Trường phái thơ Bạch Nga của Nguyễn Vỹ. – Hoài Nguyễn
Trường phái thơ Bạch Nga của Nguyễn Vỹ.
Nguyễn Vỹ (1912-1971) là nhà báo, nhà thơ người Quảng Ngãi nổi tiếng từ thời Tiền chiến và sau này là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo lớn ở Miền Nam thời VNCH.
Từ thời tiền chiến, ông cũng là một trong những nhà thơ tiên phong là Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ đã phát triển phong trào Thơ Mới.
Trong phong trào Thơ Mới, Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn – Vũ Thị Mai Hương (1916-1992) lập riêng ra trường phái Bạch Nga, chủ trương cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp nhận đúng mức.
Nguyễn Vỹ góp mặt vào làng thơ tiền chiến từ năm 1934, thời kỳ Thơ Mới đang hồi phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, phần đông thi sĩ thường đem khung cảnh lãng mạn, chuyện tình ái vào thi ca…Nhưng với Nguyễn Vỹ, có thể nói nhà thơ không lấy tình yêu làm đối tượng, vì thế thơ ông có một đường nét độc đáo riêng biệt.
Đọc Nguyễn Vỹ, người ta cảm nhận những điều mỉa mai, chua chát…là sự tức tối như muốn phá vỡ cái gì trong hiện tại đang bị dồn ép, uất ức để nói lên nỗi thống khổ của kiếp người…
Sở dĩ gọi trường phái thơ của nhóm Nguyễn Vỹ là Bạch Nga vì những bài thơ theo hình thức này được đăng trên tờ báo Việt – Pháp lấy tên là Le Cygne, tức Bạch Nga do ông thành lập vào năm 1937 và trên tạp chí tiểu thuyết Thứ Năm ở Hà Nội thời ấy. Sau này trên tạp chí Phổ Thông xuất bản ở Sài Gòn, Nguyễn Vỹ tiếp tục đề xướng Trường phái thơ Bạch Nga, và cũng thành lập thành lập Tao đàn Bạch Nga (1962) nổi tiếng một thời ở Miền Nam trong đó Nguyễn Thu Minh làm thư ký và rất đông các thi sĩ đương thời góp mặt như cô Thu Nhi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Minh Đức Hoài Trinh (Pháp), Lâm Vị Thủy, Nguyễn Văn Cổn, Ngọc Hân, Phương Đài, Thùy Dương Tử, Tuệ Mai, Thanh Nhung, bác sĩ Anh Tuấn – Nguyễn Tuấn Phát và Sa Giang -Trần Tuấn Kiệt.
Tuy có danh xưng là Tao đàn Bạch Nga nhưng Nguyễn Vỹ không yêu cầu các thành viên nhất thiết tuân thủ hoàn toàn thể thức thơ Bạch Nga như ông mà hoàn toàn tự do sáng tác theo cách riêng của mình.
Tao đàn Bạch Nga có tổ chức thi thơ theo trường phái này từ năm 1964 và vì ngân sách eo hẹp nên cũng chỉ tổ chức vài ba lần rồi ngưng hẳn.
Thơ theo trường phái Bạch Nga chủ trương sáng tác theo những cảm xúc tự nhiên, phát xuất từ tâm hồn của thi nhân. Về hình thức, mỗi câu thơ có thể chỉ hai từ (như bài “Sương rơi” của Nguyễn Vỹ) đến… mười hai từ…(như bài “Gửi một thi sĩ của nước tôi” của Nguyễn Vỹ, “Viếng mồ lữ khách” của Mộng Sơn).
Về ý thơ, Nguyễn Vỹ đã có nhiều ý tưởng, nhiều câu văn táo bạo (Hai người điên, Hai con chó, Trăng, Chó, Tù, Đêm trinh…). Điều này khiến thơ của ông thoát ra khỏi lối thường tình, cổ điển và cũng chứng tỏ ông là con người có nội tâm cứng rắn, thành thật, dám biểu lộ tâm tư mình bằng những hình ảnh thiết thực do lòng mình suy tưởng…
Thể thơ hình đối xứng được công bố trên thi đàn Bạch Nga. Bài thơ mang dạng hình học, các hình ảnh ngộ nghĩnh, đầy mới lạ (Thơ hình đối xứng là lấy câu giữa của bài thơ làm trục đối xứng của những câu thơ theo thứ tự đầu và cuối của toàn bài thơ. Những bài thơ, nhìn toàn bài sau khi viết hoặc in trên giấy giống như những bức họa, hoặc có hình lục lăng, tứ giác, hình thoi…). Trường phái mới lạ này đã thoát ly khỏi những quy tắc thể thơ cổ truyền. Sau Nguyễn Vỹ, người ta còn bắt gặp nhiều bài thơ “lạ” như thế của Phan Phụng Văn, Ngô Hữu Đoàn và nhiều cây bút khác. Tuy nhiên, phải nghiêm khắc mà nói thì những tìm tòi, cách tân đó của Nguyễn Vỹ và Tao Đàn Bạch Nga đã quá sa đà vào chủ nghĩa hình thức (mà ở phương Tây lúc đó chủ nghĩa Vị lai đang rộ lên).
Giới thiệu Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh và Hoài Chân cũng đã viết như sau: Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì…
Chê bai, nhưng ngay sau đó hai ông cũng phải nhìn nhận: Một bài như bài “Sương rơi” được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt lệ…Nhưng “Sương rơi” còn có vẻ một bài văn. “Gửi Trương Tửu” mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ.
Trong lúc say, Nguyễn Vỹ đã quên được cái tật cố hữu của người, cái tật lòe đời. Người đã quên những câu thơ hai chữ và những câu thơ mười hai chữ. Người dùng một lối thơ rất bình dị, rất xưa, lối thất ngôn tràng thiên liên vận và liên châu. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người. Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có chút công, một hạng người đã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn…Nguyễn Vỹ đã làm bài thơ này trong một lúc vô cùng buồn giận vì cái nghiệp văn chương. Những ai cùng một cảnh huống xem thơ tưởng có thể khóc lên được. Trong lời văn còn chút nghênh ngang từ đời xưa lưu lại. Nhưng ta đã xa lắm rồi cái kiêu ngạo phi thường của Lý Thái Bạch chỉ biết có văn chương còn khinh hết thảy…
Khác với các ý trên, Lan Khai trong báo Đông Phương, Phạm Huy Thông trong báo L’Annam nouveau (báo của Nguyễn Văn Vĩnh), Lê Tràng Kiều trong Hà Nội báo (số 23, ngày 10 tháng 6 năm 1936), Trương Tửu, Mông Sơn… trên các báo Đông Phương, Hà Nội, Phụ Nữ, Tiểu Thuyết Thứ Năm đều hết sức khen ngợi thơ Nguyễn Vỹ.
Ở Sài Gòn, trong quyển Hồn Thơ nước Việt thế kỷ XX tác giả Lam Giang đã nhận định như sau: Phê bình Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh phát biểu một ý kiến võ đoán: “Nguyễn Vỹ chí lớn mà tài nhỏ nên hay lập dị, chứ thật sự ít có thành tích văn chương”. Tôi thiết tưởng cái công du nhập đầu tiên lối thơ nhạc vào thi đàn Việt Nam, giữa lúc rất nhiều người chỉ chăm lo đả kích Luật Đường, chứ chưa sáng tạo được một thể điệu gì mới, cũng đáng cho chúng ta nhìn tác giả với một nhãn quang nhiều thiện cảm hơn.
Một số bài thơ tiêu biểu theo trường phái thơ Bạch Nga như:
1. Sương rơi
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu …
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hắt hiu
Thấm vào
Em ơi,
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương!…
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi !
Từng giọt
Thánh thót,
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang !…
Rơi sương
Cành dương
Liễu ngã
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt,
Thánh thót,
Từng giọt.
Tơi bời
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi !…
Nguyễn Vỹ – (Văn học Tạp chí,1935)
2. Hoàng hôn
Một đàn
Cò con
Trắng nõn
Trắng non
Bay về
Sườn non
Gió giục
Mây dồn
Tiếng gọi
Hoàng hôn
Buồn bã
Nỉ non
Từ giã
Cô thôn…
Còn con
Cò con
Trắng non
Nào kia
Lạc bầy
Lại bay
Vào mây
Ô kìa!
Nguyễn Vỹ – 1950
3. Mưa rào
Mưa
Lưa thưa
Vài ba giọt…
Giọt lệ tình đau xót?…
Nhưng mây mờ mịt gió đưa
Cây lá rụng xào xạc giữa trưa.
Mưa đổ xuống ào ạt, mưa, mưa, mưa!
Thời gian trôi tan tác theo tiếng mưa cười!
Không gian dập vùi tan tác theo thác mưa trôi,
Đàn em thơ nhào ra đường, giỡn hớt chạy dầm mưa!
Cỏ hoa mừng nên vận hội, ngả nghiêng tắm gội say sưa!
Nhưng ta không vui không mừng, lòng không ca không hát!
Ta đưa tay ra trời, xin giòng mưa thấm mát
Tưới vết thương lòng héo hắt tự năm xưa!
Nhưng ô kìa! Mưa rụng chóng tàn chưa!
Trời xanh xanh, mây bay tan tác.
Ai còn ươm hạt mưa đào,
Lóng lánh trong tim Hoa?
Ai ươm mưa sầu,
Ôi mong manh,
Trong tim
Ta!
Nguyễn Vỹ – Hoang vu -1962)
Trước khi bị tai nạn giao thông qua đời đúng một năm, Nguyễn Vỹ viết bài thơ “Quảng Ngãi, quê hương tôi”. Lời thơ tha thiết, ý thơ hùng hồn, Nguyễn Vỹ đã khắc họa được những nét đặc trưng tiêu biểu về đất và người quê hương núi Ấn sông Trà:
“…
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Nhiệm màu guồng xe nước
Tha thướt chập chùng
Lên men đồng lúa mướt
Lả lướt mênh mông
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Thương thương làn mây trôi
Mơn cảnh đồi Thiên Ấn
Vương vương sầu tơ nắng
Nút Bút vùng phương khôi
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Dòng sông rạo rực
Lưng Rồng uốn khúc
Rực rỡ ánh dương ngời
Trùng trùng gấm vóc
Huyết lệ sử dân Hời
Từ Chiêm Thành khai quốc
Dâng về ngôi Đại Việt
Trọn ân tình Chúa, Tôi
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Dân tình bất ly
Dân trí bất nhược
Dân đức bất suy
Dân tâm bất khuất
Khí thiêng nung đúc
Văn chương kiệt phách hào hoa
Bất chấp cường quyền, uy vũ
…”
Nguyễn Vỹ không làm chính trị nhưng có quan điểm chính trị rất dứt khoát, rõ ràng – dù đôi khi quá khích. Khi mới hai mươi bảy tuổi Nguyễn Vỹ đã một mình đứng ra lập tờ báo tiếng Pháp để viết bài chống Pháp! Khi phát xít Nhật đang ào ào tiến công toan nuốt trọn châu Á thì Nguyễn Vỹ viết sách chống Nhật. Ông vào Sài Gòn – đất do chính quyền “Nam kỳ tự trị” cai trị, lại ra báo Tổ Quốc kêu gọi Việt Nam độc lập, thống nhất! Lên Đà Lạt – đất “Hoàng triều cương thổ” của triều Nguyễn, ông lập báo Dân Chủ chống chế độ quân chủ lập hiến! Hiếm có nhà văn, nhà báo nào dám làm những chuyện “chọc trời khuấy nước” như Nguyễn Vỹ! Có người cho rằng Nguyễn Vỹ ngông, cực đoan hoặc quá khích!
Nhìn khái quát, có thể nói Nguyễn Vỹ là con người điển hình của thế hệ trí thức đầu thế kỷ XX. Ông là người yêu nước chống Pháp ngay từ học sinh trung học và chống Nhật sau này. Ông khát khao xây dựng một nền văn chương mới. Tham gia viết hầu hết các thể loại, làm báo, không bao giờ dừng bước và đã để lại dấu ấn trên nhiều lĩnh vực, nhưng ông thành công hơn cả với tư cách một nhà thơ.
Miền Nam Việt Nam hay VNCH tuy chỉ tồn tại hơn 20 năm trời (1954-1975) nhưng có thể nói một cách công bằng là lĩnh vực về văn chương – báo chí phát triển hơn hẳn Miền Bắc cùng thời kỳ đó. Số lượng sách báo thời ấy phát hành tự do và khá nhiều mà không có sự can thiệp quá sâu rộng của chính quyền chủ yếu là theo nhu cầu của các tầng lớp độc giả từ bình dân đến thượng lưu trí thức, tất cả đều có đủ.
Sự đóng góp này phải nói có công đóng góp không nhỏ của Nguyễn Vỹ – một nhà thơ, nhà văn và là nhà báo lão thành trong làng báo miền Nam. Ông được người đời công nhận là một nhà báo dám nói lên sự thật. Nguyễn Vỹ chính là một trong những nhân chứng của một thời đại mà ông đã từng sống và cố gắng bằng cả tâm huyết để xây dựng một nền văn chương báo chí tiếng Việt mà hiện nay những lớp người như chúng tôi khi nhớ lại dường như cứ mãi luyến tiếc một điều gì đó, một thời tự do của tuổi trẻ đã mất rồi…
Hoài Nguyễn – 11/12/2021