Vai trò của người trí thức – Nguyễn Liệu
Vai trò của người trí thức –
Tượng đài tri thức (tiếng Hy Lạp Επιστημη, Episteme) tại thư viện Celsus tại Ephesos, Thổ Nhĩ Kỳ
Người trí thức, trước hết phải là người có học, thực học. Thời đại này phải có trình độ đại học. Ngày trước ( trước 1945) ở Việt nam số người đi học ít quá cho nên có được văn bằng tú tài, tức bằng trung học, cũng được xem là người có học.
Nếu không có cấp bằng đại học nhưng có những công trình văn hoá có giá trị thì người đó cũng thuộc vào giới trí thức. Ví dụ như Phạm Quỳnh, Đào duy Anh, Trần trọng Kim tuy không phải là người khoa bảng nhưng lại là những nhà đại trí thức vì họ có những công trình văn hóa rất có giá trị.
Để kết thúc tiểu đoạn này, theo tôi, người trí thức là người có học, thực học. Ở thời đại này phải có trình độ đại học. Hoặc là tuy không có văn bằng đại học nhưng có những công trình những tác phẩm văn hóa có giá trị. Hai loại người đó là người trí thức.
Sinh hoạt của trí thức.
Có thể có nhiều loại, nhưng ở đây tôi có thể đưa ra hai loại trí thức, loại tích cực và loại tiêu cực.
Loai tích cực là loại lúc nào cũng tìm tòi nghiên cứu học hỏi. Không bao giờ tự mãn về sự hiểu biết của mình hay những công trình tìm ra. Loại tích cực là loại dấn thân, muốn đem sự hiẻu biết của mình làm nên lợi ích cho cộng đồng cho xã hội cho loài người. Loại trí thức này luôn luôn được tôn trọng vả đó là loại trí thức có giá trị cho cộng đồng cho xã hội cho tổ quốc. Loại trí thức tích cực nhưng chỉ làm lợi cho bản thân cho bè nhóm làm thiệt thòi lợi ích của cộng đồng của xã hội, đó là loại trí thức bị dân chúng oán ghét . Đó là loại trí thức lưu manh.
Loại trí thức tiêu cực là loại tự tách mình ra khỏi xã hội, sống riêng rẽ, ít tiếp xúc với cộng đồng với những trí thức khác. Có thể vì vậy mà kiến thức ngày càng giảm sút và trở thành kẻ lỗi thời. Loại trí thức này không phải là loại trí thức lưu manh, nhưng là loại trí thức vô dụng. Loại trí thức ích kỷ, người đời gọi là loại trùm chăn.
Trí thức của thời phong kiến theo Nho giáo.
Người trí thức lúc bấy giờ còn được gọi là Sĩ.
Trong 4 loại người trong xã hội lúc bấy giờ Sĩ đứng hàng đầu. Bốn đẳng cấp đó là Sĩ Nông Công Thương.
Sĩ là người được giáo dục Nho giáo, sống với đạo đức Nho giáo rồi đem sự hiểu biết của mình phục vụ xã hội. Kẻ sĩ phải phục vụ xã hội, phục vụ tổ quốc, thì mới xứng đáng là kẻ sĩ :
“ Trong lang miếu ra tài lương đống”
Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương” (NCT)
Kẻ sĩ phải biết suy tư biết phản biện biết tranh luận
“ Phù thế giáo một vài câu thanh nghị” ( NCT)
và biết bảo vệ đạo đức, và sống một đời sống đạo đức.
Bởi thế, quan niệm về người trí thức thời quân chủ, là một quan niệm tích cực. Vai trò người trí thức vô cùng quan trọng, giáo dục quần chúng, lãnh đạo quần chúng, bảo vệ sơn hà xã tắc , làm kim chĩ Nam, làm ngọn đuốc cho mọi người noi theo.
Như thế người trí thức ở thời quân chủ được nêu rõ bổn phận và trách nhiệm rất quan trọng trong việc giáo dục dân chúng và bảo vệ tổ quốc.
Trí thức trong xã hội cộng sản.
Có hai loại, một được đào tạo ở xã hội không cộng sản và một loại được đào tạo trong lò rèn luyện của cộng sản.
Loại được đào tạo trong xã hội không cộng sản bị liệt vào loại kẻ thù của giai cấp. Để trở thành người trí thức cộng sản phải được “cải tạo” để loại bỏ những kiến thức, nhất là những cách suy tư của giai cấp không phải là giai cấp công nông. Một tỷ số quá ít có thể thành trí thức cộng sản còn đa phần bị nghi ngờ nên phải đứng ngoài lề xã hội, và bị trừng trị.
Loại trí thức cộng sản không có thói quen suy tư viễn vông ngoài ý thức cố định “ không thể nghi ngờ chân lý của đảng cộng sản.” Nghi ngờ chân lý “ tuyệt đối đúng của đảng cộng sản” là phản động, là tệ hại của giai cấp tiểu tư sản.
Quyết định của đảng là điều không thể hoài nghi, không thể phản biện, đó là đặc điểm quan trọng của trí thức cộng sản.
Trí thức ở Việt nam hiện tại.
Vì những đặc tính của người trí thức là tích lủy kiến thức, thường xuyên suy tư, thường xuyên xét lại nghiệm lại, thường xuyên tìm tòi khám phá mơ ước đi đến chỗ toàn mỹ toàn thiện. ( những đặc tính này hoàn toàn bị cấm kỵ đối với trí thức được đào tào của đảng cộng sản ).
Nhưng hiện nay ở Viêt nam cũng như ở Trung quốc, đảng cộng sản không còn theo chủ nghĩa Mác nữa, thực sự theo chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế theo kinh tế tư bản . Mô hình mới, sau khi cộng sản chính thống bị sụp đổ, về kinh tế theo chủ nghĩa tư bản, về chính trị đảng cộng sản độc quyền cai trị theo đường lối riêng của bộ chánh trị đảng. Tất cả lý thuyết của Mác bị sụp đổ hoàn toàn, đảng cộng sản Việt nam bắt chước Tàu cộng đưa ra đường lối vừa mâu thuẩn vừa vô nghĩa là “ kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”. Câu nói cho đỡ ngượng nhưng tối nghĩa hoàn toàn.
Vì chạy theo kinh tế tư bản nên sản sinh ra lớp tư bản mới, gọi là tư bản đỏ, lớp tư bản nhờ quyền uy mà có, chứ không phải nhờ vào kinh doanh mà có.
Vì trong một xã hội hổ lốn, một xã hội sa đọa cùng cực, một xã hội quyền sống của con người bị quên lãng. Do đó, một số trí thức cảm thấy xấu hổ, cảm thấy bất lực trước một xã hội đổ nát hoàn toàn về đạo lý, về văn hóa. Số trí thức hiếm hoi này phản ứng bằng cách lên tiếng và bị bọn cầm quyền đàn áp.
Trước sự bành trướng thô thiển và ngu xuẩn của bọn cầm đầu Tàu cộng, người Việt nam biểu tình phản đối sự xâm lược củaTàu cộng và bị chánh quyền Việt cộng đàn áp. Do đó chỉ trừ loại trí thức đang a tòng với chánh quyền để làm giàu phi pháp, chỉ trừ loại trí thức đang có điạ vị có thể làm giàu nhờ tham nhũng và kinh doanh ngoài luật pháp, chỉ trừ loại trí thức đầu óc không quen suy nghĩ, phản biện…phần trí thức còn lại đều cùng với dân chúng lên tiếng phản đối sự xâm lăng của Tàu cộng và mong muốn đảng, chánh quyền cải tổ cho kịp những bước tiến bộ của thế giói.
Đến nông nỗi này, xã hội sa đoạ tan nát cùng cực như thế này, chánh quyền từ dưới lên trên tham nhũng, sách nhiễu dân chúng đến mức này, mà còn những ai, dù trí thức hay không trí thức, khôn vặt hèn nhát, im hơi lặng tiếng, thì loại người đó xem như những xác chết chưa chôn mà thôi.