Anh Thinh Quang, bài của Nguyễn Liệu
Anh Thinh Quang,
Nghe tin chị qua đời, tôi bàng hoàng nghĩ đến anh. Vẫn biết những người lên trên tuổi 70 đã có ý tưởng việc phải ra đi phải lià cõi trần, vẫn biết những người trên 80 ý thức ra đi mạnh mẽ hơn ý thức còn ở lại. Năm nay anh trên 90 tôi trên 80 chúng ta đều sẵn sàng để ra đi về một thế giới khác. Nhưng tôi vẫn bàng hoàng nghĩ đến nỗi buồn của anh khi chị từ giã cõi trần.
Anh lập gia đình tức gặp chị năm 1945, năm ấy anh mới có 22tuổi và chị vừa đúng 18. Tuy mới hai mưoi hai tuổi nhưng anh đã có văn có thơ xuất bản và anh là nhà thơ nhà văn. Rồi từ đó đến ngày gia đình anh định cư ở Hoa Kỳ ,30 năm cuộc đời đầy sóng gió. Mặc dù nước Việt nam chúng ta đã phải chịu nhiều giai đoạn lịch sử bi thảm, nhưng bi thảm nhất vẫn là 30 năm (1945-1975) chúng ta vừa lớn lên và trưởng thành. Ba mưoi năm có lúc rất oai hùng vinh quang, nhiều lúc tưởng như phải lìa cõi trần, nhiều lúc đau xót, và cũng có lúc phải chịu nhục nhã gian khổ cùng cực.
Thân phụ anh là một thương gia giàu có ở phố Thu Xà Quảng Ngãi, nhưng anh từ bỏ cảnh giàu sang để sống cuộc đời theo sở thích thi ca, cuộc đời nghệ sĩ , cuộc đời xem thường thương mại kinh tế. Thật rất hiếm có người vợ nào muốn chồng mình là một nghệ sĩ xem thường sự giàu sang phú quí. Và có sự nghiệp nào của người chồng mà không có sự tích cực đóng góp của người vợ. Tôi còn nhớ rất rõ trên 5 năm rồi, hôm anh em văn nghệ sĩ đón mừng anh trong một dạ tiệc tại nhà tôi, khi chị vừa xuống xe tôi chào đón chị với lời cảm ơn : “ Ngày hôm nay chúng tôi có được một nhà văn nhà thơ nhà báo Thinh Quang, một phần do chị cho nên chúng tôi tri ân chị”. Nhưng hôm nay chị vừa mới từ giã anh, từ giã chúng ta.
Khi tuổi quá 70 tôi mới khám phá ra những điều mà lúc còn trẻ tôi không biết, hoặc tôi nghi ngờ nếu có ai viết có ai nói về tình cảm của tuổi già, nhất là tinh cảm về gia đình về vợ con về quê hương xứ sở.Lúc còn trẻ chúng ta rất hờ hững không cảm được những lời khóc vợ của cụ Yên Đỗ mà những bậc phụ huynh những nhà phê bình cho là những lời hay :
Nhà chỉn rất nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm,
thắt lưng bó que, sắn váy quai cồng,
tất tưởi chân nam chân xiêu,
vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng,
búi tóc củ hành, buông quần lá tọa,
gật gù tay đũa tay chén,
cùng ai kể lể chuyện trăm năm ?
Đến tuổi già chúng ta mới thấy được những lời khóc vợ của cụ Yên Đỗ thật hay thật tội nghiệp. Vế thứ hai tuyệt , những chữ “ vất vơ vất vưởng”thấy được nỗi cô đơn thấy được cuộc sống không ổn định khi người vợ đã lìa trần. “ Gật gù tay đũa tay chén” quả là hình ảnh một ông già đang ăn cơm khi không có một người nào giúp đỡ nhắc nhở ông nên có những cử chỉ vụng về lượm thượm khi cầm đũa khi cầm chén cơm. Tội nghiệp nhất là “ cùng ai kể lể chuyện trăm năm”, kẻ ra đi người còn ở lại cô quạnh quá.
Nếu có người bảo tuổi già vì sức lực mòn mõi tâm trí suy tàn nên tình cảm cũng hời hợt khác tuổi trẻ. Nhận xét đó có tính cách tổng quát và không đúng. Theo tôi, có khác với tuổi trẻ nhưng không hời hợt trái lại tình cảm tuổi già tập trung vào trọng điểm là vợ chồng, con cháu, và những người bạn thân còn lại. Tuổi trên 80, con cái trưởng thành không còn sống chung với cha mẹ, cháu nội cháu ngoại vào trung đại học nên rất ít có thì giờ gặp ông bà, bạn bè thân nhiều người đã vĩnh viễn ra đi, người còn lại thường ít muốn di chuyển khỏi nhà, và chỉ còn duy nhất là người bạn trăm năm, người vợ suốt mấy mươi năm chia xẻ những niềm ấm lạnh với chồng. Vào giai đoạn này, nếu kinh tế gia đình tạm ổn định thì cuộc sống của ông bà già, của cặp vợ chồng già rất là ấm cúng rất là thiết tha, rất thú vị. Lúc trẻ nhất là thời kỳ chiến tranh người chồng thường phải xa gia đình vì nghĩa vụ quân sự, vì chiến trường, có khi phải xa gia đình vì công việc mưu sinh, cũng có khi vì cuộc sống giang hồ nghệ sĩ. Lúc còn trẻ cuộc sống tình cảm rất mãnh liệt nhưng đủ sức chịu đựng sự chia lìa để làm phận sự tổ quốc xã hội, nhưng đến khi về già thì thật khó xa lìa người vợ người chồng thân yêu. Cuộc trà buổi sáng, các bữa ăn hằng ngày, hai ông bà già đều có nhau. Hai cái chén hai đôi đũa, giản dị thôi, nhưng thật ấm cúng. Nhất là những câu chuyện bất tận hằng ngày, nhiều khi lặp đi lặp lại những kỷ niệm xa xưa, những chuyện xóm làng, những chuyện lúc còn học trò, những chuyện tết nhứt, cúng giỗ, những chuyện quan gia tang tế nhắc đi nhắc lại vẫn muốn nghe vẫn lý thú. Rồi những giờ ông bà đi chầm chậm trong công viên dưới ánh nắng mùa Xuân ấm áp nhìn bầu trời quen thuộc lúc nào cũng triều mến, ngoạn mục.
Từ ngày anh có chị bên cạnh tôi nghĩ khi anh viết xong câu thơ đắc ý khi anh hoàn thành một truyện ngắn độc giả đầu tiên của anh chính là chị . Rồi vợ chồng nhận xét bàn bạc trong những cuộc trà sáng sớm thật thú vị. Nay chị đi rồi… đâu còn nữa !. Căn nhà nhỏ của anh biến thành bãi sa mạc hoan vu buồn thảm
“Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh
Khổ khi thức giấc tàn canh
Bên giường trống trải một mình nằm trơ
Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước
Pha ấm trà chén nước mời nhau
Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,
Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi…” ( Tú Mỡ khóc vợ )
Tôi muốn viết thêm ít câu để góp ý với anh, tuy vẫn biết những lời này không đi đến đâu, trong lúc anh phải chịu một nỗi buồn một cảnh cô đơn khủng khiếp. Là nhà văn, hay là anh nên viết một truyện dài về chị để sống với nhân vật trong truyện là chị may ra giảm bớt nỗi sầu. Tôi biết nhà văn có khi yêu nhân vật trong truyện mình viết như yêu một người thực trên cõi đời. Và cũng từ nay anh viết nhiều lời thơ về chị may ra vơi bớt nỗi buồn
Anh Thinh Quang,
Không may mắn, cuộc đời của chúng ta nhằm trong giai đoạn lịch sử đau khổ cùng cực, bây giờ anh thêm một nỗi buồn lớn nữa, tôi không thể dùng những lời khuyên khách sáo và cũ rích gửi đến anh nên tôi xin dừng, và xin thắp cho chị một nén nhang. Sau cùng cầu mong anh vượt qua được nỗi đau buồn vắng lạnh.
Nguyễn Liệu