JFK và Việt Nam
JFK và Việt Nam
Vụ ám sát Kennedy ngày này 45 năm trước đã dẫn tới một cuộc chiến tranh của người Mỹ
Bài của Gordon M. Goldstein
Ngày 22-11-2008
Vụ ám sát John F. Kenneky ngày này 45 năm trước đã đem tới một sự kết thúc đột ngột cái thời mà những người hâm mộ ông gọi là Camelot *, một nhiệm kỳ tổng thống của vẻ đẹp say mê, trí thông minh, hóm hỉnh và những triển vọng. Thế nhưng vụ án mạng thậm chí đã có một hậu quả sâu xa hơn: ngày 22-11-1963, là một ngày có ý nghĩa nhất trong lịch sử của cuộc Chiến tranh Việt Nam **.
Không thể biết một cách chính xác liệu Kennedy sẽ chế ngự cuộc khủng hoảng ở Việt Nam ra sao nếu như ông còn sống. Thế nhưng rõ ràng rằng ông đã tỏ ra cương quyết tránh để Việt Nam trở thành một cuộc chiến của người Mỹ và rằng ông đã mong rút quân hoàn toàn trong một nhiệm kỳ thứ hai của mình.
Vào thời điểm Kennedy nhậm chức năm 1961, sự dính líu của quân đội Mỹ ở Đông nam Á bị hạn chế bằng những chuyến vận chuyển vũ khí từ tàu biển và số lượng nhỏ các cố vấn quân sự. Song chế độ Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam khi đó đang phải đối mặt với một cuộc nổi dậy ngày càng mạnh mẽ của cộng sản và, ngay tại Hoa Kỳ, áp lực phải gửi quân trên bộ đã và đang tích tụ dần.
Qua diễn biến tình hình của năm đó, các cố vấn của Kennedy đã trình lên ông cả nửa tá hoặc hơn các đề nghị Mỹ hóa cuộc chiến. Trong một bản phúc trình, Tổng trưởng Quốc phòng Robert McNamara, Ngoại trưởng Dean Rusk và nhóm các cố vấn quân sự cao cấp nhất (Join Chiefs of Staff) biện luận rằng rất khó ngăn chặn “sự sụp đổ của Nam Việt Nam bởi bất cứ giải pháp nào mà thiếu sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ trên một quy mô đáng kể.”
Các cố vấn của Kennedy nói với ông rằng để bảo vệ chính quyền Sài Gòn thì có thể phải cần tới 200.000 lính chiến. McGeorge Bundy, cố vấn an ninh quốc gia, đã tin rằng sự có mặt quân đội Mỹ là vấn đề sống còn. “Lào chưa bao giờ thật sự là của chúng ta sau năm 1954,” Bundy giải thích cho vị tổng thống đa nghi khi viện dẫn tới quốc gia Đông nam Á này, nơi mà Kennedy đã từng chống lại sự can thiệp. “Việt Nam là [của chúng ta] và họ muốn thuộc về [chúng ta].”
Kennedy không dễ chấp thuận. Trong một thời gian dài trước khi trở thành tổng thống, ông đã nói toạc ra tại Quốc hội rằng cần đề phòng kinh nghiệm thảm khốc của người Pháp tại Việt Nam, coi đó như mà một lý do để Hoa Kỳ đừng bao giờ tham gia vào một cuộc chiến trên bộ tại đó. Vào mùa hè năm 1961, ông nói ông đã chấp nhận kết luận của Tướng Douglas MacArthur, người đã khuyên nên phản đối một cuộc chiến trên bộ tại châu Á, khi nhấn mạnh rằng thậm chí một triệu lính bộ binh Mỹ cũng không thể đủ để thắng thế. Ông sẽ cung cấp viện trợ và huấn luyện quân sự cho chính quyền Sài Gòn, song ông sẽ không cho phép gửi đi lực lượng lục quân.
Qua ba năm nhiệm kỳ tổng thống của mình, ông Kennedy đôi lúc đã phải viện tới lối khoa trương hiếu chiến về vấn đề Việt Nam. Ông cũng đã tăng thêm số cố vấn và nhân viên huấn luyện quân sự tại đây lên xấp xỉ 16.000. Thế nhưng cả McNamara và Bundy đều trở nên tin rằng Kennedy sẽ không Mỹ hóa cuộc chiến — thậm chí nếu như cái giá là sự xâm chiếm của chủ nghĩa cộng sản ở Nam Việt Nam.
Kennedy đã nhận thức rõ rằng sự bất lực của Hoa Kỳ trong việc chặn con Đường mòn Hồ Chí Minh — những tuyến đường thâm nhập và tái cung cấp trang thiết bị quân sự từ Bắc Việt Nam — sẽ làm cho nó không thể đánh bại các cuộc nổi dậy. “Những con đường mòn này là lý do dẫn tới sự thất bại,” Kennedy nói với một phụ tá vào mùa xuân năm 1962, “và là một lý lẽ ủng hộ thêm cho sự leo thang chiến tranh.” Kennedy đã quá nghi ngại khi ông không úp mở gì với viên phụ tá Tòa Bạch Ốc Michael Forrestal rằng tỉ lệ cá cược cho việc chiến thắng được Việt Cộng là 100 ăn 1.
Đầu năm 1963, Kennedy nói với Lãnh đạo phe Đa số tại Thượng viện Mike Mansfield, người đã chống lại việc dính líu ngày càng nhiều của Hoa Kỳ tại Việt Nam, rằng ông sẽ bắt đầu cho rút các cố vấn quân sự khỏi Nam Việt Nam vào đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình năm 1965. Kennedy đã để lộ kế hoạch tương tự của Roswell Gilpatric, thứ trưởng Quốc phòng. Thế nhưng tấn thảm kịch ở Dallas vào tháng Mười một năm 1963 đã thay đổi mọi chuyện.
Điều gì đã xảy ra sau cái chết của Kennedy là một câu chuyện đã trở thành quen thuộc. Lyndon B. Johnson kế tục vị trí tổng thống năm 1964, và vào tháng Tám năm đó ông đã lợi dụng một biến cố không rõ ràng trên Vịnh Bắc Bộ để lấy được một sự chuẩn thuận của quốc hội không hạn chế các hành động quân sự chống lại Bắc Việt Nam. Vào ngày 8 tháng Ba năm 1965, Johnson gửi 3.500 lính Hải quân đầu tiên tới Việt Nam. Trong vòng mấy tháng ông đã phê chuẩn việc triển khai 175.000 binh lính nữa.
Nếu như Kennedy còn sống, ông sẽ có được những lợi thế to lớn vào năm 1965. Trong một nhiệm kỳ thứ hai, Kennedy sẽ không thể bị tổn hại trước các cử tri đoàn. Ông sẽ không có cái chương trình nghị sự xây dựng những dự luật Xã hội Vĩ đại (Great Society) rõ lớn lao hào phóng của Johnson để cố gắng thuyết phục Quốc hội. Ông đã thiết lập được một thông lệ kiên quyết loại bỏ những cố vấn của mình khi cần thiết. Và ông sẽ bước vào nhiệm kỳ bốn năm cuối của mình như là một nhà quán quân cho cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba, một thành tích về an ninh quốc gia sẽ làm gia tăng quyền kiểm soát vào tay của ông ta một cách có hiệu quả.
“Vì vậy ông không phải chứng tỏ bản thân mình ở Việt Nam,” Bundy biện luận khi hồi tưởng lại quá khứ. “Ông ấy có thể giảm bớt được những mất mát cho đất nước lúc đó. Ông ấy có thể làm điều này do việc từ chối gây ra một cuộc chiến tranh của người Mỹ.”
Vị tổng thống Kennedy đó trong vai trò là một tổng chỉ huy quân đội đã không có được cơ hội để quyết định một số phận khác cho Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ tại Việt Nam đã làm sâu đập thêm bi kịch từ sự ra đi của ông và cũng nhấn mạnh thêm di sản quý báu của ông, vẫn hết sức liên quan 45 năm sau đó: sự suy xét và phán đoán của vị tổng tư lệnh, chẳng bao lâu nữa sẽ nằm trên đôi vai của vị Tổng thống mới đắc cử Barrack Obama, rút cục sẽ xác định rõ sự khác biệt giữa chiến tranh và hòa bình.
Gordon M. Gildstein là tác giả của cuốn “Những bài học trong Thảm hoạ: McGeorge Bundy và Con đường đi tới Chiến tranh tại Việt Nam,” mới được Times Books xuất bản.
Người dịch: Ba Sàm
Hiệu đính: Blogger Trần Hoàng