Chinh Phụ Ngâm Đoàn thị Điểm
-
-
-
-
-
- Đoàn thị Điểm
-
-
Chinh Phụ Ngâm
-
-
(Chép theo bản của Văn Bình Tôn thất Lương in năm 1950 Sách Giáo Khoa Tân Việt)
| 1. | Thuở Trời Đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Xanh kia thăm thẳm tầng trên, Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy. |
| 5. | Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam tuyền mờ mịt thức mây. Chín tầng gươm báu trao tay, Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. |
| 9. | Nước thanh bình ba trăm năm cũ, Áo nhung trao quan vũ từ đây. Sứ Trời sớm giục đường mây, Phép công là trọng, niềm tây sá nào. |
| 13. | Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn, Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa. Bóng cờ tiếng trống xa xa, Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng. |
| 17. | Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Thành liền mong tiến bệ rồng, Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc Trời. |
| 21. | Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao. Giã nhà đeo bức chiến bào, Thét roi cầu Vỵ, ào ào gió thu. |
| 25. | Ngòi đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non. Đưa chàng lòng dặc dặc buồn, Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền. |
| 29. | Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa, Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên. Nhủ rồi tay lại trao liền, Bước đi một bước lại vin áo chàng. |
| 33. | Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi, Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên sơn. Múa gươm rượu tiễn chưa tàn, Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo. |
| 37. | Săn Lâu lan rằng theo Giới Tử, Tới Man Khê bàn sự Phục Ba. Áo chàng đỏ tựa rán pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. |
| 41. | Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống, Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay. Hà lương chia rẽ đường nầy, Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi. |
| 45. | Quân trước đã gần ngoài doanh liễu, Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng dương. Quân đưa chàng ruổi lên đường, Liễu dương biết thiếp đoạn trường nầy chăng? |
| 49. | Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng, Hàng cờ bay trong bóng phất phơ. Dấu chàng theo lớp mây đưa, Thiếp nhìn rặng núi, ngẩn ngơ nỗi nhà. |
| 53. | Chàng thì đi cõi xa mưa gió, Thiếp lại về buồng cũ gối chăn. Đoái trông theo đã cách ngăn, Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh. |
| 57. | Chốn Hàm dương chàng còn ngảnh lại, Bến Tiêu tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu tương cách Hàm dương, Cây Hàm dương cách Tiêu tương mấy trùng. |
| 61. | Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? |
| 65. | Chàng từ đi vào nơi gió cát, Đêm trăng nầy nghỉ mát phương nao? Xưa nay chiến địa dường bao, Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu. |
| 69. | Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn, Giòng nước sâu ngựa nản chân bon. Ôm yên gối trống đã chồn, Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh. |
| 74. | Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại, Mai Hồ vào Thanh hải dòm qua. Hình khe thế núi gần xa, Đứt thôi lại nối thấp đà lên cao. |
| 77. | Sương đầu núi buổi chiều như giội, Nước lòng khe nẻo suối còn sâu. Não người áo giáp bấy lâu, Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. |
| 81. | Trên trướng gấm có hay chăng nhẻ? Mặt chinh phu ai vẽ cho nên. Tưởng chàng giong ruổi bấy niên, Chẳng nơi Hãn hải thì miền Tiêu quan. |
| 85. | Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ, Lại lạnh lùng những chỗ sương phong. Lên cao trông thức mây lồng, Lòng nào mà chẳng động lòng bi thương. |
| 89. | Chàng từ sang đông nam khơi nẻo, Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu? Những người chinh chiến bấy lâu, Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây. |
| 93. | Nức hơi mạnh ân dày từ trước, Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu? Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo, Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. |
| 97. | Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sĩ mấy người, Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn? |
| 101. | Dấu binh lửa nước non như cũ, Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương. Phận trai già cõi chiến trường, Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về. |
| 105. | Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ, Ba thước gươm, một cỗ nhung yên. Xông pha gió bãi trăng ngàn, Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành. |
| 109. | Áng công danh trăm đường rộn rã, Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi. Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây. |
| 113. | Trong cửa nầy đã đành phận thiếp, Ngoài mây kia há kiếp chàng vay? Những mong cá nước sum vầy, Nào ngờ đôi ngã nước mây cách vời. |
| 117. | Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ, Chàng há từng học lũ vương tôn. Cớ sao cách trở nước non? Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu. |
| 121. | Khách phong lưu đương chừng niên thiếu, Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên. Nỡ nào đôi lứa thiếu niên, Quan sơn để cách hàn huyên bao đành. |
| 125. | Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu, Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca. Nay quyên đã giục oanh già, Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo. |
| 129. | Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió, Hỏi ngày về chỉ độ đào bông. Nay đào đã quyến gió đông, Phù dung lại đã bên sông bơ sờ. |
| 133. | Hẹn cùng ta Lũng tây nham ấy, Sớm đã trông nào thấy hơi tăm. Ngập ngừng lá rụng cành trâm, Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao. |
| 137. | Hẹn nơi nao Hán dương cầu nọ, Chiều lại tìm nào có tiêu hao. Ngập ngừng gió thổi chéo bào, Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông. |
| 141. | Tin thường lại, người không thấy lại, Hoa dương tàn đã trải rêu xanh. Rêu xanh mấy lớp chung quanh, Dạo sân một bước trăm tình ngẩn ngơ. |
| 145. | Thư thường tới, người không thấy tới, Bức rèm thưa lần dãi bóng dương. Bóng dương mấy buổi xuyên ngang, Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai. |
| 149. | Thử tính lại diễn khơi ngày ấy, Tiền sen nầy đã nẩy là ba, Xót người lần lữa ải xa, Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài. |
| 153. | Tình gia thất nào ai chẳng có, Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương. Mẹ già phơ phất mái sương, Con thơ măng sữa vả đương phù trì. |
| 157. | Lòng lão thân buồn khi tựa cửa, Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm. Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam, Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân. |
| 161. | Nay một thân nuôi già dạy trẻ, Nỗi quan hoài mang mẻ biết bao. Nhớ chàng trải mấy sương sao, Xuân từng đổi mới, đông nào còn dư. |
| 165. | Kể năm đã ba tư cách diễn, Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang. Ước gì gần gũi tấc gang, Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay. |
| 169. | Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá, Gương lầu Tần dấu đã soi chung. Cậy ai mà gởi tới cùng, Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư. |
| 173. | Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía, Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi. Cậy ai mà gởi tới nơi, Để chàng trân trọng dấu người tương thân. |
| 177. | Trải mấy thu tin đi tin lại, Tới xuân nầy tin hãy vắng không. Thấy nhàn luống tưởng thư phong. Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. |
| 181. | Gió tây thổi không đường hồng tiện, Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài. |
| 185. | Đề chữ gấm phong thôi lại mở, Gieo bói tiền tin dở còn ngờ. Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ, Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai. |
| 189. | Há như ai, hồn say bóng lẫn, Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không. Trâm cài xiêm giắt lạnh lùng, Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo. |
| 193. | Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Bức rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm dường đã có đèn biết chăng? |
| 197. | Đèn có biết dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương. |
| 201. | Gà eo óc gáy sương năm trống, Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên. Khắc chờ đằng đẳng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. |
| 205. | Hương gượng đốt hồn đà mê mải, Gương gượng soi lệ lại chứa chan. Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. |
| 209. | Lòng nầy gửi gió đông có tiện, Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng Trời. |
| 213. | Trời thăm thẳm xa vời không thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. |
| 217. | Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô. Giọt sương phủ bụi chim gù, Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi. |
| 221. | Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên. Lá màn lay ngọn gió xuyên, Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. |
| 225. | Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu. |
| 229. | Đâu xiết kể trăm sầu nghìn não, Từ nữ công phụ xảo đều nguôi. Biếng cầm kim, biếng đưa thoi, Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa. |
| 233. | Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói, Sớm lại chiều dòi dõi nương song. Nương song luống ngẩn ngơ lòng, Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai? |
| 237. | Biếng trang điểm lòng người sầu tủi, Xót nỗi chàng ngoài cõi trùng quan. Khác gì ả Chức chị Hằng, Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng. |
| 241. | Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối, Buồn chứa đầy hãy thổi làm cơm. Mượn hoa mượn rượu giải buồn, Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi. |
| 245. | Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng, Ôm đàn tranh mấy phím rời tay. Xót người hành dịch bấy nay, Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi. |
| 249. | Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt, Trống tiều khua như đốt buồng gan. Võ vàng đổi khác dung nhan, Khuê ly mới biết tân toan dường nầy. |
| 253. | Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ, Chua cay nầy há có vì ai? Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề. |
| 257. | Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng, Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn. Duy còn hồn mộng được gần, Đêm đêm thường đến Giang tân tìm người. |
| 261. | Tìm chàng thuở Dương đài lối cũ, Gặp chàng nơi Tương phố bến xưa. Sum vầy mấy lúc tình cờ, Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân. |
| 265. | Giận thiếp thân lại không bằng mộng, Được gần chàng bến Lũng thành Quan. Khi mơ những tiếc khi tàn, Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không. |
| 269. | Vui có một tấm lòng chẳng dứt, Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi. Lòng theo nhưng chửa thấy người, Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe. |
| 273. | Trông bến nam bãi che mặt nước, Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh. Nhà thôn mấy xóm chông chênh, Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. |
| 277. | Trông đường bắc đôi chòm quán khách, Rườm rà xanh cây ngất núi non. Lúa thành thoi thóp bên cồn, Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu. |
| 281. | Non đông thấy lá hầu chất đống, Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai. Khói mù nghi ngút ngàn khơi, Con chim bạt gió lạc loài kêu sương. |
| 285. | Lũng tây thấy nước dường uốn khúc, Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu. Ngàn thông chen chúc khóm lau, Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về. |
| 289. | Trông bốn bề chân trời mặt đất, Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen. Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn, Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc quan. |
| 293. | Gậy rút đất dễ khôn học chước, Khăn gieo cầu nào được thấy Tiên. Lòng nầy hóa đá cũng nên, E không lệ ngọc mà lên trông lầu. |
| 297. | Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu, Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong. Chẳng hay muôn dặm ruổi dong, Lòng chàng biết có như lòng thiếp chăng? |
| 301. | Lòng chàng ví cũng bằng như thế, Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa. Hướng dương lòng thiếp như hoa, Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương. |
| 305. | Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, Hoa để vàng bởi tại bóng dương. Hoa vàng hoa rụng quanh tường, Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần. |
| 309. | Chồi lan nọ trước sân đã hái, Ngọn tần kia bên bãi đưa hương. Sửa xiêm dạo bước tiền đường, Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ. |
| 313. | Bóng Ngân hà khi mờ khi tỏ, Độ Khue triền buổi có buổi không. Thức mây đòi lúc nhạt nồng, Chuôi sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài. |
| 317. | Mặt trăng tỏ thường soi bên gối, Bừng mắt trông sương gội cành khô. Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu, Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi. |
| 321. | Một năm một nhạt mùi son phấn, Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi. Xưa sao hình ảnh chẳng rời, Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương. |
| 325. | Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ, Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in. Gió xuân ngày một vắng tin, Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì. |
| 329. | Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy, Trước gió Xuân vàng tía sánh nhau. Nọ thì ả Chức chàng Ngâu, Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông. |
| 333. | Thương một kẻ phòng không luống giữ, Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau. Thoi đưa ngày tháng ruổi mau, Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh. |
| 337. | Xuân thu để giận quanh ở dạ, Hợp ly đành buồn quá khi vui. Oán sầu nhèo rối tơi bời, Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân. |
| 341. | Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước, E đến khi đầu bạc mà thương. Mặt hoa nọ gã Phan lang, Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng. |
| 345. | Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, Tiếc quang âm lần lữa gieo qua. Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa, Gái tơ mấy chốc đã ra nạ dòng. |
| 349. | Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt, Lầu hoa kia phảng phất mùi hương. Trách Trời sao để lỡ làng, Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên. |
| 353. | Chàng thấy chăng chim uyên ở nội, Cũng dập dìu chẳng vội phân trương. Chẳng xem chim yến trên rường, Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau. |
| 357. | Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh, Nọ loài chim chắp cánh cùng bay. Liễu sen là thức cỏ cây, Đôi hoa cũng dính đôi cây cũng liền. |
| 361. | ƒy loài vật tình duyên còn thế, Sao kiếp người nỡ để đấy đây. Thiếp xin về kiếp sau nầy, Như chim liền cánh như cây liền cành. |
| 365. | Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy, Theo kiếp nầy hơn thấy kiếp sau. Thiếp xin chàng chớ bạc đầu, Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung. |
| 369. | Xin làm bóng theo cùng chàng vậy, Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên. Chàng nương vầng nhật thiếp nguyền, Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn. |
| 373. | Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt, Sức tỳ dân dường sắt trơ trơ. Máu Thuyền vu, quắc Nhục chi, ƒy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn. |
| 377. | Mũi đòng vác đòi lần hăm hở, Đã lòng Trời gìn giữ người trung. Hộ chàng trăm trận nên công, Buông tên ải bắc, treo cung non đoài. |
| 381. | Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải, Tiếng khải ca trở lại thần kinh. Đỉnh non khắc đá đề danh, Triều thiên vào trước cung đình dâng công. |
| 385. | Nước Ngân hán vác đòng rửa sạch, Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen. Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền, Tên ghi gác khói, tượng truyền đài lân. |
| 389. | Nền huân tướng đai cân rạng vẻ, Chữ đồng hưu bia để nghìn đông. Ơn trên tử ấm thê phong, Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương Trời. |
| 393. | Thiếp chẳng dại như người Tô phụ, Chàng hẳn không như lũ Lạc dương. Khi về đeo quả ấn vàng, Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao. |
| 397. | Xin vì chàng xếp bào cởi giáp, Xin vì chàng giũ lớp phong sương. Vì chàng tay chuốc chén vàng, Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. |
| 401. | Mở khăn lệ chàng trông từng tấm, Đọc thơ sầu chàng thẩm từng câu. Câu vui đổi với câu sầu, Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời. |
| 405. | Sẽ rót vơi lần lần từng chén, Sẽ ca dần ren rén từng thiên. Liên ngâm đối ẩm đòi phen, Cùng chàng lại kết mối duyên đến già. |
| 409.
412. |
Cho bỏ lúc sầu xa cách nhớ, Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình. Ngâm nga mong gữi chữ tình, Dường nầy âu hẳn tài lành trượng phu. |
|
|