|
MỘT CÁCH ĐIỀU HÀNH VÔ NGUYÊN TẮC, VÔ TRÁCH NHIỆM VÀ THIẾU SUY NGHĨ
Như chúng ta đã biết, trong cuộc sống và trong sản xuất kinh doanh việc dự trữ là việc làm gần như là bắt buộc. Chẳng hạn như ở Mỹ, cục dự trữ liên bang có trong tay hàng chục nghìn tấn vàng, những nước có nền kinh tế ổn định thì nước nào cũng đều làm như vậy cả. Do vậy đối với các nước, việc dự trữ vàng trong sản xuất và đời sống cũng là điều tất yếu.
Ở Việt Nam việc dự trữ vàng trong dân cũng là điều tất yếu và có thể nói gần như là bắt buộc. Bởi vì nguyên nhân chính đó là việc bảo toàn vốn do đồng Đôla và Việt Nam đồng mất giá, rồi thì dự trữ để mua nhà, mua xe hơi, đề phòng khi ốm đau và bệnh tật v v ….
Theo nguồn tin trên báo chí, hiện nay dự trữ vàng trong dân là khoảng 500 tấn, tức là tương đương với 25 tỷ Đôla. Rất may mắn cho chúng ta là nếu lệnh cấm kinh doanh vàng miếng ra đời sớm hơn một năm thì rõ ràng rằng người dân Việt Nam sẽ tự nhiên mất đi mười mấy tỷ Đôla do giá vàng thế giới trong vòng một năm đã tăng giá gấp đôi. Do vậy, phần đúng đã thuộc về người dân Việt Nam khi họ chọn vàng là nguồn dự trữ cho mình.
Theo tôi, chính phủ đã sai lầm và hoàn toàn thiếu suy nghĩ khi cấm người dân kinh doanh vàng miếng vì những lý do sau đây:
Thứ nhất ngay từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ cho đến tận ngày nay vàng luôn là vật đảm bảo dự trữ an toàn nhất. Ngay cả Marx cũng thừa nhận như vậy.
Thứ hai, suốt trong mấy chục năm nay, giá vàng luôn luôn tăng cao và theo dự đoán của các chuyên gia, giá vàng còn tiếp tục tăng nữa.
Thứ ba, như phân tích ở trên, nhu cầu dự trữ vàng của người dân là hoàn toàn chính đáng và có thực.
Thứ tư, xuất phát từ một ý định rất trẻ con của chính phủ là muốn vơ vét vàng trong dân vào tay nhà nước. Xin đừng có mơ bởi vì theo quy luật cung cầu của thị trường thì cho dù cấm đoán kiểu gì thì người dân sẽ chẳng bao giờ bán 1 gram vàng nào cho nhà nước nếu giá vàng thế giới tiếp tục tăng và lạm phát trong nước cũng tăng với tốc độ phi mã.
Như vậy rõ ràng rằng chính phủ Việt Nam hoàn toàn yếu kém và không có trình độ trong việc quản lý và điều hành nền kinh tế của đất nước.
Sau đây, ta sẽ chuyển sang câu chuyện thứ hai là việc cố định lãi tiền gửi ở mức 14% đối với các ngân hàng trong toàn quốc. Theo tôi, chuyện này còn con nít hơn cả chuyện trên.
Bởi vì đây cũng là quy luật của kinh tế thị trường, ở đâu có cầu thì ở đó ắt có cung và ngược lại. Rõ ràng việc các ngân hàng đang thiếu vốn cho vay là chuyện hoàn toàn có thực và do vậy bằng mọi giá họ phải huy động vốn để đáp ứng nhu cầu này. Đó là cầu.
Còn mặt cung thì chắc chắn rằng lãi suất tiền gửi 14% một năm chưa hẳn đã hấp dẫn ngưòi dân gửi tiền vào ngân hàng khi mà lạm phát tăng với tốc độ phi mã. Mặt khác, trong xã hội vẫn có các đơn vị sản xuất kinh doanh và các cá nhân vẫn tự cho nhau vay với lãi suất khoảng 5% một tháng, tức là 60% một năm. Con số này quả thật là ấn tương. Do hai yếu tố như vậy nên người gửi vẫn muốn lãi tiền gửi phải cao hơn mức ấn định là 14% một năm. Đó là cung.
Do cả hai yếu tố cung và cầu đã được phân tích ở trên nên trong thời gian tới việc lãi suất tiền gửi còn tăng nữa thì chẳng có gì là lạ cả.
Trong thời gian gần đây, việc điều chỉnh giá cả của chính phủ đã không được người dân đồng tình, làm đời sống của người dân gặp khó khăn, làm sản xuất kinh doanh bị đình trệ, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế của đất nước. Các chính sách kinh tế đưa ra thường vô hiệu quả và vô tác dụng, không thúc đẩy được nền kinh tế phát triển. Những cái đáng làm thì không làm, còn chuyện không đáng làm thì lại làm rùm beng lên. Ví dụ như việc thanh toán bằng đồng Đôla suy nghĩ cho cùng thì có ảnh hưởng gì đến nền kinh tế đâu mà lại nói nhiều đến như vậy. Thật là trẻ con hết sức.
Theo tôi lỗi cá nhân có, lỗi tập thể có mà phần lớn không thể tha thứ đựoc. Vậy chúng ta phải làm gì đây? câu trả lời tôi nhường cho bạn đọc.
|