TÌNH THẦY TRÒ bài của giáo sư Lê Quang Chưởng
TÌNH THẦY TRÒ
Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.
Thế mới biết ngày xưa người thầy được trọng vọng biết bao nhiêu, đứng vào hàng thứ hai trong thứ bậc tôn kính : Quân – Sư – Phụ. Đức Khổng Tử được tôn là Vạn thế sư biểu, dạy học cả nửa thế kỷ từ lúc 20 tuổi, môn đệ khoảng ba ngàn người, có những người theo học cả mười năm như Tử Cống, Tử Lộ … Chưa từng thấy một bậc thầy nào được học trò ngưởng mộ, vừa kính vừa yêu như Đức Khổng Tử. Khi Đức Khổng Tử mất, thọ 73 tuổi, môn đồ để tang ba năm, mãn tang họ họp nhau lần cuối trước mộ để khóc thầy rồi mới chia tay mỗi người một ngã. Riêng Tử Cống còn ở lại thêm ba năm nữa để giữ mộ cho Thầy. Khi Tử Cống đi rồi, hàng trăm gia đình lần lượt đến cất nhà gần mộ Thầy, làm thành một làng Khổng Lí.
Sau khi Đức Khổng Tử mất cả trăm năm, các môn sinh họp lại chép những bài học đối đápgiữa thầy trò thành một tập như nhật ký tức bộ Luận Ngữ. Sở dĩ được như vậy vì tính tình Ngài rất khả ái và tư cách rất cao. Ngài ôn hòa nhưng nghiêm trang, oai vệ nhưng thư thái hiền từ.
Trong bộ Luận Ngữ có những đoạn vui thú nhất là những chỗ ghi chép lời thầy trò họ Khổng tâm sự, nói đùa với nhau. Những bài Khổng Tử hỏi ý chí mỗi môn đệ, khen có, chê có, có khi vừa mỉa mai, có khi la mắng , có khi thương tiếc như con ruột khiến cho ta vừa qúi, vừa cảm động. Nhan Hồi, một môn sinh tài đức vẹn toàn, Ngài rất thương mến, nhưng bất hạnh Nhan Hồi mất sớm khi mới 31 tuổi. Đức Khổng Tử đau xót vô cùng khóc nức nở : “Trời hại ta ! Trời hại ta !”. Môn đồ phải ngạc nhiên, khuyên Ngài : “Thầy nức nở qúa! “. Ngài đáp : “Ta nức nở làm sao? Nhưng ta chẳng vì người ấy mà nức nở thì vì ai ? “
Thán phục thầy thì vô số, nhưng xin kể một trường hợp về Tử Cống. Khi Tử Cống làm quan nước Lỗ, nước Vệ, khéo kinh doanh, lại có tài biện thuyết cho nên được Thúc Tôn Võ Thúc, một đại phu nước Lỗ khen là tài giỏi, hiền đức hơn Khổng Tử. Có người kể lại lời đó cho Tử Cống nghe. Tử Cống bảo : “ Thúc Tôn Võ Thúc nói bậy, lấy bức tường cung thất ra làm ví dụ. Bức tường của tôi chỉ cao tới vai người, nên đứng ngoài tường trông vào người ta có thể thấy đồ vật tốt đẹp bên trong. Còn bức tường của thầy tôi cao mấy nhẫn, nếu không được vào, chỉ đứng ngoài tường thì không thấy được đồ hoa mỹ trong tôn thất, những đồ trang sức của bá quan.”
Lần khác cũng Võ Thúc chê Khổng Tử. Tử Cống đáp: “Không ai có thể hủy bang được thầy tôi. Đức của người khác chỉ như cái gò, cái nổng, đức của thầy tôi cao xa như mặt trời, mặt trăng không ai vượt qua được.”
Khổng Tử rất hiếu học, suốt đời vừa dạy vừa học thành nhà bác học bậc nhất đương thời.
Non bốn trăm năm sau khi Đức Khổng Tử mất, Tư Mã Thiên chép lại đời Ngài mà vô cùng xúc động : “ Tôi đọc sách Khổng Tử, tưởng tượng hình dáng, tư cách của ngài. Rồi khi tới nước Lỗ tôi nhìn xe, áo lễ trong miếu của ngài, nhận xét các môn sinh học lễ ở nhà ngài, mà lưu luyến không muốn rời chân. Các quân vương hiền nhân trong thiên hạ không phải là ít, còn sống thì vinh quang, chết rồi là hết. Duy chỉ có Khổng Tử là người áo vải, tới nay đã trên mười đời, vẫn đưọc các học giả ( trỏ các nhà Nho ) tôn sùng. Ở Trung Quốc từ bậc thiên tử vương hầu trở xuống, hể bàn tới lục nghệ ( tức lục kinh ) đều lấy ngài làm tiêu chuẩn. Ngài thật đáng là bậc chí Thánh.”
Thầy Mạnh Tử có số môn đồ cũng khá đông trên ngàn người. Chúng ta không thấy tình thân mật như cha con giữa thầy trò của Mạnh Tử như thầy trò của Khổng Tử. Có lẽ vì Mạnh Tử nghiêm nghị, không khoan hòa như Khổng Tử, mà hơi cách biệt với môn sinh.
Mạnh Tử về già chỉ tìm cái vui trong việc dạy học, ông bảo: “ Người quân tử có ba điều vui, mà làm bậc vua cai trị thiên hạ không phải là một trong những cái vui ấy.
Cha mẹ còn khoẻ mạnh, anh em chẳng hề gì, đó là điều vui thứ nhất.
Trông lên chẳng hổ với trời, nhìn xuống chẳng thẹn với người. đó là điều vui thứ hai.
Được bậc anh tài trong thiên hạ dạy dỗ, đó là điều vui thứ ba.”
Đó là chuyện bên Tàu, còn ở nước ta thì có ông Chu An ( ta thường gọi là Chu Văn An ) đời nhà Trần, tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn, người làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Tính tình phóng khoáng, ông sống cuộc đời giản dị, thanh cao, không màng công danh phú qúi. Ông rất thích đọc sách nên đặt tên xóm ông là Văn thôn và dựng một ngôi nhà ở sườn đồi để vừa làm thư viện, vừa làm trường học. Các sĩ tử đến thụ giáo rất đông.
Đời vua Trần Minh Tông ( 1314-1329 ), ông được nhà vua trọng dụng, ông làm Tư Nghiệp Quốc Tử Giám, kiêm việc dạy Thái tử, ông mang tài trí ra giúp dân, giúp nước. Ông là bạn đồng liêu của những bậc lỗi lạc như Phạm Ngũ Lão, Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Mạc Đỉnh Chi.
Đến đời vua Trần Dụ Tông , sau khi Thái Thượng Hoàng Trần Minh Tông mất đi, kẻ gian thần lộng quyền làm những điều phi pháp. Chu Văn An hết lời can ngăn nhưng không được. Ông bèn dâng Thất Trảm Sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần, toàn là những người quyền thế hách dịch. Vua không nghe, ông cởi áo từ quan, trở lại dạy học để rèn luyện thanh niên.
Đối với học sinh, Chu văn An là bậc phu tử gương mẫu thân ái mà nghiêm nghị. Học trò Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát làm quan đến chức Thượng thư mà đối với ông vẫn giữ lễ thầy trò, khi đến thăm thầy, thường đứng hầu dưới đất, khi lầm lẫn vui vẻ chịu quở trách, khi được cùng thầy bàn luận thì lấy làm rất vinh hạnh.
Ông tạ thế năm 1370, vua Trần Nghệ Tông sai quan đến dự tế, ban tên thụy là Văn Trinh Công và hiệu là Khang Tiết Tiên sinh, cho cùng thờ ở Văn Miếu, ngang với các bậc Tiên nho.
Sử gia Ngô Sĩ Liên viết về ông Chu Văn An : “Thờ vua rất tôn kính mà không nịnh, xử thần chỉ lấy đạo chính mà không tà. Gầy dựng nhân tài thì có cả công khanh là học trò, cao thượng phong tiết thì thiên tử chẳng hề khinh như tôi tớ. Thế mạo chững chạc ,đạo thầy đáng tôn, thanh khí oai nghiêm khiến kẻ nịnh thần khiếp đảm.”
Ngày xưa, thực ra không có cảnh nào vui hơn cái cảnh một đám học trò cũ, già trẻ có, giàu nghèo có, quan san dân giả có, xa gần tụ họp được trong ngày giổ của thầy để ôn lại những lời thầy dạy, những chuyện cũ, những kỷ niệm thời thơ ấu.
Ngày nay, sau biến cố năm 1975, người Việt di tản, tị nạn chính trị, đoàn tụ gia đình ở khắp nơi trên thế giới, nhiều nhất là ở Mỹ. Có lẽ vì nhớ quê hương, nhớ quá khứ với những kỷ niệm vui buồn, vì muốn có sự đoàn kết thương yêu nhau để tạo nên sức mạnh nên có nhiều hội đoàn xuất hiện. Như Hội Ái Hữu trường Trung học Châu Văn Tiếp tỉnh Phước Tuy, Hội Liên Trường Trung Học tỉnh Quảng Ngãi, Hội Liên Trường Trung Học Quảng Nam – Đà Nẳng …Cũng là dịp thầy trò, các bạn đồng nghiệp, các bạn bè đồng môn gặp nhau hàn huyên, chia xẻ những kinh nghiệm sống nơi xứ người, tha hương ngộ cố tri thì có gì vui sướng hơn. Một việc làm đáng được vinh danh.
Năm 1944 tôi học lớp Ba trường làng , trường có tên là Nghĩa Từ thuộc làng Quít Lâm, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Thầy tôi là thầy Nguyễn Vệ, người ở làng Chu Me, nhà thầy cách làng tôi một cánh đồng khá rộng. Mỗi sáng đi dạy vào mùa khô, thầy đi bộ băng qua cánh đồng, quần xăn tận đầu gối, hai vạc áo dài lận vào lưng quần, tay xách guốc, tay kẹp dù. Vào mùa nước lụt thì thầy đi ghe. Y phục đi dạy của thầy là quần dài trắng, áo dài đen, đầu đội khăn đóng đen. Khi qua cánh đồng ruộng, đến con đường làng, thầy sửa soạn lại quần áo chỉnh tề. Lúc ấy cũng vào giờ học sinh đi đến trường, học sinh đứng bên đường chờ thầy đi trước cả đoàn học sinh, trong đó có tôi, lũ lượt theo sau như một đoàn tàu lửa mà thầy là đầu tàu. Hình ảnh thật tuyệt vời của thầy trò !
Các thầy ở thế hệ tôi thời đó thường rất nghiêm khắc. Thầy không những dạy về kiến thức mà còn dạy đủ mọi điều về đức hạnh như trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Thầy không những phạt học tròkhi phạm lỗi ở trường, ở lớp mà còn phạt khi thầy bắt gặp học trò ngỗ nghịch ở ngoài phạm vi nhà trường.
Những hình phạt thầy thường dùng là roi và thước kẻ, roi thì đánh vào mông, thước kẻ thì gõ vào năm đầu ngón tay chúm lại. Thầy áp dụng đúng theo nghĩa chữ Giáo, theo chiết tự chữ Hán, chữ Giáo gồm có hai bộ chữ Hiếu và chữ Phộc. Chữ Hiếu là một đức hạnh, chữ Phộc là đánh khẻ, đánh nhẹ, kèm theo lời chỉ dẫn : Thương cho roi, cho vọt .
Ngôn ngữ thầy thường dùng với học trò là : Tụi bây… đứa nào,nghe không thanh lịch bằng : Các cô, các cậu …anh chị nào như ngày nay, nhưng chứa đựng nhiều tình cảm chân thật.
Sau khi khôn lớn trưởng thành, bạn bè gặp nhau nhắc lại những lời thầy mắng, những hình phạt của thầy, lại càng thấy thương thầy hơn. Ngày xưa ở quê nhà ngày Tết tôi cũng thường đến thăm các thầy theo câu ca dao :
Mùng một thì tết nhà cha,
Mùng hai nhà mẹ, mùng ba nhà thầy.
Trong sách Quốc VănGiáo Khoa Thư, ông Trần Trọng Kim kể :
Ông Carnot xưa là một quan to nước Pháp, một hôm lúc rảnh việc về chơi quê nhà. Khi đi ngang qua trường học ở làng, trông thấy ông thầy dạy mình lúc bé, bây giờ đầu đã bạc phơ đang ngồi trong lớp dạy học. Ông ghé vào thăm trường và chạy ngay lại trước mặt thầy giáo chào hỏi lễ phép mà nói rằng : “ Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không ?” Rồi ngoảnh lại khuyên bảo học trò rằng : “ Ta bình sinh nhất là ơn cha mẹ, sau ơn thầy ta đây, vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay. “ ( trong bài : Học Trò Biết Ơn Thầy )
Thật xúc động vô cùng khi nghe cảm nghĩ của một học sinh đối với thầy mình trong bài nhạc Bụi Phấn của Vũ Hoàng sau đây:
Khi thầy viết bảng,
Bụi phấn rơi rơi.
Có hạt bụi nào rơi trên bục giảng,
Có hạt bụi nào rơi trên tóc thầy.
Em yêu giây phút này.
Thầy em tóc như bạc thêm,
Bạc thêm vì dạy dỗ.
Cho em bài học hay,
Mai sau lớn nên người,
Làm sao có thể nào quên
Ngày xưa thầy dạy dỗ
Khi em tuổi còn thơ.
Năm 1945 , Việt minh cướp chính quyền từ đế quốc Nhật, tôi lên lớp nhì (lớp Bốn ngày nay) học trường huyện Mộ Đức. Cô giáo dạy lớp tôi là cô Nguyễn Thới Ba Viên, người ở làng An Tây, huyện Đức Phổ. Cô thuê nhà trước cổng trường, cô cho tôi và một người bạn cùng làng ở trọ. Có một kỷ niệm tôi không bao giờ quên. Hôm đó cô đang làm cơm tối dưới nhà bếp, gọi tôi và người bạn hỏi mấy giờ rồi , tôi và người bạn đứng nhìn đồng hồ treo trên tường lo sợ vì chẳng biết gì. Đợi lâu quá, cô chạy lên nhà, bọn tôi nhìn cô ngơ ngác. Cô hỏi : “ Bộ các con không biết coi giờ hả ?“ Chúng tôi thưa với cô là ở trường làng các thầy chưa dạy cách coi giờ. Cô dạy cho chúng tôi biết coi giờ từ đó. Thường thường sau bữa cơm tối cô cũng dạy thêm cho bọn tôi về toán và văn, do đó từ năm đó trở đi việc học hành của tôi cũng được tiến bộ nhiều.
Sau hiệp đinh Genève 1954 cô tập kết ra miền Bắc, rồi đến biến cố năm 1975 cô trở về miền Nam. Tôi đã hỏi thăm bạn bè ở Quảng Ngãi tìm cô, nhưng không có kết quả gì, vì khi trở vào miền Nam cô không về quê Quảng Ngãi. Mãi đến năm 2004 cũng có duyên may, người bạn của tôi ở Florida là anh Nguyễn Trọng Phu cho tôi số điện thoại của cô, từ đó tôi liên lạc được với cô. Không sao nói được sự vui mừng của tôi khi nói chuyện được với cô bằng điện thoại cũng như khi đến nhà ở Sàigòn thăm cô lần đầu tiên sau 60 năm xa cách.
Khi viết bài này, nhắc về cô thì cô không còn nữa, cô mất năm 2008. Nhưng trong lòng tôi lúc nào ghi nhớ công ơn dạy dỗ của cô cho tôi nên người, cô là cô giáo duy nhất trong đời tôi.
Những kỷ niệm của tôi với các thầy cũng khá nhiều, làm sao kể hết. Đối với tôi từ khi vào trường lúc đầu đời học i tờ mãi đến nay đã quá tuổi cổ lai hy, lúc nào tôi cũng là người học trò của một ai đó không về phương diện này thì cũng phương diện khác. Như một danh nhân phương Tây nóí : “ Tôi gặp bất kỳ người nào họ cũng hơn tôi về mặt này hay mặt khác. “ Nếu vậy thì sao mình không học ở họ một điều gì đó ? Tôi nghĩ điều thú vị và sung sướng là được làm học trò hơn là được làm thầy, vì chúng ta càng ngày càng học thêm nhiều điều mới lạ. Những suy nghĩ của tôi có thể không đồng quan điểm với các bạn xin hãy thông cảm và tha thứ. Như ông Descate nói : “Trong một phiên họpcó nhiều thành phần trí thức khác nhau và mỗi người phát biểu một kiểu. Như thế không có nghĩa là người này hơn người kia mà là mỗi người hướng dẫn một ý thức khác nhau.”
| Tình thầy tròngày nay cũng thay đổi nhiều so với ngày xưa, nói theo ngôn ngữ thời nay ở bên nhà là xuống cấp. Thực ra điều đó cũng thường tình vì mọi điều thay đổi, ảnh hưởng tùy theo xã hội, thời đại. Một xã hội mà bằng cắp có thể mua, đề thi có thể bán ra ngoài, thì tình thầy trò thay đổi xuống cấp là chuyện tất nhiên. Nhưng ở hải ngoại chúng ta rất tự hào là các em học sinh đã lập được các hội Ái Hữu của các trường cũ trước năm 1975, thường xuyên gặp mặt nhau để hàn huyên, tham hỏi, chia xẻ những vui buồn, trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống mới nơi quê người. Thật là một kỳ tích ! Quan hệ thầy trò là mối quan hệ trong sáng, đẹp đẽ, chúng ta đã trân quý và giữ mãi mối quan hệ tốt đẹp đó như một vốn quý của cuộc đời. Tôn sư học đạo là một trong những gía trị nhân bản của nền giáo dục Việt Nam mà ông cha chúng ta đã dày công vun đắp. Truyền thống đạo lý cao quý ấy đã được các em học sinh hải ngoại khơi động mạnh mẽ. Thật là một điều đáng mừng ! |
| Trong quan niệm thầy trò theo thời gian cũng có thể thay đổi. Với quan hệ mới, thầy trò có thể là đồng nghîệp, cũng có thể là trò thầy. Điều đó cũng là bình thường, thầy vẫn đứng đó còn trò thì ngày càng tiến xa hơn. Chuyện kể sau năm 1975, theo nhà văn Võ Hồng ở Nha Trang. Có một học sinh của ông cũng là đồng nghiệp cùng trường của ông, lần đầu tiên khi gặp ông ở phòng giáo sư, người học sinh cứ ấp a, ấp úng không biết xưng hô thế nào. Gọi bằng thầy hay bằng ông, hay bằng anh đây?. Ông Võ Hồng thấy tội nghiệp cho người học trò cũ, trên đời này thì thiếu gì Thầy nào là thầy địa lý, phong thủy, thầy cúng, thầy bói, thầy dạy võ… sao lại ngại gọi thầy cũ của mình bằng Thầy? Được gọi bằng thầy chứng tỏ là mình có học, bởi có học mới có thầy. Chứ đâu như chuyện kể có người tùy viên vào thưa với vị nguyên thủ quốc gia: “ Thưa Chủ tịch có người thầy cũ của Chủ tịch muốn xin yết kiến. “ Người nguyên thủ trả lời : “ Quái nhỉ, bình sinh ta có đi học bao giờ mà có thầy cũ. “ chuyện vui thôi ! Trong quan hệ mới có quan hệ trò thầy như chuyện cô Minh Tâm giáo sư Đại học Sư Phạm Lý Hóa Huế, cô tiếp tục dạy ở trường Trưng Vương Qui Nhơn sau biến cố 1975. Sau vài năm cô vào Sàigòn học vi tính ở Đại học Sàigòn cô gặp người học sinh cũ là thầy dạy lớp của cô. Như thông lệ mỗi khi thầy vào lớp thì tất cả học sinh đứng dậy để chào thầy. Nhưng khi có cô giáo cũ vào học, người thầy nói với cả lớp là từ nay các anh chị không phải đứng dậy mỗi khi tôi vào lớp vì trong lớp này có cô giáo cũ của tôi. Kể cũng cảm động ! |
Trong thời buổi chiến tranh loạn lạc, chia cắt đất nước rồi mất nước phải di tản, tị nạn nơi xứ người thế mà tôi có được diễm phúc liên lạc và gặp lại được các thầy cô từ tiểu học đến đại học cũng khá nhiều. Khi tôi viết những dòng nàyđể tri ân thầy cô đã bỏ công dạy dỗ cho tôi nên người, thì một số thầy cô đã không còn ở trên đời này nữa, nhưng trong tâm khảm của tôi luôn luôn ghi đậm những hình ảnh của các thầy cô.
Cuộc đời dạy học của tôi cũng nay đây mai đó khắp ba vùng chiến thuật trừ vùng bốn. Năm 1962 tôi bắt đầu dạy các trường Sao Mai, Thánh Tâm, Nguyễn Công Trứ ở Đà Nẳng. Năm 1964 tôi về dạy các trường Trần Quốc Tuấn, Chấn Hưng ở Quảng Ngãi. Năm 1966 tôi dạy ở Sàigòn các trường Đạt đức, Tân Thạnh, Nguyễn Duy Khang và trường Châu Văn Tiếp tỉnh Phước Tuy. Năm 1968 sau khi bị động viên tôi thuyên chuyển về dạy ở trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và dạy thêm các trường tư Đăng Khoa, Hưng Đạo, Bồ Đề. Cuối năm1970 tôi được biệt phái Bộ Giáo Dục trở về trường Trung học Châu Văn Tiếp. Năm 1972 tôi được thuyên chuyển về Sàigòn dạy trường Trung học quận 7, dạy thêm ở trường Hàng Hải Trung Tâm Kỹ thuật Phú Thọ, trường La San Tabert , Đạt đức, và Tân Thạnh.
Nghề nào cũng có cái thú riêng của nó, trường hợp của tôi dạy ở nhiều trường, nhiều nơi cũng có cái vui. Thỉnh thoảng đi đâu đó, gặp một người nhìn nhìn tôi một lúc lâu rồi hỏi thầy có nhớ em không ? Rồi nói em là A, thầy dạy em năm nọ, năm kia ở trường nào đó. Thế chẳng vui sao?
Kỷ niệm thì nhiều nhưng bài viết này tôi viết cho Đại hội Kỷ niêm 20 năm thành lập Hội Ái Hữu trường Trung Học Châu Văn Tiếp tỉnh Phước Tuy ( 1992-2012 ) tôi xin kể vài kỷ niệm với học sinh Châu Văn Tiếp.
Năm 1985 tôi đi chợ Lucky ở San Jose, một người nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi :” hình như ông là ông thầy ? “ Tôi cười cười rồi trả lời : “ Thì là ông thầy chứ hình như gì nữa”. Rồi chúng tôi tự khai tên họ, anh ta là Nguyễn văn Thái. Nhà chúng tôi ở gần, cách nhau khoảng vài trăm thước nên cũng thường xuyên gặp nhau thật là vui. Đúng là nơi gặp gỡ Lucky !
Hình như vào năm 2004 thì phải, cô học sinh Nguyễn thị Lý có sang miền Đông Bắc thăm một người bạn tên anh là Thọ cũng là học sinh Châu Văn Tiếp, đến cấp ba đã lên Sàigòn học, nên không biết tôi là thày dạy ở trường Châu Văn Tiếp. Trong câu chuyện anh Thọ có nhắc đến tên tôi, vì trước đó tôi có gặp anh Thọ vài lần trong nhóm bạn của tôi ở Massachusetts. Cô Lý nói để cô gọi xem có phải ông thầy của cô không vì nghe giống tên. Thì đúng là thầy trò ở Châu Văn Tiếp và Huỳnh Tịnh Cuả. Sau đó cô Lý có giới thiệu tôi với anh Phạm hữu Hòa hội trưởng hội Ái Hữu Châu Văn Tiếp ở Nam Cali. Nên đầu tháng chín vừa rồi tôi được mời dự cuộc Hội Ngộ 55 năm thành lập trường Trung học Châu Văn Tiếp ở Nam Cali.
Cũng nhờ đó mà tôi được anh Nguyễn Thành Nhân mời dự Đại hội kỷ niệm 20 năm thành lập hội Ái Hữu Châu Văn Tiếp 1992-2012 tại San Jose vào ngày 4 tháng 2 năm 2012. Ngày họp mặt tôi đã từng ao ước mong đợi, nhưng vì lý do riêng tôi không thể tham dự được. Thật rất tiếc, xin hẹn lần khác và mong quý bạn thông cảm. Chúc Đại Hội thành công tốt đẹp.
Để chấm dứt bài này tôi xin thêm một ấn tượng về người thầy. Có người ví người thầy giáo như người đưa đò, ngày ngày đưa hết lớp người này đến lớp người khác sang sông như vượt qua những khó khăn trở ngại. Thầy vẫn đứng đó, nhìn những học trò thân yêu của mình càng ngày càng tiến xa trên đường đời mà lấy làm vui trong lòng. Bởi hạnh phúc là cho cũng chính là nhận.
Đây một bài thơ : “Người lái đò trên dòng đời “ tôi không rõ tác giả.
Một dòng đời, một dòng sông
Mấy ai là kẻ đứng trông bến bờ.
Muốn qua sông phải có đò.
Đường đời muôn bước phải nhờ người đưa…
Tháng năm dầu dãi nắng mưa,
Con đò trí thức, thầy đưa bao người
Qua sông gửi lại nụ cười,
Tình yêu con gửi lại người cha thương.
Con đò mộc, mái đầu sương
Theo con đi khắp muôn phương mai này.
Khúc sông ấy vẫn ngày ngày\
Thầy đưa những chuyến đò đầy sang sông.
Tài liệu tham khảo : Luận ngữ, Nhà giáo họ Khổng , Mạnh Tử , tác giả Nguyễn Hiến Lê. Giai thoại Làng Nho, tác giả Lãng Nhân. Sử ký Tư Mã Thiên. Một số ghi chép lại theo trí nhớ.
Massachusetts, Ngày 14 tháng 12 năm 2011
Lê Quang Chưởng
