Văn Thi Sĩ Dưới Chế Độ Đồng Loại Ăn Thịt Người – Lu Hà

 Văn Thi Sĩ Dưới Chế Độ Đồng Loại Ăn Thịt Người

Nếu muốn trở thành thi sĩ thực sự trong lòng nhân thế, thì hãy quên đi hai chữ danh vọng. Danh vọng tiếng tăm người đời thường ham muốn; nhưng cũng chính nó sẽ giết chết hồn thơ và cảm hứng sáng tác. Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương,  Tản Đà, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử v.v   đã để lại cho chúng ta những kiệt tác bất hủ lưu danh thiên sử ngàn thu. .Trong khi đó các ông lại nghèo xác xơ. Có những người làm thơ ra, thiên hạ còn coi thường không thèm đọc. Chỉ còn thời gian là sàng lọc, khi trí tuệ cảm nhận lên cao thì thiên hạ mới nhớ  tới các ông. Than ôi, các ông đã là người thiên cổ từ lâu rồi.Nhưng không ai có thể sau một đêm ngủ dậy mà trở thành thi sĩ.  Ngày xưa, thường phải học hành lấy sự nghiệp quan trường làm chính. Nhưng khi đã làm quan to thì các ông lại chẳng sáng tác ra được một bài thơ nào cho nên hồn. Chỉ khi đã bị thất sủng, bị đày đoạ ra biên cương, chỉ khi đã bị đẩy xuống tận cùng cuả đau khồ thì tâm hồn các ông mới trỗi dậy, khóc thương, lồng lộn đòi cuộc sống, đòi văn thơ.

Thi ca là kho báu tâm hồn cuả những người nghèo, chứ không phải cho người giàu. Người giàu đã có vàng bạc tiền cuả rồi, họ cần thi ca để làm gì? Có chăng chỉ  là đua đòi đánh si cho bóng cho cái mặt mình thêm dày thêm bóng mà thôi mà thôi. Thật nực cười cho cả những đao phủ giết người trong nháy mắt, những Gangster, những trùm băng đảng khủng bố, hay những con yêu dâu xanh cũng tự nhận mình là văn thi sĩ, thậm chí còn ăn cắp thơ người khác bắt mọi người ca ngợi, học tập. Khi đọc một bài thơ ta thấy những gì? Những câu, những chữ, những vần, những điệu, những ý nó liên kết với nhau như một nhịp cầu, nghe như có hơi thở đều đặn cuả một linh hồn, xa xa như làn sóng thủy triều mênh mông vô tận…Thế mới gọi là thơ. Đọc một bài thơ chỉ thấy chữ thấy câu , những chữ ta đã nghe nhàm chán như trong nghị quyết chỉ thị cuả đảng thì đó có phải là thơ đâu. Lắm chữ nhiều từ nhưng rời rạc tối nghiã, cố tạo ra sự mập mờ khó hiểu để người ta nhầm lẫn là cao siêu lắm. Ta hãy nghe anh chàng Phạm Tiến Duật làm thơ: „ Xe không có kính, không phải vì xe không có kính- Đạn nổ bom rơi kính vỡ đi rồi“ .Cũng giống như „ Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi- Con cóc nhảy đi, con cóc ngồi đó.“. Họ làm thơ như vậy đó, nó trối tai quá, chẳng có hình ảnh trí tuệ , trí tưởng tượng gì cả. Họ còn bảo Phạm Tiến Duật là viện sĩ hàn lâm cuả đảng, cuả dòng thơ cách mạng yêu nước chống Mỹ. Tố Hữu chỉ làm thơ con cóc thôi mà cũng được phong là đại thi hào ngang ngưả với Nguyễn Du. Cái khốn nạn thi sĩ và danh vọng là ở chỗ đó. Làm thơ không phải vì tâm linh tâm hồn vì nghệ thuật sáng tạo mà chỉ vì tuyên truyền chính trị, biến những khẩu hiệu suông tẻ nhạt thành những bài vè có mùi mắm tôm, mắm ruốc, dưa khú mà vẫn phải bịt mũi khen hay do áp lực cuả cường quyền và súng đạn. Tôi phê phán thẳng cánh, và rất khó chiụ khi phải đọc những bài thơ như vậy. Ngực họ đã đầy huân huy chương sáng loé lên rồi hoặc với những tấm biến treo cao rất oai chủ tịch đảng,chủ tịch nước, uỷ viên bộ chính trị mà vẫn chưa đủ còn phải nhất quyết kèm theo cái thẻ thi sĩ dán ở túi áo nưã  thì mới thoả mãn hay sao? Thật ra tôi không bao giờ đọc mà chỉ tình cờ nhớ lõm bõm. đôi khi có người viết thành những bài bình phẩm ca ngợi họ. Người ta gọi họ là bọn bồi bút sinh ra chỉ để ăn lương bốv thí cuả đảng và ca ngợi đảng và lãnh tụ. Tôi rất thích đọc khi ai đó viết về Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Hồ Dzech và tôi đọc rất say xưa. Thơ tình là một mảng đề tài mà tôi thích, nó là những giọt nước mắt yêu thương cuả tâm hồn. Mình có như thế nào, mình nghĩ những gì thì mình sẽ viết ra như thế đó. Đã là tình yêu thì không thể dối trá, không thể không nói có, có nói không. Nếu chả may nhân vật mà mình viết trong thơ có vô tình đọc được, cô ta sẽ nghĩ về mình như thế nào? Dù cho mình không nói rõ tên là ai. Nếu mình điêu ngoa cố tình viết sai tâm trạng mình? Sau này ai cũng phải chết cả, nhưng tấm lòng chân thành cuả lòng mình hy vọng sẽ được cảm thông, hoá giải cho những buồn đau thương nhớ trên cõi trần gian giả tạm này.

Người cộng sản họ cũng làm thơ tình. Theo tôi thơ thì có nhưng tình thì không. Nghe nói họ tuyên truyền tôn thờ một anh chàng đồng tính luyến ái cả đời không biết mùi mồ hôi đàn bà, không biết cái slip của đàn bà dày mỏng như thế nào.Chắc các bạn cũng biết tên tuổi anh chàng này như sấm động ngang tai. Anh chàng này họ Xuân tên Diệu. Thú thực thơ anh ta tôi chỉ ngửi thấy mùi  húng lìu và thịt chó thôi. Nhưng bộ máy tuyên truyền cuả đảng thi nhau gọi anh ta là hoàng tử thơ tình. Thật là mâu thuẫn khi những bài thơ tình đều viết ra trước năm 1945, thì đảng phê phán là ủy mị tiểu tư sản và chính Xuân Diệu tự đốt đi, nguyền ruả nó. Sau năm 1945 Xuân Diệu rất hiếm làm thơ tình; nhưng cớ sao bộ máy tuyên truyền cuả đảng cứ gọi mãi Xuân Diệu là Hoàng tử thơ tình? Gọi như vậy có phải là háo danh một cách trơ trẽn không? Cũng như họ gọi ông Hồ là danh nhân văn hoá,  tập thơ Ngục Trung Nhật Ký là do chôm chiả cuả người khác? Trong khi có những chàng hoàng tử đích thực như Nguyễn Bính, Hồ Dzech, Hữu Loan  v.v..thì bị gán cho cái tội nhân văn giai phẩm, kẻ đi tù, người về quê đóng gạch, luôn bị  rình rập ám toán đến tuyệt đưòng sinh nhai. Nhiều người sống lay lắt dật dờ như cái bóng mà chết dần chết mòn như các ông: Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê đạt, Hoàng Cầm v.v..Trong số những mảnh đời tài ba bất hạnh này tôi thấy đau xót cho Hữu Loan một nạn nhân thương tâm cuả chế độ cộng sản và tôi đã chuyển thể thơ ông. Nếu các bạn rỗi rãi đọc chơi, thưởng lãm cho tôi và cả linh hồn người quá cố thì cũng lấy làm mãn nguyện lắm rồi. Hoặc ai đó có chê bai coi thường khinh rẻ như kiểu cộng sản thì cũng chẳng sao.

12.5.2011 Lu Hà

Kính Tặng Hương Hồn Hữu Loan

Có Ai Thắp Nén Hương Sầu Cho Tôi

chuyển thể thơ Hữu Loan: Màu tím Hoa Sim

Phận là gái ba anh bộ đội

Xa gia đình ở mãi chiến khu

Em trai còn bé ngây thơ

Vẫn chưa biết nói mẹ già em thương

Tôi Hữu Loan người chồng vệ quốc

Đợi chờ em mái tóc còn xanh

Kết hôn ngày đẹp tháng lành

Không đòi áo cưới, yêu anh trọn đời

Tôi tranh thủ mấy ngày vội vã

Đôi dày đinh tầm tã hành quân

Bùn lầy lưá tuổi đang xuân

Em cười xinh xắn tâm hồn ngất ngây

Chàng độc đáo em say giản dị

Tình vợ chồng đắm đuối yên vui

Cưới xong rồi phải ra đi

Mấy ngày nghỉ phép ngậm ngùi  trăng suông

Vẫn ái ngại tào khang nồng thắm

Gái có chồng ảm đạm chiến tranh

Cuộc đời vệ quốc chiến binh

Biết đâu vĩnh biệt khi mình hy sinh

Cũng khối kẻ rừng xanh núi đỏ

Nắm xương tàn cổ độ trăng thu

Linh hồn lạc lối quê nhà

Tìm người vợ trẻ sớm chiều mưa rơi

Nhưng không chết người trai khói lưả

Mà chết người em gái hậu phương

Em tôi một buổi bên sông

Cuốn trôi rờn rợn thê lương não nùng

Tôi xin phép về làng thăm mộ

Mẹ tôi ngồi lã chã thương đau

Chiếc bình hoa cưới ngày xưa

Muội tàn bám lạnh tối chiều âm u

Thương mái tóc vẫn chưa tròn búi

Vội ra đi sầu tủi hoàng hôn

Ái ân chưa trọn trăng tuần

Để anh côi cút tấm thân phong trần

Vẫn chưa thuả lời trăn ý trối

Dặn gì nhau lần cuối em ơi!

Ngày xưa đồi tím sương rơi

Áo em cũng tím lòng tôi ngẹn ngào

Tôi nhớ lại đèn khuya vắng vẻ

Một mình em vá áo cho chồng

Miệt mài trọn cả đêm trường

Bát cơm miếng nước tình thương dạt dào

Chiều đông bắc rừng mưa u ám

Ba người anh thê thảm bi thương

Cái tin em gái trôi sông

Đi nhanh hơn cả lấy chồng mừng vui

Gió thu sớm ngậm ngùi nước chảy

Dòng sông quê bàng bạc trăng non

Em trai mới lớn nhìn lên

Ngỡ ngàng ảnh chị lệ tràn bờ mi

Gió hiu hắt mây trời bảng lảng

Chiều hành quân qua những đồi sim

Cỏ vàng héo uá trong tim

Nỗi buồn day rứt âm thầm tôi đi

Muà sim chín lòng tôi tha thiết

Cảnh chiều hoang biền biệt Ninh ơi!

Ai hò biển lá xa xôi

Vô tình ác ý giưã đời thương đau…

Chiều hoang tím vàng thu không rứt

Tôi ngân nga da riết lời ca

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu…

Muà sim chín càng đau rớm lệ

Gió thông reo tê tái hồn thơ

Nấm mồ cỏ dại hoang vu

Có ai thắp nén hương sầu cho tôi!

20.3.2010 Lu Hà

Tỏ lòng ngưỡng mộ thương nhớ tới thi sĩ Hữu Loan

Tôi Khóc Thương Anh

Kính viếng hương hồn thi sĩ Hữu Loan

Tôi khóc nhớ anh một nỗi thương

Hỡi người thi sĩ cuả quê hương

Vì ai khổ lụy màu hoa tím

Nga Lĩnh người ơi, dưới suối vàng

Từ giã cõi đời anh vẫn đau

Nỗi đau dân nước gói trong thơ

Giang sơn gấm vóc đang chìm đắm

Bởi kẻ vô tâm bóng ác tà…

Anh đã đi rồi theo bóng trăng

Mênh mông sầu thảm cả đại dương

Hôm nay u ám trời mây tối

Tầm tã mưa rơi những suối lòng

Anh đã thản nhiên trong áo quan

Rung ring sương rụng những đồi sim

Ngàn thu yên giấc sầu thiên cổ

Để lại trên đời những trái tim.

Vĩnh biệt ra đi hỡi Hữu Loan

Phiêu diêu cảnh giới những linh hồn

Nhân văn giai phẩm ngày xưa ấy

Bè bạn tìm nhau chốn cửu tuyền.

7 giờ 15 phút 19.3.2010 Lu Hà

Nhớ Đồi  Tím Hoa Sim

Kính tặng nhà thơ Hữu Loan

Gió sớm hương về một nắng thu

Bâng khuâng tâm dạ giọt sương chiều

Thương chàng thi sĩ dòng sông mã

Nhớ vợ hồn ma hẹn bóng chờ

Tôi biết rằng anh khóc đã nhiều

Nỗi niềm đau khổ xuốt canh thâu

Trái tim thi sĩ tình trong trắng

Hồn đã ghi sâu tấm mộng đầu

Tôi đọc bài thơ của Hữu Loan

Tấm lòng thương vợ với thi nhân

Gọi anh như thuở ngày xưa đó

Khắc ở trong tim một nỗi buồn

Tôi đọc bài thơ cũng nghẹn ngào

Thương anh vệ quốc cuả ngày xưa

Hành quân ngang trái muà xim chín

Tím cả lòng anh những buổi chiều

Anh khóc vợ anh em gái yêu

Tình nàng dấu kín lúc khi nào

Mẹ Cha dạm hỏi mà chẳng biết

Như trái tim non trái chín muà

Từ chiến khu ba anh đã về

Không đòi áo cưới gái làng quê

Hương thơm giản dị màu xim tím

Thơm mái tóc xanh hẹn nỗi thề

Mấy ngày nghỉ phép cưới là đi

Đọng lại môi anh một nụ cười

Thương em gái nhỏ chiều quê ấy

Trằn trọc mưa rừng nỗi nhớ thôi

Anh biết làm sao được hở trời

Dòng sông rờn rợn quấn em đi

Lưả tình đôi lưá muà xim chín

Chẳng trọn tuần trăng hẹn lỗi rồi….

Anh chạy về thăm bóng xế tàn

Mẹ ngồi mộ tối khóc bên con

Bình hoa ngày cưới tàn đông lạnh

Mái tóc còn xanh buí chưả tròn

Số kiếp loài người bạc thế sao?

Thương anh vệ quốc thuở khi nào

Phu thê chăn gối chưa tròn tháng

Sầu đã rã tan một cánh bèo

Nặng nghĩa ân tình một trái tim

Bài thơ muôn thuở nấc nguồn cơn

Thương đau cho dấu đồi xim tím

Nhớ hẹn chiều quê lúc xế tàn

Nếu phải một đời đi vắng xa

Tình quê nam việt vẫn bao la

Hôm nay ngồi đọc đồi xim tím

Vương vấn lòng ai nỗi nhớ nhà….

ngày 24 tháng 8 năm 2008

Lu Hà

Vịnh Hữu Loan

Kính hoạ

Cuộc thế tàn suy trọn kiếp đời

Anh thư tiết tháo thuở dong chơi

Tâm hồn thi sĩ hoàng hôn thảm

Đồi tím hoang vu gió vẳng lời

Rờn rợn trăng soi dòng nước chảy

Bơ vơ tăm cá cánh bèo bơi

Trúc mai tùng bách còn xanh nở

Ngào ngạt hương thơm cúc giưã trời

20.3.2010 Lu Hà

Tình Quê

chuyển thể thơ Hữu Loan: Hoa Luá

Hương ngào ngạt đồng xanh hoa luá

Đôi mắt nhung chan chưá người ơi!

Mênh mông thăm thẳm chân trời

Cay đa giếng nước bồi hồi tình quê

Trải gió bụi sơn khê vạn nẻo

Nhạc quê hương cổ độ trăng lên

Xôn xao chim chóc vang ngân

Lời ca như thể mưa ngàn suối reo

Gió thu sớm vi vu thánh thót

Để lòng anh tha thiết hội muà

Đánh đu vật trụi cuộc cờ

Dân ca quan họ mặn mà xa bay

Trai với gái thôn đoài thôn thượng

Ván thăm thuyền một mảng trầu cau

Yêu nhau cởi áo cho nhau

Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay

Núi bát ngát sông đầy hương nội

Khói sương lam phủ mái nhà tranh

Ngân hà một khoảng trời xanh

Mười mong chín nhớ cho mình yêu nhau

Cầm bàn tay đậm đà ân ái

Tuổi hai mươi một trái tình si

Ngực căng mắt biếc xa xôi

Tràn đầy nhưạ sống tuổi đời trắng trong

Một toà ngọc hiền lương đắm đuối

Thương quê hương bất diệt tình em

Tào khang trọn nghiã tình thâm

Răng long tóc bạc thì thầm thông reo

22.3.2010  Lu Hà

Thưa Anh Vương Ngọc Minh, cái điều Anh tâm sự thành thơ và tôi cũng dùng thơ để tâm sự lại cùng Anh. Theo tôi bài thơ Màu Tím Hoa Sim hay là bởi chữ tâm. Lối viết giản dị nông dân cuả Hữu Loan đã khoan sâu vào lòng người dân Việt Nam. Hữu Loan chỉ có một cô Đỗ Thị Lệ Ninh người vợ mới cưới chết đuối trên sông và cũng chỉ có một Màu Tím Hoa Sim độc nhất vô nhị. Hữu Loan không có nhiều cô  Lệ Ninh chết đuối nưã để khóc thành thơ. Định mệnh thật trớ trêu, nghe nói vợ Tố Hữu cũng đã từng yêu Hữu Loan. Tố Hữu vì ghen tuông biết vợ chỉ có Hữu Loan trong lòng.Bài thơ Màu Tím Hoa Sim như cái tát vào mặt Tố Hữu. Vì lý do cá nhân và bài thơ này quá bi lụy thương đau . Theo Tố Hữu  là  tiểu tư sản phản động,cản trở cho cuộc đấu tranh giai cấp. Nên Tố Hữu đày đoạ Hữu Loan để trả thù cá nhân, „Nhất tiễu song điêu „vưà trả thù riêng vưà đánh cả nhân văn giai phẩm. Hữu Loan bị khổ nạn  là như vậy đó, đóng gạch, thồ đất, con cái bị trù dập khổ lây là một điều dễ hiểu. Cho nên bài thơ này người ta mua lại với lý do tế nhị để giữ bản quyền chỉ có 100 triệu đồng theo tôi vẫn còn ít. 100 triệu đồng VN khoảng 5 ngàn € tương đương  tháng lương cuả một kỹ sư bình thường ở các nước văn minh, ngoài ra còn phải đóng thuế 10 cho nhà nước là 10 triêụ đồng VN. Nhà nước cộng sản đã đày đoạ ông xuống tận cùng cuả kiếp ngưòi còn muốn kiếm chác thêm ở con người khốn khổ này 10 triệu đồng nưã thì thử hỏi là cái giống gì? 90 triệu còn lại chia đều cho 10 đưá con là 60 triệu. Hữu Loan giữ lại 30 triệu để phụng dưỡng tuổi già. 30 triệu khoảng 1500 € (1500 € bằng lương thất nhiệp cuả một ngưòi lao động ở các nước văn minh ). Nghe vậy cũng đủ ưa nước mắt rồi Anh Minh ạ. Câu hỏi cuả Anh rất đúng không sai, và tôi đã làm thơ tâm sự trả lời Anh
Chúc Anh và Gia Đình bình an

Ngàn Năm Vẹn Tròn
Tâm sự cùng Vương Ngọc Minh

Ông Hữu Loan bước vào lịch sử
Bởi cuộc đời sầu tủi bi thương
Giưã bầy lang sói điên khùng
Tinh thần kẻ sĩ ngang tàng có hay

Cõi trần thế si mê tăm tối
Ánh hào quang sáng chói những ai?
Hữu Loan là một con người
Trái tim lương thiện ngậm ngùi thương đau

Màu sim tím xót xa rỏ lệ
Mái nhà tranh bi lụy tình quê
Xanh lam dặm nẻo sơn khê
Ru hồn dân tộc tái tê nỗi niềm

Thương Hữu Loan thương luôn màu tím
Tình vợ chồng đỏ thắm trái tim
Cái hay là bởi chữ tâm
Phải đâu nghệ thuật ngàn năm vẹn tròn….

21.3.2010 Lu Hà
Mộng Ghi Văn Miếu

Xuân động đầu muà nỗi ngóng mong

Diệu càng mê mẩn tháng ngày trông

Đồng duyên luyến aí nàng thơ cóc

Tính chẳng tròn năm tấm mộng vàng

Luyến aí tình chàng vẫn ngẩn ngơ

Ái ân chẳng trọn tháng ngày mơ

Hoàng hôn lững thững ra hàng bún

Tử tuyệt giống nòi ngâm tứ thơ

Mộng mơ thi sĩ vào văn miếu

Du khách cầu xin quả rụng rơi

Loạn cả dương trần loài ếch nhái

Tình như nước ốc nhạt như vôi

Tuyệt thế giai nhân một áng thơ

Tử tôn nòi giống thiếu ngâm nga

Vô tiền khoáng hậu mong thành đạt

Đạo đức vô thần nghĩ mà đau

Thế giới bàng hoàng trận gió âu

Kỷ nguyên hy vọng nước thay màu

Văn bút thi nhân đòi mở khoá

Thơ thẩn kià ai vẫn đứng ngơ

Tuỉ hờn vong bản lũ vô loài

Nhục nhã sao cho một kiếp người

Mãi quốc buôn thơ là tội lỗi

Sao đành nhắm mắt mãi xu thời? ? ?….

Mượn tiếng thi nhân chàng viết thơ

Một mình ôm ấp tấm thân trơ

Nghe theo lời đảng gieo hoang tưởng

Chi bộ phân công mất tự do

Mượn gió bẻ măng chàng thét to

Tình yêu đảng bác mộng hung đồ

Thương nhau xin chớ quên công vụ

Ủy mị là theo lũ thối tha

Thơ văn nhạt nhẽo suối tuôn mưa

Hoàng tử làm thơ thật thế sao ?

Cổ động tuyên truyền theo chỉ thị

Chủ chương tuyên huấn duyệt văn nô

Thiên hạ dần dần mở mắt to

Tình người chẳng có vắt ra thơ

Lưà bao bạn trẻ tranh nhau đọc

Văn miếu mộng ghi hàng chữ to

Lời vàng chân thật nhắn cho ai

Chẳng phải phô danh ngạo nghễ gì

Văn bút phải đâu quyền độc chiếm

Tình người muôn thuở dễ ai hay?

Tôi muốn hỏi ai tới cửu trùng

Băn khoăn trăn trở suốt năm dòng

Giận cho ma quỷ đưa đường lối

Dìu dắt thanh niên lạc nẻo đường

Tôi viết ra đây nỗi chán chường

Hỡi chàng hoàng tử tiệt sinh trùng

Nhà thương áo trắng mùi cồn thuốc

Màu trắng say xưa chẳng dõi dòng…

Mộng ghi văn miếu hãy quên đi

Tình ái phải đâu ở chốn này

Chiêu thức thơ tình đâu phải lối

Duyên tình mệnh bạc mộng cuồng si

2008   Lu Hà.

Văn Thi Sĩ Dưới Chế Độ Đồng Loại Ăn Thịt Người

Nếu muốn trở thành thi sĩ thực sự trong lòng nhân thế, thì hãy quên đi hai chữ danh vọng. Danh vọng tiếng tăm người đời thường ham muốn; nhưng cũng chính nó sẽ giết chết hồn thơ và cảm hứng sáng tác. Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương,  Tản Đà, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử v.v   đã để lại cho chúng ta những kiệt tác bất hủ lưu danh thiên sử ngàn thu. .Trong khi đó các ông lại nghèo xác xơ. Có những người làm thơ ra, thiên hạ còn coi thường không thèm đọc. Chỉ còn thời gian là sàng lọc, khi trí tuệ cảm nhận lên cao thì thiên hạ mới nhớ  tới các ông. Than ôi, các ông đã là người thiên cổ từ lâu rồi.Nhưng không ai có thể sau một đêm ngủ dậy mà trở thành thi sĩ.  Ngày xưa, thường phải học hành lấy sự nghiệp quan trường làm chính. Nhưng khi đã làm quan to thì các ông lại chẳng sáng tác ra được một bài thơ nào cho nên hồn. Chỉ khi đã bị thất sủng, bị đày đoạ ra biên cương, chỉ khi đã bị đẩy xuống tận cùng cuả đau khồ thì tâm hồn các ông mới trỗi dậy, khóc thương, lồng lộn đòi cuộc sống, đòi văn thơ.

Thi ca là kho báu tâm hồn cuả những người nghèo, chứ không phải cho người giàu. Người giàu đã có vàng bạc tiền cuả rồi, họ cần thi ca để làm gì? Có chăng chỉ  là đua đòi đánh si cho bóng cho cái mặt mình thêm dày thêm bóng mà thôi mà thôi. Thật nực cười cho cả những đao phủ giết người trong nháy mắt, những Gangster, những trùm băng đảng khủng bố, hay những con yêu dâu xanh cũng tự nhận mình là văn thi sĩ, thậm chí còn ăn cắp thơ người khác bắt mọi người ca ngợi, học tập. Khi đọc một bài thơ ta thấy những gì? Những câu, những chữ, những vần, những điệu, những ý nó liên kết với nhau như một nhịp cầu, nghe như có hơi thở đều đặn cuả một linh hồn, xa xa như làn sóng thủy triều mênh mông vô tận…Thế mới gọi là thơ. Đọc một bài thơ chỉ thấy chữ thấy câu , những chữ ta đã nghe nhàm chán như trong nghị quyết chỉ thị cuả đảng thì đó có phải là thơ đâu. Lắm chữ nhiều từ nhưng rời rạc tối nghiã, cố tạo ra sự mập mờ khó hiểu để người ta nhầm lẫn là cao siêu lắm. Ta hãy nghe anh chàng Phạm Tiến Duật làm thơ: „ Xe không có kính, không phải vì xe không có kính- Đạn nổ bom rơi kính vỡ đi rồi“ .Cũng giống như „ Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi- Con cóc nhảy đi, con cóc ngồi đó.“. Họ làm thơ như vậy đó, nó trối tai quá, chẳng có hình ảnh trí tuệ , trí tưởng tượng gì cả. Họ còn bảo Phạm Tiến Duật là viện sĩ hàn lâm cuả đảng, cuả dòng thơ cách mạng yêu nước chống Mỹ. Tố Hữu chỉ làm thơ con cóc thôi mà cũng được phong là đại thi hào ngang ngưả với Nguyễn Du. Cái khốn nạn thi sĩ và danh vọng là ở chỗ đó. Làm thơ không phải vì tâm linh tâm hồn vì nghệ thuật sáng tạo mà chỉ vì tuyên truyền chính trị, biến những khẩu hiệu suông tẻ nhạt thành những bài vè có mùi mắm tôm, mắm ruốc, dưa khú mà vẫn phải bịt mũi khen hay do áp lực cuả cường quyền và súng đạn. Tôi phê phán thẳng cánh, và rất khó chiụ khi phải đọc những bài thơ như vậy. Ngực họ đã đầy huân huy chương sáng loé lên rồi hoặc với những tấm biến treo cao rất oai chủ tịch đảng,chủ tịch nước, uỷ viên bộ chính trị mà vẫn chưa đủ còn phải nhất quyết kèm theo cái thẻ thi sĩ dán ở túi áo nưã  thì mới thoả mãn hay sao? Thật ra tôi không bao giờ đọc mà chỉ tình cờ nhớ lõm bõm. đôi khi có người viết thành những bài bình phẩm ca ngợi họ. Người ta gọi họ là bọn bồi bút sinh ra chỉ để ăn lương bốv thí cuả đảng và ca ngợi đảng và lãnh tụ. Tôi rất thích đọc khi ai đó viết về Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Hồ Dzech và tôi đọc rất say xưa. Thơ tình là một mảng đề tài mà tôi thích, nó là những giọt nước mắt yêu thương cuả tâm hồn. Mình có như thế nào, mình nghĩ những gì thì mình sẽ viết ra như thế đó. Đã là tình yêu thì không thể dối trá, không thể không nói có, có nói không. Nếu chả may nhân vật mà mình viết trong thơ có vô tình đọc được, cô ta sẽ nghĩ về mình như thế nào? Dù cho mình không nói rõ tên là ai. Nếu mình điêu ngoa cố tình viết sai tâm trạng mình? Sau này ai cũng phải chết cả, nhưng tấm lòng chân thành cuả lòng mình hy vọng sẽ được cảm thông, hoá giải cho những buồn đau thương nhớ trên cõi trần gian giả tạm này.

Người cộng sản họ cũng làm thơ tình. Theo tôi thơ thì có nhưng tình thì không. Nghe nói họ tuyên truyền tôn thờ một anh chàng đồng tính luyến ái cả đời không biết mùi mồ hôi đàn bà, không biết cái slip của đàn bà dày mỏng như thế nào.Chắc các bạn cũng biết tên tuổi anh chàng này như sấm động ngang tai. Anh chàng này họ Xuân tên Diệu. Thú thực thơ anh ta tôi chỉ ngửi thấy mùi  húng lìu và thịt chó thôi. Nhưng bộ máy tuyên truyền cuả đảng thi nhau gọi anh ta là hoàng tử thơ tình. Thật là mâu thuẫn khi những bài thơ tình đều viết ra trước năm 1945, thì đảng phê phán là ủy mị tiểu tư sản và chính Xuân Diệu tự đốt đi, nguyền ruả nó. Sau năm 1945 Xuân Diệu rất hiếm làm thơ tình; nhưng cớ sao bộ máy tuyên truyền cuả đảng cứ gọi mãi Xuân Diệu là Hoàng tử thơ tình? Gọi như vậy có phải là háo danh một cách trơ trẽn không? Cũng như họ gọi ông Hồ là danh nhân văn hoá,  tập thơ Ngục Trung Nhật Ký là do chôm chiả cuả người khác? Trong khi có những chàng hoàng tử đích thực như Nguyễn Bính, Hồ Dzech, Hữu Loan  v.v..thì bị gán cho cái tội nhân văn giai phẩm, kẻ đi tù, người về quê đóng gạch, luôn bị  rình rập ám toán đến tuyệt đưòng sinh nhai. Nhiều người sống lay lắt dật dờ như cái bóng mà chết dần chết mòn như các ông: Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê đạt, Hoàng Cầm v.v..Trong số những mảnh đời tài ba bất hạnh này tôi thấy đau xót cho Hữu Loan một nạn nhân thương tâm cuả chế độ cộng sản và tôi đã chuyển thể thơ ông. Nếu các bạn rỗi rãi đọc chơi, thưởng lãm cho tôi và cả linh hồn người quá cố thì cũng lấy làm mãn nguyện lắm rồi. Hoặc ai đó có chê bai coi thường khinh rẻ như kiểu cộng sản thì cũng chẳng sao.

12.5.2011 Lu Hà

Kính Tặng Hương Hồn Hữu Loan

Có Ai Thắp Nén Hương Sầu Cho Tôi

chuyển thể thơ Hữu Loan: Màu tím Hoa Sim

Phận là gái ba anh bộ đội

Xa gia đình ở mãi chiến khu

Em trai còn bé ngây thơ

Vẫn chưa biết nói mẹ già em thương

Tôi Hữu Loan người chồng vệ quốc

Đợi chờ em mái tóc còn xanh

Kết hôn ngày đẹp tháng lành

Không đòi áo cưới, yêu anh trọn đời

Tôi tranh thủ mấy ngày vội vã

Đôi dày đinh tầm tã hành quân

Bùn lầy lưá tuổi đang xuân

Em cười xinh xắn tâm hồn ngất ngây

Chàng độc đáo em say giản dị

Tình vợ chồng đắm đuối yên vui

Cưới xong rồi phải ra đi

Mấy ngày nghỉ phép ngậm ngùi  trăng suông

Vẫn ái ngại tào khang nồng thắm

Gái có chồng ảm đạm chiến tranh

Cuộc đời vệ quốc chiến binh

Biết đâu vĩnh biệt khi mình hy sinh

Cũng khối kẻ rừng xanh núi đỏ

Nắm xương tàn cổ độ trăng thu

Linh hồn lạc lối quê nhà

Tìm người vợ trẻ sớm chiều mưa rơi

Nhưng không chết người trai khói lưả

Mà chết người em gái hậu phương

Em tôi một buổi bên sông

Cuốn trôi rờn rợn thê lương não nùng

Tôi xin phép về làng thăm mộ

Mẹ tôi ngồi lã chã thương đau

Chiếc bình hoa cưới ngày xưa

Muội tàn bám lạnh tối chiều âm u

Thương mái tóc vẫn chưa tròn búi

Vội ra đi sầu tủi hoàng hôn

Ái ân chưa trọn trăng tuần

Để anh côi cút tấm thân phong trần

Vẫn chưa thuả lời trăn ý trối

Dặn gì nhau lần cuối em ơi!

Ngày xưa đồi tím sương rơi

Áo em cũng tím lòng tôi ngẹn ngào

Tôi nhớ lại đèn khuya vắng vẻ

Một mình em vá áo cho chồng

Miệt mài trọn cả đêm trường

Bát cơm miếng nước tình thương dạt dào

Chiều đông bắc rừng mưa u ám

Ba người anh thê thảm bi thương

Cái tin em gái trôi sông

Đi nhanh hơn cả lấy chồng mừng vui

Gió thu sớm ngậm ngùi nước chảy

Dòng sông quê bàng bạc trăng non

Em trai mới lớn nhìn lên

Ngỡ ngàng ảnh chị lệ tràn bờ mi

Gió hiu hắt mây trời bảng lảng

Chiều hành quân qua những đồi sim

Cỏ vàng héo uá trong tim

Nỗi buồn day rứt âm thầm tôi đi

Muà sim chín lòng tôi tha thiết

Cảnh chiều hoang biền biệt Ninh ơi!

Ai hò biển lá xa xôi

Vô tình ác ý giưã đời thương đau…

Chiều hoang tím vàng thu không rứt

Tôi ngân nga da riết lời ca

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu…

Muà sim chín càng đau rớm lệ

Gió thông reo tê tái hồn thơ

Nấm mồ cỏ dại hoang vu

Có ai thắp nén hương sầu cho tôi!

20.3.2010 Lu Hà

Tỏ lòng ngưỡng mộ thương nhớ tới thi sĩ Hữu Loan

Tôi Khóc Thương Anh

Kính viếng hương hồn thi sĩ Hữu Loan

Tôi khóc nhớ anh một nỗi thương

Hỡi người thi sĩ cuả quê hương

Vì ai khổ lụy màu hoa tím

Nga Lĩnh người ơi, dưới suối vàng

Từ giã cõi đời anh vẫn đau

Nỗi đau dân nước gói trong thơ

Giang sơn gấm vóc đang chìm đắm

Bởi kẻ vô tâm bóng ác tà…

Anh đã đi rồi theo bóng trăng

Mênh mông sầu thảm cả đại dương

Hôm nay u ám trời mây tối

Tầm tã mưa rơi những suối lòng

Anh đã thản nhiên trong áo quan

Rung ring sương rụng những đồi sim

Ngàn thu yên giấc sầu thiên cổ

Để lại trên đời những trái tim.

Vĩnh biệt ra đi hỡi Hữu Loan

Phiêu diêu cảnh giới những linh hồn

Nhân văn giai phẩm ngày xưa ấy

Bè bạn tìm nhau chốn cửu tuyền.

7 giờ 15 phút 19.3.2010 Lu Hà

Nhớ Đồi  Tím Hoa Sim

Kính tặng nhà thơ Hữu Loan

Gió sớm hương về một nắng thu

Bâng khuâng tâm dạ giọt sương chiều

Thương chàng thi sĩ dòng sông mã

Nhớ vợ hồn ma hẹn bóng chờ

Tôi biết rằng anh khóc đã nhiều

Nỗi niềm đau khổ xuốt canh thâu

Trái tim thi sĩ tình trong trắng

Hồn đã ghi sâu tấm mộng đầu

Tôi đọc bài thơ của Hữu Loan

Tấm lòng thương vợ với thi nhân

Gọi anh như thuở ngày xưa đó

Khắc ở trong tim một nỗi buồn

Tôi đọc bài thơ cũng nghẹn ngào

Thương anh vệ quốc cuả ngày xưa

Hành quân ngang trái muà xim chín

Tím cả lòng anh những buổi chiều

Anh khóc vợ anh em gái yêu

Tình nàng dấu kín lúc khi nào

Mẹ Cha dạm hỏi mà chẳng biết

Như trái tim non trái chín muà

Từ chiến khu ba anh đã về

Không đòi áo cưới gái làng quê

Hương thơm giản dị màu xim tím

Thơm mái tóc xanh hẹn nỗi thề

Mấy ngày nghỉ phép cưới là đi

Đọng lại môi anh một nụ cười

Thương em gái nhỏ chiều quê ấy

Trằn trọc mưa rừng nỗi nhớ thôi

Anh biết làm sao được hở trời

Dòng sông rờn rợn quấn em đi

Lưả tình đôi lưá muà xim chín

Chẳng trọn tuần trăng hẹn lỗi rồi….

Anh chạy về thăm bóng xế tàn

Mẹ ngồi mộ tối khóc bên con

Bình hoa ngày cưới tàn đông lạnh

Mái tóc còn xanh buí chưả tròn

Số kiếp loài người bạc thế sao?

Thương anh vệ quốc thuở khi nào

Phu thê chăn gối chưa tròn tháng

Sầu đã rã tan một cánh bèo

Nặng nghĩa ân tình một trái tim

Bài thơ muôn thuở nấc nguồn cơn

Thương đau cho dấu đồi xim tím

Nhớ hẹn chiều quê lúc xế tàn

Nếu phải một đời đi vắng xa

Tình quê nam việt vẫn bao la

Hôm nay ngồi đọc đồi xim tím

Vương vấn lòng ai nỗi nhớ nhà….

ngày 24 tháng 8 năm 2008

Lu Hà

Vịnh Hữu Loan

Kính hoạ

Cuộc thế tàn suy trọn kiếp đời

Anh thư tiết tháo thuở dong chơi

Tâm hồn thi sĩ hoàng hôn thảm

Đồi tím hoang vu gió vẳng lời

Rờn rợn trăng soi dòng nước chảy

Bơ vơ tăm cá cánh bèo bơi

Trúc mai tùng bách còn xanh nở

Ngào ngạt hương thơm cúc giưã trời

20.3.2010 Lu Hà

Tình Quê

chuyển thể thơ Hữu Loan: Hoa Luá

Hương ngào ngạt đồng xanh hoa luá

Đôi mắt nhung chan chưá người ơi!

Mênh mông thăm thẳm chân trời

Cay đa giếng nước bồi hồi tình quê

Trải gió bụi sơn khê vạn nẻo

Nhạc quê hương cổ độ trăng lên

Xôn xao chim chóc vang ngân

Lời ca như thể mưa ngàn suối reo

Gió thu sớm vi vu thánh thót

Để lòng anh tha thiết hội muà

Đánh đu vật trụi cuộc cờ

Dân ca quan họ mặn mà xa bay

Trai với gái thôn đoài thôn thượng

Ván thăm thuyền một mảng trầu cau

Yêu nhau cởi áo cho nhau

Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay

Núi bát ngát sông đầy hương nội

Khói sương lam phủ mái nhà tranh

Ngân hà một khoảng trời xanh

Mười mong chín nhớ cho mình yêu nhau

Cầm bàn tay đậm đà ân ái

Tuổi hai mươi một trái tình si

Ngực căng mắt biếc xa xôi

Tràn đầy nhưạ sống tuổi đời trắng trong

Một toà ngọc hiền lương đắm đuối

Thương quê hương bất diệt tình em

Tào khang trọn nghiã tình thâm

Răng long tóc bạc thì thầm thông reo

22.3.2010  Lu Hà

Thưa Anh Vương Ngọc Minh, cái điều Anh tâm sự thành thơ và tôi cũng dùng thơ để tâm sự lại cùng Anh. Theo tôi bài thơ Màu Tím Hoa Sim hay là bởi chữ tâm. Lối viết giản dị nông dân cuả Hữu Loan đã khoan sâu vào lòng người dân Việt Nam. Hữu Loan chỉ có một cô Đỗ Thị Lệ Ninh người vợ mới cưới chết đuối trên sông và cũng chỉ có một Màu Tím Hoa Sim độc nhất vô nhị. Hữu Loan không có nhiều cô  Lệ Ninh chết đuối nưã để khóc thành thơ. Định mệnh thật trớ trêu, nghe nói vợ Tố Hữu cũng đã từng yêu Hữu Loan. Tố Hữu vì ghen tuông biết vợ chỉ có Hữu Loan trong lòng.Bài thơ Màu Tím Hoa Sim như cái tát vào mặt Tố Hữu. Vì lý do cá nhân và bài thơ này quá bi lụy thương đau . Theo Tố Hữu  là  tiểu tư sản phản động,cản trở cho cuộc đấu tranh giai cấp. Nên Tố Hữu đày đoạ Hữu Loan để trả thù cá nhân, „Nhất tiễu song điêu „vưà trả thù riêng vưà đánh cả nhân văn giai phẩm. Hữu Loan bị khổ nạn  là như vậy đó, đóng gạch, thồ đất, con cái bị trù dập khổ lây là một điều dễ hiểu. Cho nên bài thơ này người ta mua lại với lý do tế nhị để giữ bản quyền chỉ có 100 triệu đồng theo tôi vẫn còn ít. 100 triệu đồng VN khoảng 5 ngàn € tương đương  tháng lương cuả một kỹ sư bình thường ở các nước văn minh, ngoài ra còn phải đóng thuế 10 cho nhà nước là 10 triêụ đồng VN. Nhà nước cộng sản đã đày đoạ ông xuống tận cùng cuả kiếp ngưòi còn muốn kiếm chác thêm ở con người khốn khổ này 10 triệu đồng nưã thì thử hỏi là cái giống gì? 90 triệu còn lại chia đều cho 10 đưá con là 60 triệu. Hữu Loan giữ lại 30 triệu để phụng dưỡng tuổi già. 30 triệu khoảng 1500 € (1500 € bằng lương thất nhiệp cuả một ngưòi lao động ở các nước văn minh ). Nghe vậy cũng đủ ưa nước mắt rồi Anh Minh ạ. Câu hỏi cuả Anh rất đúng không sai, và tôi đã làm thơ tâm sự trả lời Anh
Chúc Anh và Gia Đình bình an

Ngàn Năm Vẹn Tròn
Tâm sự cùng Vương Ngọc Minh

Ông Hữu Loan bước vào lịch sử
Bởi cuộc đời sầu tủi bi thương
Giưã bầy lang sói điên khùng
Tinh thần kẻ sĩ ngang tàng có hay

Cõi trần thế si mê tăm tối
Ánh hào quang sáng chói những ai?
Hữu Loan là một con người
Trái tim lương thiện ngậm ngùi thương đau

Màu sim tím xót xa rỏ lệ
Mái nhà tranh bi lụy tình quê
Xanh lam dặm nẻo sơn khê
Ru hồn dân tộc tái tê nỗi niềm

Thương Hữu Loan thương luôn màu tím
Tình vợ chồng đỏ thắm trái tim
Cái hay là bởi chữ tâm
Phải đâu nghệ thuật ngàn năm vẹn tròn….

21.3.2010 Lu Hà
Mộng Ghi Văn Miếu

Xuân động đầu muà nỗi ngóng mong

Diệu càng mê mẩn tháng ngày trông

Đồng duyên luyến aí nàng thơ cóc

Tính chẳng tròn năm tấm mộng vàng

Luyến aí tình chàng vẫn ngẩn ngơ

Ái ân chẳng trọn tháng ngày mơ

Hoàng hôn lững thững ra hàng bún

Tử tuyệt giống nòi ngâm tứ thơ

Mộng mơ thi sĩ vào văn miếu

Du khách cầu xin quả rụng rơi

Loạn cả dương trần loài ếch nhái

Tình như nước ốc nhạt như vôi

Tuyệt thế giai nhân một áng thơ

Tử tôn nòi giống thiếu ngâm nga

Vô tiền khoáng hậu mong thành đạt

Đạo đức vô thần nghĩ mà đau

Thế giới bàng hoàng trận gió âu

Kỷ nguyên hy vọng nước thay màu

Văn bút thi nhân đòi mở khoá

Thơ thẩn kià ai vẫn đứng ngơ

Tuỉ hờn vong bản lũ vô loài

Nhục nhã sao cho một kiếp người

Mãi quốc buôn thơ là tội lỗi

Sao đành nhắm mắt mãi xu thời? ? ?….

Mượn tiếng thi nhân chàng viết thơ

Một mình ôm ấp tấm thân trơ

Nghe theo lời đảng gieo hoang tưởng

Chi bộ phân công mất tự do

Mượn gió bẻ măng chàng thét to

Tình yêu đảng bác mộng hung đồ

Thương nhau xin chớ quên công vụ

Ủy mị là theo lũ thối tha

Thơ văn nhạt nhẽo suối tuôn mưa

Hoàng tử làm thơ thật thế sao ?

Cổ động tuyên truyền theo chỉ thị

Chủ chương tuyên huấn duyệt văn nô

Thiên hạ dần dần mở mắt to

Tình người chẳng có vắt ra thơ

Lưà bao bạn trẻ tranh nhau đọc

Văn miếu mộng ghi hàng chữ to

Lời vàng chân thật nhắn cho ai

Chẳng phải phô danh ngạo nghễ gì

Văn bút phải đâu quyền độc chiếm

Tình người muôn thuở dễ ai hay?

Tôi muốn hỏi ai tới cửu trùng

Băn khoăn trăn trở suốt năm dòng

Giận cho ma quỷ đưa đường lối

Dìu dắt thanh niên lạc nẻo đường

Tôi viết ra đây nỗi chán chường

Hỡi chàng hoàng tử tiệt sinh trùng

Nhà thương áo trắng mùi cồn thuốc

Màu trắng say xưa chẳng dõi dòng…

Mộng ghi văn miếu hãy quên đi

Tình ái phải đâu ở chốn này

Chiêu thức thơ tình đâu phải lối

Duyên tình mệnh bạc mộng cuồng si

2008   Lu Hà.

Comments
One Response to “Văn Thi Sĩ Dưới Chế Độ Đồng Loại Ăn Thịt Người – Lu Hà”
  1. laika@hotmail.com nói:

    muon danh sap csvn phai danh sap huyen thoai HCM muon dan viet duoc songkhg so hai phai xu dung vu khi khi cuoi cung la bat coc thu tieu vai than nhan cua thang tan dung ke ca vo chong sui nguyen bang an com quocgai tho ma cs tay chay mot lu tri hai ngoai da tep tay toi ac csvn da ve quy lay csvn o VMQTG phong QUY dung dau ts tran thanh van hothieu tri bui van nam son.nguyen huu liemldang vu thien thanh.nguyen ngoc giao nguyen ngoc vu van van da khg pan biet duoc hai chu THIEN va AC van me co BUA LIEM csvn da mai dua cho sac de cat co lu tri thucluc nao?neu tan dung dien khung tiep giet dan thi chac chan 100% chet som nhu GADAFIA neu thang DUNG tinh ngo thi tha het nhung nguoi yeu nuoc co co hoi ha canh an toan con chua chung ta khoi lam linh giet thue cho giac tau

Bình luận về bài viết này