ! Sự biết ơn rất nhẹ nhàng, không hề mang tính cưỡng chế, không làm giảm giá trị kẻ mang ơn nhưng chính sự biết ơn đã nâng kẻ biết ơn lên, người biết ơn được xem là người có văn hóa, có giáo dục.
Thế nhưng lại vẫn có những kẻ không biết ơn. Ðấy là kẻ vô ơn. Có nhiều kiểu vô ơn như do quên lãng, do thiếu lòng khiêm nhượng, hoặc để phủ nhận mọi điều. Mỗi kiểu có hậu quả khác nhau, kiểu vô ơn sau cùng sẽ dọn đường cho sự chống đối như Kinh Thánh mô tả. Lịch sử loài người cũng không hiếm điều tương tự.
Sự vô ơn đầu tiên của loài người đã có một quá trình thai nghén, nó chứa đựng trong đó một nội dung và một hình thức; là một quyết tâm thực hiện sau khi đã suy nghĩ cặn kẽ, là sự hiểu biết rõ ràng về hậu quả của sự bất tuân; cho nên không thể nói rằng đó là hành vi nông nổi, ngây thơ hoặc thiếu hiểu biết. Khởi đầu là sự ngờ ngợ trong tâm tưởng, đây là động thái phải có trong tiến trình của sự nổi loạn tâm linh, một tâm linh vốn được tạo dựng tinh khôi ngay từ thuở ban đầu, tâm linh ấy sạch sẽ, tinh tuyền, thanh khiết, trong vắt. Sự ngờ ngợ ấy tăng dần theo sự khuyến dụ hằng ngày của con rắn – tiêu biểu cho Satan, thủ lĩnh nhóm thần linh âm mưu chống lại Thiên Chúa.
Con rắn khi đã buông lời vu khống sự thành thật của Thiên Chúa(15), nó biết rõ là không còn lối quay về nên càng ra sức cám dỗ. Nội dung cám dỗ thật ngắn gọn là chỉ thực hiện một hành vi cực kỳ đơn giản, tổ tông sẽ trở thành thần linh bất tử quản trị muôn loài trên trời dưới đất. Trước sự cám dỗ chết người quá ngọt ngào ấy, thay vì lên án nó, chống cự nó thì tổ tông đã dần dần xiêu lòng tin vào điều con rắn nói. Ðã tin con rắn tức là nghi ngờ Thiên Chúa. Tâm linh thanh khiết bắt đầu nhuốm mầu, sự ngờ ngợ gia tăng liều lượng trở thành nỗi nghi ngờ, đến một thời điểm nỗi nghi ngờ đủ mạnh sẽ trở thành niềm tin; theo thời gian tâm linh không còn tinh khôi nữa mà đã mang một mầu sắc xác định. Ý tưởng đã chín được chuyển hóa thành hành động.
Một quyết tâm hành động trong ý thức và tự do đã khiến bàn tay đưa ra hái trái cấm. Vợ chồng cùng ăn trong thái độ đồng phạm tích cực. Sự phản bội đã được thực hiện hoàn tất. Người nữ đã tin con rắn hơn tin vào Thiên Chúa, người nam đã nghe lời vợ hơn nghe lời Ðức Chúa Trời. Cả hai cam tâm là công cụ cho con rắn sử dụng để trở nên yếu tố cốt lõi giúp âm mưu đảo chánh Thiên Chúa thành công. Một liên minh mới được hình thành.
Việc tạo ra muôn loài nhưng mỗi loài có sự khác biệt là ý định của Ngài vì mỗi loài được giao một nhiệm vụ riêng biệt. Loài người có việc của loài người, thần linh có việc của thần linh nên việc các thần linh đã bị xiềng xích nơi tối tăm do không giữ đúng phận mình thực chất cũng là một cuộc nổi loạn (16). Như vậy, đã có hai sự phản bội xảy ra, một trong Ðịa Ðàng và một ở trên trời. Hai sự kiện này như là các bước liên hoàn trong âm mưu đảo chánh. Sự vô ơn cứ tiếp diễn liên tục trong lịch sử, nó trở nên quá nặng nề đến nỗi Thiên Chúa đã phải kêu lên trong đau thương: “Con kính hiếu cha, tớ kính chủ mình; nếu ta là cha thì lòng hiếu thảo ta đâu? Còn ta là chủ sự kính úy ta chỗ nào?”(17).
Sự vô ơn xuất hiện như tiền đề của lý thuyết về sự phản bội, dường như sự phản bội nào cũng có gốc gác xa gần với sự vô ơn, sự phản bội trong hạn định nào đó vẫn hàm chứa một thái độ công nhận sự tồn tại của người bị phản bội. Nhưng cha đẻ của nó là sự vô ơn đã đi đến tận cùng của sự phủ nhận khi nó khai tử cả người bị phản bội. Phủ nhận quyền cai trị là bước khởi đầu cho việc phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tổ tông đã thực hiện điều này qua liên kết với con rắn xưa nhằm cách ly Ngài với thế giới loài người; họ sống theo lối sống tùy thích, họ không quan tâm đến luật pháp của Ngài, họ xem Ngài như là một cản trở của cuộc sống.
Trong vũ trụ bao la, quyền năng Ngài vẫn rạng tỏ nơi nơi, dấu ấn sáng tạo trong cuộc sống muôn loài không hề phai mờ. Ngày tiếp nối ngày, họ vẫn thụ hưởng từ sự sáng tạo những yếu tố tiên quyết của sự sinh tồn. Họ vẫn nhìn nhưng không thấy, vẫn nghe nhưng không hiểu. Họ không đón nhận nên Ngài đành rời xa, đành lưu vong trong thế giới loài người và chỉ còn hiện diện trong tâm hồn những ai đơn sơ, bé mọn.
Các nghi thức cúng tế được dựng nên càng lúc càng xa rời sự dạy dỗ ban đầu, họ không cần biết điều răn cơ bản nhất là thờ phượng Thiên Chúa, sự thờ phượng đã biến thể đi để trở thành như một sự trao đổi giữa họ với các thần linh, cách thức của sự cúng tế đã đi đến tận cùng của man rợ có lẽ được đúc kết lại từ những hướng dẫn của đồng cốt trong cơn mê sảng(18).
Kẻ cầm quyền khẳng định với cộng đồng rằng họ là đối tác của thế giới các thần linh, họ buộc mọi người phải nhìn nhận họ là con Trời; qua đồng cốt, cầu đảo, qua lý thuyết về chân mạng đế vương, họ dẫn dụ mọi người đến niềm tin rằng chỉ có họ mới tiếp xúc được với thần thánh để hình thành một liên minh cai trị, với tư cách con Trời họ cai trị trên đất này như một lẽ đương nhiên. Họ cư xử nói năng như chính họ là thần linh, là chân lý. Vì vậy, họ tự cho là có toàn quyền quyết định về sinh mạng và tài sản của mọi thần dân, họ đắm chìm vào ảo tưởng đó và tự nâng mình lên quyền lực ngang bằng với các thần linh họ tôn thờ.
Họ tạo ra nhu cầu tâm linh cho đồng loại và khiến buộc đồng loại quay lại thờ phượng chính bản thân họ; họ tìm muôn vàn cách thức để khám phá, để tìm cho ra các phương cách ăn, uống hoặc luyện tập nhằm đạt được trường sinh bất tử dù có phải hy sinh đến đâu cũng được miễn là có đôi chút hy vọng. Ðể thần thánh hóa bản thân, họ nô dịch đồng loại trong gông cùm và khổ dịch; họ cuống cuồng tìm kiếm trong vô vọng sự trường sinh tổ tiên đã đánh mất dẫu có phải hy sinh hàng hàng lớp lớp con người.
Ðể phục vụ niềm tin hoang tưởng nơi cõi đời hữu hạn này, không tội ác nào khiến họ sờn lòng, dù nướng người trong lửa đỏ tế thần, dù chôn sống cả vạn người chỉ để tin rằng sẽ có kẻ hầu người hạ trong thế giới bên kia, cưỡng buộc người ta lên núi cao, xuống biển sâu hay lang thang trong rừng thiêng nước độc để tìm thần dược; họ báng bổ chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên vì thản nhiên báo trước sự già nua họ đang dần đến, họ khởi động chiến tranh như một tuyên bố về sức mạnh thần thánh đang ủng hộ họ, họ cầu xin các thần linh chứng giám cho sự tàn ác khi chiến thắng, cho tấm lòng thành kính khi họ nhân danh sự thần thánh của chính họ mà tiêu diệt đồng loại. Bao xác người ngã xuống cho bài ca man rợ được cất lên, họ ca khúc khải hoàn trên hoang tàn đổ nát, họ xây dựng các tượng đài để ghi nhận công trạng, xây lăng tẩm, ướp xác mong ngày hồi sinh trong nỗi hưng phấn cuồng điên. Họ không tìm sự vĩnh hằng nơi Thiên Chúa mà tìm trong chính công việc họ làm. Do vậy, chúng ta không thấy lạ lùng khi lịch sử cho thấy, trong những giai đoạn cụ thể, tại một số quốc gia, các kẻ cai trị đã thần thánh hóa bản thân mình; tạc hình, đúc tượng, lập biểu tượng hoặc lập đền thờ những sinh vật nửa người nửa thần linh; hoặc trong các truyền thuyết xa xưa, thần thánh trên trời cũng chia phe chia phái và xuống trần gian ủng hộ các kẻ cai trị dưới đất tranh giành quyền lực lẫn nhau. Sự hoài niệm ấy hẳn phải có một duyên khởi.
Âm nhạc, hội họa, điêu khắc… vốn có sẵn trong thiên nhiên, con người mô phỏng theo, đã lấy thiên nhiên làm thành chất liệu cho các sáng tạo Văn Hóa nhưng trong giai đoạn khởi đầu là nhắm đến mục đích ghi lại dấu ấn công trạng và nỗi ước ao bất tử của con người trong tiến trình lịch sử.
Cùng song hành với sự vô ơn, một cách sống buông thả được xã hội thời ấy hưởng ứng nhiệt liệt, Tình Yêu đã không còn giữ được sự thánh thiện buổi ban đầu, sự trụy lạc trong tâm tưởng, sự đổi thay man rợ trong cách thức ham muốn nhục dục đã làm biến thái đến kinh hoàng diện mạo nguyên thủy của Tình Yêu, đến đời sống tình dục lứa đôi; nó khởi xướng cho loại tình đồi trụy hay nói cho gọn ghẽ là “sự đồi trụy”, một loại tình không phải Tình Yêu mà đơn thuần chỉ là tình dục(19). Ðây là điều trái luật lệ tự nhiên.
Thiên Chúa không cho phép sự đồi trụy ấy, sự làm lệch lạc các công trình sáng tạo của Ngài, Ngài thấy lòng người luôn luôn quy hướng về ngang trái nên buồn rầu đến nỗi quyết định tiêu diệt họ. Vì không còn ai công chính nên tất cả đã chết hoặc bị giam cầm (20) ngoại trừ gia đình Nôe – một gia đình công chính duy nhất, được chọn để tiếp tục thờ phượng Ðức Chúa Trời và sinh sôi nẩy nở như ý định ban đầu.
Sự đồi trụy không vì thế mà dừng lại, theo thời gian nó lại thay đổi càng lúc càng vô luân, càng lúc càng đi ngược lại với tự nhiên.
Thành Sodom, nơi gia đình ông Lot sinh sống đã bị kết án phạt; để cứu cháu mình, Abraham đã trả giá với Thiên Chúa. Chỉ cần trong thành có 10 người công bình là án phạt sẽ được hủy bỏ, thế nhưng không thể tìm đâu ra và cuối cùng chỉ có vài người trong gia đình Lot được sống sót. Dân thành này đã đồi trụy, vô luân trong tình dục(21). Là những kẻ đồng tính dục nam, họ đã đổi cách tự nhiên ra cách quái dị (22) nên đã nhận lấy sự đoán định tương xứng.
Ðể ngăn ngừa những việc tương tự có thể xảy ra, luật Môisen đã ghi thật cụ thể (23) tỉ mỉ từng hành vi. Ðây là bộ luật độc nhất vô nhị trong lịch sử.
Tuy vậy, luật pháp cũng không thể ngăn ngừa sự vi phạm dù rằng hình phạt rất rõ ràng; tâm tính con người luôn hướng về nhục dục; ngay cả vua chúa quyền cao đức trọng, được hưởng vô vàn ân huệ nơi Thiên Chúa cũng vô ơn, vẫn ngả lòng theo sự vô luân, đồi trụy.
Ðavit – là vị vua luôn vâng lời Thiên Chúa, cuộc đời ông như một bản tụng ca dâng lên Ngài, dân chúng thấy ông làm điều gì cũng tốt lành nên xưng tụng ông là vua thánh, ông còn là tổ phụ của Ðấng Cứu Chuộc vì dòng dõi ông được chọn lựa để Chúa Giêsu sinh hạ. Một nhân vật hiển hách như thế thật không nhiều, nhưng cũng chính ông đã phạm tội lấy vợ người và giết người cũng chỉ vì sự vô luân, ông có nhiều vợ và nhiều hầu thiếp lắm, nhưng chỉ một phụ nữ ông chợt thấy trong tình cờ cũng đủ khiến tà tâm nổi dậy. Với tư thế là vua, ông đã chiếm đoạt thể xác nàng rồi lập mưu ác để khiến chồng nàng – một người trung nghĩa đã phải chết để ông bình thản thỏa mãn dục vọng. Khi đã về già, hằng ngày đều có một gái trẻ đẹp đồng trinh nằm trong lòng ông để sưởi ấm (24), nhưng ông đã quá mệt mỏi. Không thể nói ông không biết, không nhớ luật pháp.
Rồi con ông, Salômon lên làm vua, hơn cả ông, con ông được hưởng một ân phước lớn lao là có sự thông minh vô tiền khoáng hậu. Ông nổi tiếng khắp nơi đến nỗi kẻ tự xưng là thần linh – Pharaon – vua của một đế chế hùng mạnh thời cổ đại đã gả con gái cho ông. Ông có 300 hoàng hậu chưa kể cung tần mỹ nữ; sự khôn ngoan và giầu có không thể nào tả xiết. Có thể nói ông đã có tất cả những gì trên thế gian có, hơn thế nữa, ông còn có những điều chỉ riêng ông mới có.
Con người mà tên tuổi gắn liền với một triều đại huy hoàng bậc nhất trong lịch sử, con người mà cuộc đời đi liền với ân sủng, con người ấy đã khiến người ta tưởng rằng không thể có bất kỳ điều gì khiến bị vấp phạm, sa ngã. Ấy vậy mà vẫn có thể phản bội Ðấng đã yêu thương ban đầy ân sủng chỉ vì những lý do rất đời thường.
Trong những người vợ của ông, có một số là người ngoại đạo, họ thuộc về các dân tộc khác và thờ cúng thần của họ. Dù có rất nhiều vợ, nhưng khi về già Salômon đã mê muội những người vợ vô luân đó đến mức phản bội lại Thiên Chúa bao năm ông đã phục vụ, suy tôn và kính thờ. Giống như Ađam, ông đã tin vợ hơn là tin Thiên Chúa.
Trong mỗi con người, dù ở vị trí nào, dẫu cao trọng đến đâu cũng vẫn thừa kế trong tâm tưởng sự phản bội nguyên thủy của tổ tông. Ai tưởng rằng đang đứng vững, hãy cẩn thận vì có thể ngã bất cứ lúc nào.
Sự vô ơn, sự vô luân, đồi trụy vẫn tiếp tục trượt dài mặc cho các đấng tiên tri khản lời kêu gọi. Mọi cảnh báo chỉ như tiếng kêu trong vô vọng. Mọi dân tộc, mọi thế hệ đã sống như không hề có pháp luật, không có sự phán xét của ngày chung thẩm. Họ cứ ăn, cứ uống, cứ vô ơn, cứ vô luân cho đến lúc rời bỏ cuộc đời.
*****
Thiên Chúa lên án những kẻ thực hành các hành vi bị cấm đoán trong lãnh vực tình dục, nhưng lời Ngài đã bị chế nhạo và không còn bị xem là cấm kỵ trong thế giới ngày nay, nó vi phạm không thèm lén lút, nó công khai như một đối kháng với đời sống đạo đức, nó thách thức lương tri con người. Nó không còn nhỏ lẻ trong phạm vi cá nhân; những cơn mê sảng tập thể, đồi trụy tập thể, vô luân tập thể đang trở thành một trào lưu xã hội, một cách sống; đã có những nơi chính thức công nhận nó, luật hóa nó để trở thành một quyền. Sự đồi trụy, vô luân trở thành bình thường trong xã hội. Nó đã đi rất xa.
Sự vô ơn cũng thế, không một nơi nào thoát khỏi, nó len lỏi đến từng tế bào của xã hội, từng con người cụ thể, nó công khai như một bản lĩnh đối phó, nó hiên ngang ngẩng mặt như một kỳ tích, nó tàn phá mọi giá trị đã dầy công vun xới. Sự vô ơn cũng không thèm nép mình trong sự nhỏ lẻ cá nhân nữa, nó bành trướng có lẽ còn rộng lớn hơn cả sự vô luân. Nó không thể trở thành một quyền nhưng vẫn là một nguyên tắc lớn trong cách xử sự của những kẻ không quan tâm đến lẽ công bằng. Nó đã đi rất xa.
Loài người bằng thái độ và hành động đã xa rời những chuẩn mực đạo đức, hơn thế nữa đã miệt thị các giáo huấn, chế giễu niềm tin để băng mình vào chốn hư không.
Loài người tìm trăm phương nghìn cách để xa rời Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn yêu thương và mời gọi trở về. Sự trở về cực kỳ đơn giản, chỉ cần lòng ăn năn, chân thành thống hối. Loài người thường không thích ăn năn, ăn năn nếu có thì chỉ xảy ra khi hậu quả lớn hơn khả năng sắp xếp, có lẽ họ chỉ ân hận đã vì đã không thể thực hiện trọn vẹn điều muốn làm. Tình Yêu Thiên Chúa do vậy vẫn chỉ là Tình Yêu đơn phương, người ta chỉ nhớ đến Ngài khi bất hạnh, thậm chí đôi khi đã nguyền rủa vì cho rằng Ngài đã tạo ra đau khổ cho thế gian này. Họ quên rằng chính họ đã nhân danh hòa bình để khởi động chiến tranh, nhân danh sự thịnh vượng để thẳng tay bóc lột, nhân danh sự phát triển để phá nát trái đất này và nhân danh công lý để thống trị đồng loại.
Thiên Chúa là Tình Yêu nên vì Tình Yêu đã không bỏ rơi chúng ta, và Ðức Giêsu theo lệnh Ngài đã khởi động một công cuộc vĩ đại, đánh dấu sự ra đời một kỷ nguyên mới của ơn Cứu chuộc. Kế hoạch giải cứu loài người được vạch ra ngay khi tổ tiên phạm tội và cái chết của con Ngài đã mở đường cho sự trở về của những tâm hồn lầm lạc. Cái chết của Ðức Giêsu giúp chúng ta tìm về cội nguồn của Văn Hóa trong niềm tin, đồng thời chứng minh cho Tình Yêu bất diệt Thiên Chúa dành cho loài người.
Sâu rộng thay Tình Yêu Thiên Chúa!
Sự hy sinh, sự vâng lời cho đến hơi thở cuối cùng đã khiến đất, trời rúng động; màn đêm buông xuống khi Ðức Giêsu sinh thì như một bất bình trước nỗi oan khiên. Trước sự vâng lời tuyệt đối ấy, trước lời nguyện cầu thiết tha xin Cha thứ tha cho nhân loại, trước cái chết tức tưởi nhưng vô cùng can đảm ấy, mỗi người trong chúng ta nên tự hối ăn năn. Ðức Giêsu đã chết cho người mình yêu.
Sâu rộng thay, Tình Yêu Thiên Chúa!
Cái chết thần thánh ấy đang phát huy hiệu quả, kết quả đang âm thầm triển nở.
Mọi thứ rồi sẽ qua đi, riêng Tình Yêu còn đọng lại đến đời đời.
Cuối cùng, Tình Yêu đã chiến thắng.
Nguyễn hữu Nghiã
15.8.2008
Ghi chú : các ghi chú trên đây trích dẫn từ bản dịch Kinh Thánh của Lm Trần đức Huân, NXB Thánh Kinh Thiện Bản, xuất bản năm 1971.
(1) St: 1.26 (2) St: 6.6 (3) St: 2.17 (4) St: 3.2-3
(5) St: 1.6 (6) Kh: 12.9 (7) St: 3.19 (8) Rm: 6.23
(9) St: 2.17 (11) St: 2.17 (12) Xac: 7.11 (13) Xac: 32.4
(14) 1V: 11.4-8 (15) St: 3.4 (16) 2Pr: 2.4-5 (17) Mlk.6
(18) 2V: 21.3-6 (19) St: 6.2-3 (20) 2Pr: 2.4-5 (21) St: 19.4-10
(22) Rm: 1.26-27 (23) Lv: 18.22-23 (24) 1V:2-3
(10) Mạnh Tường, Nietzche – Cuợc đ đời va triết lý, Nxb Ca Dao (nguồn : Vnthuquan.net)