NỬA CHÉN NƯỚC CHÁO truyện ngắn Dư Thị Diễm Buồn
NỬA CHÉN NƯỚC CHÁO
DTDB
Mặt trời chiều ráng đỏ, nằm lơ lửng trên chòm cây bên kia sông.
Chiếu những tia nắng chói xuống cỏ cây hoa trái trên ngôi vườn của bà Tư
Súng. Những chùm xoài cát đen rám nắng ửng hồng da gần trên phần
cuống. Trái nào trái nấy no tròn mơn mởn, khiến ai bơi xuồng qua ngang
nhìn thấy cũng không khỏi trầm trồ: “Chùm xoài già rọi thẳng da thấy phát
thèm…” Nắng trải mặt sông nước mơ màng phản chiếu màu ngũ sắc lấp
lánh. Hiu hiu gió thổi đám ô rô bên bờ sát mé nước cọ quẹt nhau phát ra âm
thanh rào rào thật êm tai. Đàn chim trao trảo nhảy nhót trên cây líu lo tìm
trái chín.
Đường đất dọc hai bên sông từ đầu làng đến cuối thôn, thấp thoáng
những nam nữ học trò chạy giỡn, cười nói sau giờ tan trường. Và trên sông
lác lác những xuồng ghe bơi chèo nhàn hạ. Ở cầu đình lố nhố những người
rời tàu, lên bến của chiếc đò máy từ bốn năm giờ sáng chở khách ra chợ
tỉnh. Âm vang tiếng tù và còn rền vang trong gió đưa xa báo cho dân làng
biết tàu đã trở về rồi.
Trong cái làng quê Mỹ Đông hẻo lánh nằm cặp theo nhánh sông Tiền
Giang, xa Quốc Lộ Bốn đi đường lộ tẻ cũng phải 2 cây số. Còn nếu dùng
đường sông rạch, cũng tròm trèm khoảng thời gian đó. Làng thôn nầy tuy
nằm ở địa điểm xa chợ, xa lộ lớn nhưng rất trù phú. Nhờ thời tiết gió mưa
quanh năm thuận hòa, cây trái tốt tươi luôn trúng mùa. Thủy sản dồi dào
có cá trắng (cá sông) lẫn cá đen (cá đồng) tươi ngon. Nếp sống thôn dân an
nhàn lạc nghiệp gia đình đề huề… Con cái đều được cắp sách đến trường.
Cái làng nhỏ trù phú nầy từ xưa còn có nhiều hộ gia đình, cho con
em ra tỉnh thành học đỗ đạt nên người làm quan, làm công chức các ngành
nghề trong Chánh Phủ. Trong làng có đình, có chùa để dân cúng bái tắm
mát tâm linh bất cứ lúc nào, và vào những ngày rằm, mùng một, ngày vía,
ngày lễ…khách thập phương đến cúng bái đômg, xuồng ghe chêm bến
nước.
Bên kia sông, gia đình chú Bảy Tửng có cậu Tâm Hùng học ở trường
Trương Vĩnh Ký, và cô Thu Hồng học trường Gia Long trên Sài Gòn… Đó
là mấy đứa cháu ngoại ông Cả Tám trong vàm Bà Tứ.
Giữa thôn thì vợ chồng thầy giáo Nam cũng có mấy cô con gái đi
học ở Vĩnh Long. Sau đó cô con gái út tên Minh Thu của ông chuyển qua
học trường nữ Trung học ở Cần Thơ. Học xong chữ nghĩa cô đi học nghề
và ra trường trở về làm việc ở bệnh viện tỉnh nhà Mỹ Tho.
Dân trong làng bịnh hoạn, hoặc tai nạn đưa xuống bệnh viện tỉnh
chữa trị, gặp cô Minh Thu, thì luôn được cô giúp đỡ tận tình và mau mắn
trong phận sự của mình.
Trong thôn làng mà “Tiếng hiền đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày
đường”. Ông bà ngoại và ba má cô y tá Minh Thu thật ai có cho tiền cho
bạc họ cũng không vui lòng và hạnh phúc bằng. Họ rất sung sướng và hãnh
diện có đứa con, đứa cháu có nghĩa tình biết giúp đỡ chòm xóm, láng diềng
khi người ta gặp ươn yếu hoạn nạn như vậy…
Thôn dân thật thà chân tình ai giúp họ một lần thì họ sẽ trả lại nhiều
hơn. Cho nên mỗi lần cô Minh Thu có dịp về thăm ông bà, cha mẹ thì cô
luôn nhận được những trái xoài chín cây ngọt lịm, rổ cam hay quít đầu
mùa, bưởi mới có trái chiếng, con cá mới tát đìa bắt được… Khoai mới
đào, trái đu đủ mỏ vịt vườn mới hái chưa ráo mủ…
Cô Minh Thu vui vẻ nhận và đáp lại bằng gói trà, phong bánh… có
dịp mua ở tỉnh thành đem về.
Người dân quê là như thế, họ đối xử với nhau bằng tấm chân tình.
Đó cũng nhờ vào sự giáo dục của gia đình và hoàn cảnh xã hội miền Nam
theo Chánh Thể Cộng Hòa có tự do, bình đẳng, đời sống cởi mở và lòng
người tâm lành hướng thiện. Họ tinh vào luân hồi trả vay ai ở hiền gặp
lành, ác lai ác báo… Họ an vui sống trong nghĩa nặng tình sâu giàu lòng vị
tha bác ái theo thuyết nhà Phật.
Sau tháng 4 năm 1975, là thời gian thương đau nhứt của dân tộc Việt
Nam. Hầu như tất cả dân, quân, cán, chánh của Chánh Phủ Việt Nam Cộng
Hòa đều bị Việt Cộng lùa vào trại tập trung để đày tù cải tạo.
Anh Sĩ Điền chồng của Minh Thu cũng không thoát khỏi. Gốc của
Sĩ Điền là giáo chức, sau tổng động viên làm sĩ quan trừ bị. Mặc dù anh đã
bị thương giải ngủ, trở về dạy học lại từ 3 năm trước (1972 trước khi giặc
vào). Nhưng cũng không tránh khỏi kiếp nạn tù đày.
Tên Việt Cộng quản giáo nơi trại anh đã bảo:
– Thầy giáo cái con khỉ gì? Nói cho cùng thì anh cũng là “nguy
quyền”. Anh từ “ngụy quyền” rồi vào làm “ngụy quân” khi ra khỏi “ngụy
quân” anh trở lại làm “ngụy quyền” có đúng không? Như vậy anh là thành
phần ưu tú và là con cưng của “Mỹ Ngụy” cần phải đi cải tạo để mở mang
trí óc u mê chứa đầy bơ sữa của anh…
Thiệt là hết nói nổi, chứa đầy thức ăn bơ sữa thì u mê cái gì? Chứa
gươm đao, lưỡi lê, mả tấu mới là đáng sợ, cần đi học tập cải tạo thì mới
đúng, mới phải chớ! “Thiệt cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo/ Cái
miệng không vành nó méo tứ tung” mà. Con thỏ, con dê, con nai ăn củ cải,
ăn rau. Con cọp, sư tử, beo, con cáo ăn thịt sống mới ăn thịt đồng loại chớ
chúng có ăn rau, ăn cỏ bao giờ!
Đất nước tan thương! Gia đình ly tán bởi sự trả thù bằng mọi hình
thức của đảng Cộng sản Việt Nam chụp phủ lên đầu, lên cổ người miền
Nam. Người nữ y tá Minh Thu đó cũng theo vận nước nổi trôi như bao
nhiêu đồng nghiệp khác, và người dân miền Nam khác!
Ông bà ta thường nói: “Khi vận xuôi thì đi bán muối/ Muối cũng có
giòi” Chồng cô bị đày đi cải tạo, không biết bao giờ mới trở về. Với chế
độ mới, và ảnh hưởng chồng vừa là “Ngụy quyền” vừa là “Ngụy quân” ở
chế độ cũ, nên bây giờ cô chỉ là “Nhân viên lưu dụng” thôi.
Vào thời Cộng Hòa, hai vợ chồng là Công chức có hai con như gia
đình Minh Thu, thì sống họ hết sức tươm tất. Tuy lương phạn của hai vợ
chồng không nhiều, không giàu có, nhưng họ sắm được nhà. Có người
giúp việc, có truyền hình, tủ lạnh và tiện nghi… Đó cũng nhờ thỉnh thoảng
(tháng nào cũng có đôi ba lần) được cha mẹ họ hàng hai bên cho con gà,
con vịt, nếp, gạo, trái cây vườn…
Từ ngày Việt Cộng vào, chúng đổi tiền, đuổi nhà, lấy đất chia 5 xẻ 7
cho nhau… Dân chúng lầm than khốn khổ ai cũng tự lo lấy thân còn không
đủ, thì cha mẹ, họ hàng đâu còn dư dả mà cho con cho cháu. Vì thế nguồn
cung cấp giúp đỡ của gia đình cha mẹ hai bên của Minh Thu không còn
sum sê như trước nữa. Hàng tháng nhà nước cấp cho nhân viên lưu dụng
mười mấy ký gạo. Đôi lần trong tháng bán rẻ cho ký cá, ký mắm … hoặc
bầu bí tịch thu được của những người lén mua bán bên ngoài vòng kiểm
soát của họ thôi.
Thời gian qua mau! Bây giờ hồi tưởng lại như trong giấc mộng.
Giấc mộng hãi hùng! Đã mấy mươi năm rồi, đôi khi trong chiêm bao chợt
tỉnh, lòng Minh Thu vẫn còn hồi hộp, lo sợ. Và cô cứ tưởng mình còn sống
trong chế độ Cộng sản nơi cố quốc!
Bây giờ Minh Thu đã 2 màu tóc, cứ 3 tuần phải nhuộm đen một lần.
Còn Sĩ Điền thì tóc phơ phơ màu bạc nhưng anh không chịu nhuộm đen.
Khi vui anh thường bảo với các con và vợ rằng:
– Tôi không nhuộm tóc. Vì tôi muốn mình mái tóc trông có vẻ phong
sương như mái tóc của tài tử điện ảnh Đoàn Châu Mậu!
Nghe nói, Minh Thu hấy chồng con mắt có đuôi, trề môi dài cả
thước,giả giọng Bắc kỳ:
– Ối giời, ông bà ông vải ơi! Ông chồng tui bị cải tạo mười mấy
năm giời, lượm được cái mạng sống về với vợ con là phước đức rồi. Nay
già cúp bình thiếc rồi mà còn mơ giống tài tử đóng phim nữa đấy!
Đứa con trai lớn Hiếu Minh cười hì hì nheo mắt nhìn cha, rồi gật gù:
– Ba nói đúng đó! Ba con ngày xưa có thua ai đâu! Bây giờ ghi tên
xin làm tài tử đóng phim vai ông ngoại ông nội còn được chớ mẹ. Trông ba
vẫn còn phong độ lắm lắm mà…
Sĩ Điền nheo mắt lại thông đồng với thằng con. Thằng ma lanh nầy
hiểu ý cha gật đầu rồi lớn họng cười ha hả. Giọng cười hào sảng như tuôn
ánh sáng.
Thằng nhỏ lại vỗ trán, cúi mặt ra điều suy nghĩ, lấy lòng mẹ:
– À, có chớ, con quên nữa là dạo nầy ba hơi lãng tai một chút thôi!
Có đúng không mẹ?
Minh Thu sáng mắt liền, liếc xéo ông chồng:
– Đúng, đúng… Ba con dạo nầy lỗ tai điếc ngắt hà! Ổng điếc là khi
nào mẹ nhờ ổng giúp dùm điều gì như là phụ kê chiếc tủ, làm dùm cái giàn
ngoài hiên sau cho dây bầu leo, đổi dùm vị trí cái giường… Ổng ngồi chần
dần một đóng gần đó mà nín he, làm thinh không trả lời rồi lờ đi không làm
dùm. Nếu mẹ càm ràm nhắc lại thì ổng tỉnh bơ bảo: “Tui có nghe em nói gì
đâu…” Nhưng nồi đất nồi đồng ơi, khi mẹ con mình nói lén, nói xấu ổng
nhỏ xí ở trong buồng mà ổng nghe hết trọi hà…
Thế là hai cha con cười hô hố muốn vỡ cả nóc nhà. Kẻ nào đang
uống nước đứng gần đó cũng bị sặc tùm lum… Thì ra Sĩ Điền cố tình toa
rập với thằng con chọc ghẹo… Cho vợ có cớ đay nghiến hầm hì mình để
cả nhà cười cho vui…
Mùa Giáng Sinh ở xứ người. Từ thành thị đến thôn quê bừng lên sức
sống… Gần như hầu hết già trẻ, trai gái ai ai cũng mua sắm, quà cáp cho
nhau cùng vui hưởng những ngày lễ lớn và Tết của họ.
Các nơi công cộng, công, tư sở, nhà cửa được trang hoàng, giăng
mắc đèn màu quanh nhà, treo trên cây thông. Cùng những hình nộm ông
già Noel cỡi những con nai (deer) đi tặng quà khắp nơi. Người ta còn dựng
hang đá, máng cỏ, bày Thiên Thần, chim muông… để đón mừng ngày Chúa
ra đời.
Ở nhà thờ, Thánh đường họ còn trang hoàng quy mô hơn, có tiệc
tùng lớn, có văn nghê, có những bài thánh ca, những bài nhạc Tết. Chương
trình Giáng Sinh, Tết trên các đài truyền hình toàn nước Mỹ vang vang suốt
đêm ngày trong mùa Giáng Sinh và Tết từ đầu tháng 12 cho đến giữa tháng
1 năm mới…
Lễ Giáng Sinh và cái Tết thật sự phồn vinh của xứ người, khiến
Minh Thu chạnh lòng nhớ đến mùa Giáng Sinh đầu tiên, khi giặc tràn vào
chiếm cứ miền Nam.
Năm đó gần ngày lễ, ngày Tết, Minh Thu hy vọng được sự khoan
hồng của nhà nước sẽ dễ dãi trong việc thăm nuôi chồng trong vòng lao lý
tội tù của giặc. Cô quên đi là chế độ Cộng Sản theo chủ nghĩa vô thần, nên
Giáng Sinh Tết nhứt có nhằm nhò và ảnh hưởng gì đến họ đâu!
Ba mẹ con đùm túm đi thăm nuôi chồng, cha trong tù! Lúc về bị trận
mưa mẹ con ướt loi ngoi.
Phải chăng thời tiết cũng thay đổi theo cơ trời vận nước sao? Vào
mùa Giáng Sinh mà tiết trời thiệt là lạ lùng. Ẩm ướt, nước ngập đường
ngập sá phải lội bì bõm qua những bờ mẫu để ra Quốc lộ trở về nhà cho
kịp trong ngày. Gió hắt hiu lành lạnh giống như vào mùa nước nổi khoảng
tháng 8, tháng 9 Âm lịch vậy. Rồi tiếp theo mấy hôm liền không thấy mặt
trời. Không gian xám đen, ủ dột… Mưa lất phất, rỉ rả cả đêm lẫn ngày.
Cây trái hoa màu ủng nước nên mùa màng thất bát… Dân đói khổ lại càng
khốn đốn thêm!
Minh Thu ôm con trong vòng tay mà nước mắt chan hòa! Có lẽ mắc
đám mưa hôm đi thăm cha, mà thằng Hiếu Minh con trai cô 5 tuổi bị nóng
sốt hai hôm nay. Thằng bé mắt nhắm nghiền, môi ửng đó khô nứt rướm
máu, trán hâm hấp nóng, hơi thở mệt nhọc, mặt mày tái nhợt… Khi trở
mình cháu gọi “Ba ơi!” Ôi, có nỗi đau khổ đoạn trường nào hơn người mẹ
đang ôm rì đứa con đang quằn quại trên tay, hơi thở thụp thò như đang đi
lần vào cõi chết!
Thuốc men từ khi Việt Cộng tràn vào đến giờ thiếu nguồn cung cấp
viện trợ của Âu, Mỹ nên đã cạn dần. Kho thuốc ở các bệnh viện gần như
trống không. Các nhà thuốc tây tư nhân đều bị nhà nước tịch thu…
Ở khu trị bệnh trẻ em lúc nào cũng có đứa chết vì dịch bịnh “Sốt xuất
huyết” đang hoành hành lên cao độ ở trong vùng! Minh Thu lục lạo tìm
kiếm thuốc cần thiết cho bịnh của con được thứ nào hay thứ đó.
Chồng trong tù, nhìn con đang thoi thóp từng hơi thở cô tan nát
cõi lòng… Chỉ còn có một nơi để cô bám víu và hy vọng là cầu xin khấn
nguyện với Ơn Trên mà thôi! Bởi thấy gia cảnh chị Huyên con gái ông Hào
Các ở xóm trong làng. Năm đó chưa đầy 6 tháng 3 đứa con chị chết trong
dịch “Sốt xuất huyết”. Chị Huyên phát “sảng”! Thẫn thờ như người mất trí
làm cô càng thêm hoảng hốt lo sợ hơn!
Nhớ chuyện xưa, Minh Thu buông tiếng thở dài thườn thượt… Âu
cũng là cái số của mỗi con người! Hiếu Minh năm nay đã ngoài 30 tuổi rồi.
Tuổi nầy ở quê nhà khi xưa thì không còn là tuổi thanh niên. Nhưng ở đây
ăn uống đầy đủ, hít thở không khí trong lành, học hành đến nơi đến chốn,
có nghề nghiệp vững chắc, không âu lo, không sợ sệt. Được sống trong
một nước có hoàn cảnh tốt. Con người thật sự được hưởng tự do. Nên
Hiếu Minh tướng tá cao lớn, khỏe mạnh không thua dân bản xứ. Cậu ta
còn thừa hưởng mặt mày khôi vĩ, tánh tình hào phóng, yêu đời, an phận cho
hiện tại như nếp sống của cha mẹ, nên trên mặt cậu ta tràn đầy sức sống
và hạnh phúc.
Chiều nay, Hiếu Minh đi làm về sớm, để đưa ba mẹ qua làng bên
khoảng hai giờ lái xe. Qua dự lễ sinh nhựt của bác Hiến bạn của ba cậu
hồi cả hai còn đi học, chưa lập gia đình.
Ông bà Hiến có 3 đứa con đã thành nhân ở xa. Lễ Tết họ mới về
thăm cha mẹ. Hai đứa con của Sĩ Điền đứa gái lớn và thằng trai út cũng có
gia đình ở xa. Năm nay Tết chúng mới về thăm nhà. Vì thế hai cặp bạn già
cuối năm hẹn hò mừng sinh nhật và lễ Gáng Sinh để có cớ gặp nhau mà
hàn huyên tâm sự
Đêm nay sau khi ăn uống thì đã mười giờ hơn. Vợ chồng Sĩ Điền và
đứa con trai từ giã ông bà Hiến để về nhà.
Đây đâu phải là lần đầu, mà cứ vài tháng thì họ hẹn gặp nhau vào
chiều cuối tuần nào đó. Khi nhà ông bà Hiến khi ở nhà vợ chồng Sĩ Điền.
Họ đãi nhau những món ăn đậm tình quê hương: Khi là bánh xèo, gỏi
cuốn. Khi gỏi tôm thịt trộn với dưa leo, củ cải đỏ, củ cải trắng, trái su để
rau thơm xắt nhuyễn, đâu phộng rang đâm bể hai bể ba trên dĩa gỏi. Bánh
khọt. Có khi ăn cơm với khô lăng phòng nấu canh chua bằng con mẻ với
bắp chuối, để nhiếu ngò gai xắt nhuyễn. Có thêm cá kho tộ rắc tiêu cay và
măng xào lòng gà vịt. Có khi thì cháo vịt luộc chấm nước mắm gừng. Khi
thì cháo cá…
Hiếu Minh nhớ kỳ rồi mẹ cậu đãi hai bác món cháo lòng… Cậu ta
vẫn nhớ và sau đó cứ thỉnh thoảng nhắc mẹ nấu cho ăn.
Gần như nhiều người biết. Kể từ hồi người Á Đông vào Mỹ ào ạt
nhứt là người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản sau năm 1975… Thì những món
như tim, gan, phèo, phổi, huyết, lá mía, lá lách, cật, ruột già, ruột non, dồi
trường… của con heo, lò heo (ở Mỹ) không còn cho không, hay bỏ thùng
rác như trước nữa, mà họ bán.
Hôm đó, bà Minh Thu mua lòng heo mỗi thứ một ít về nấu nồi cháo
lòng đãi vợ chồng ông Hiến. Làm ông bà ngạc nhiên lắm. Bà Hiến bảo:
– Nè bà Điền, bọn tui thật sự ngạc nhiên về món cháo lòng bà đãi
hôm nay. Ngạc nhiên không phải là mấy món long trong bụng con heo. Mà
cái đặc biệt nhứt là món dồi heo bà làm… Ông Hiến tôi ưa dồi heo lắm…
Chúng tôi đã ăn trong các nhà hàng và nhiều nơi nhưng không hợp khẩu vị
như món dồi heo nầy.
Ông Hiến cũng khen ngon. Làm Minh Thu khoái chí tiết lộ:
– Nhớ khi còn học nghề ở Sài Gòn, lúc đó tui và ông Điền đã quen
nhau. Học trò ở quê, cha mẹ nghèo vì giặc giã thiếu thốn trăm bề. Nên đâu
có tiền đãi nhau ăn thịt bò bít-tết, tôm hùm, vi cá, bào ngư, hay ổ yến ở các
nhà hàng Tây, nhà hàng Tàu sang trọng… Nên chỉ cuối tháng, dành dụm
mỗi đứa ăn được tô cháo lòng ở chợ Vườn Chuối, và đi xem phim Tàu rẻ
tiền chiếu thường trực, hoặc phim cũ đã chiếu đáo đi đáo lại nhiều lần ở
các rạp trong thành phố thôi thì cũng hạnh phúc lắm rồi.
Sĩ Điền nhìn vợ bùi ngùi thương cảm. Nhưng cũng gượng cười
nhướng nhướng mắt với Ông Hiến. Ông Hiến cười đồng tình với bạn:
– Bọn nầy cũng có khác gì với hai người đâu. Ông bà còn thỉnh
thoảng đèo nhau đi ăn cháo lòng, xem xi-nê. Còn tụi nầy chỉ uống nước
mía thôi, mà còn trốn chui, trốn nhủi… Rủi gặp hai cậu em lém lỉnh ma
lanh của bả mà bắt gặp hăm he về méc ông bà già thì phải lo lót cho hai
thằng ranh con đó sạch hầu bao, chớ đừng nói còn tiền để hai đứa uống
nước mía.
Bà Hiến nguýt chồng, càm ràm:
– Ông cứ ngắt ngang hoài hà. Hãy để cho chị Minh Thu kể đi…
Minh Thu tiếp:
– Bà bán cháo lòng ở chợ Vườn Chuối đó làm dồi heo ngon “số
zách” nên rất đắt khách. Hôm nào đi trễ là không còn cháo mà ăn. Qua đây
rồi, đôi khi tôi vẫn còn nhớ hương vị dồi heo của bà bán cháo lòng đó mà
phát thèm… Tôi cố gắng làm theo trí nhớ của mình, và cứ làm đi và làm lại
nhiều lần rút kinh nghiệm… Hai gia đình mình thân mấy chục năm thì ông
bà cũng biết tôi nấu ăn dở òm chớ có bằng ai đâu! Nhưng chồng con ăn
quen rồi nên cảm thấy vừa miệng… Cho dù có dở thật sự đi nữa cha con
ổng cũng không dám chê. Bởi nếu chê thì tui không thèm nấu cho ăn nữa…
Bà Hiển mắt sáng ngời, cười nói với bạn:
– À, thì ra như thế! Dồi bà làm ngoài nêm nấu khéo léo ra, trong đó
bà còn gói ghém một chút hương vị của tình yêu nữa. Cho nên ngon hơn
nhiều người khác làm là đúng rồi! Thiệt là ăn ngon quá chừng chừng đi
thôi. Nhưng bà làm cách nào, làm ơn truyền nghề cho tui với nghe…
Minh Thu cười vui:
– Thì có gì đâu, tôi cứ mua thịt heo 3 phần nạc, 1 phần mỡ đem về
xắt ra, rồi tự bằm lấy (không nên xây trong máy, nó sẽ nhuyễn dồi sẽ mất
ngon). Tôi đem thịt trộn với ớt, sả, củ hành (bằm nhuyễn) và tiêu hột. Ướp
tất cả với muối (đừng dùng nước mắm), đường, bột ngọt và một chút (1
muỗng canh) rượu trắng. Để chừng 30 phút. Dùng để dồn vào ruột trừu
(mua ở tiệm Mỹ) như dồn lạp xưởng và cột lại từ khúc như lạp xưởng.
Xong rồi trụng rửa vào nước xôi. Lấy cây nhọn đầu xâm cho hơi trong dồi
xì ra. Đem nướng lửa than hồng, hay chiên. Chờ nguội xắt ra để vào cháo
lòng ăn ngon ngất! Nhớ phải dùng cây nhọn xâm để khi chiên hay nướng
dồi không bị nổ văng tùm lum. Làm dồi không khó, nhưng cực nhứt là lúc
dồn thịt vào ruột, và nêm nếm thế nào hợp khẩu vị nhiều người ăn là thành
công chị ơi.
Gặp nhau thường, ấy vậy mà mỗi lần đưa tiễn khách ra cửa. Họ từ
giã 5, 10 phút mà vẫn còn quyến luyến nói hoài không dứt. Kẻ về chưa
chịu bước lên xe vội, còn gia chủ thì cũng chưa muốn vào nhà.
Hiếu Minh còn lạ gì hai bác với cha mẹ mình. Cậu ta đề xe nổ máy,
mở hơi nóng để cho ấm, và kiên nhẫn ngồi chờ…
Xe rời sân nhà ông bà Hiến, nhẹ nhàng lướt qua một số con đường
cắt ngang, cắt dọc để đến khúc quẹo có bảng chỉ dẫn, thì bắt vào xa lộ đi
thẳng về nhà.
Đầu mùa đông, mặc dù không lạnh lắm nhưng trời dầy đặt sương
mù, đèn đường vàng võ. Trông tiêu điều xác xơ vì một số lá thu úa vàng đã
rơi rớt từ giữa mùa. Nhưng ở đây cây cối không trơ cành trụi lá vào mùa
đông lạnh lùng có tuyết phủ như vùng Chicago, Michigan, Visconsin…Như
ở vùng trời Trung Tây hoặc miền Bắc của nước Mỹ.
Bầu trời càng lúc càng tối đen như nhuộm mực tàu. Những cánh
chim trời bay nhanh về tổ như để tránh né cơn gió đêm hắt lạnh của đầu
mùa đông. Mặc dù nơi đây là miền Nam nước Mỹ, nổi tiếng khí hậu ôn
hòa…
Từ CD tân nhạc phát ra giọng hát ngọt ngào những bài nhạc Giáng
sinh, nhạc mừng xuân. Những nam nữ ca sĩ nầy có lẽ đã thành danh trong
nước lúc Hiếu Minh chưa chào đời mà ba má cậu đang trầm tư lắng nghe
với nét mặt u buồn đầy hoài niệm về một thời xa xưa, thời thanh xuân nơi
cố quốc: “…Mùa Noel đó chúng ta bên nhau, giáo đường/ Mùa Noel đó anh
dắt em vào tình yêu/… Mùa Noel sau chúng ta nói câu giã từ…/…Nhưng
nay mùa Noel đến rồi/ Từng đêm em, anh nguyện cầu/ Cầu cho hai đứa
thương nhau/…Hôm nay giáo đường vang tiếng kinh cầu…/… Nửa đêm anh
lê bước cô đơn trở về/ Gặp nhau chỉ để thương đau/ Yêu nhau chi rồi xa
nhau…”
Minh Thu ngồi dựa lưng vào băng xe. Mắt nhắm nghiền như đang
ngủ. Nhưng nàng nhẹ giọng khen:
– Ca sĩ Anh Khoa hát hay quá! Chưa ca sĩ nào có giọng trầm ấm đặc
biệt lôi kéo, ru hồn thính giả như thế nầy.
Sĩ Điền cũng góp lời:
– Em hãy lắng nghe Giao Linh ca bài “Mùa Sao Sáng” sau đây còn
nhớ xưa, hiu hắt và tan nát cõi lòng hơn.
“Một mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời/ Người hẹn cùng tôi
ngày về khi đất nước yên vui…/…Gặc tràn vào quê hương tôi/ Giặc diệt đàn
chiên Kitô…/…Ôi những vì sao lẻ loi…/ Một mùa đông giá hang Bê-Lem
Chúa sinh ra đời/… Một trời đầy sao chiếu sang Ngôi cao…/… Đất nước
nầy đầy sáng đức tinh Chúa trên trời cao…”
Rồi những bản nhạc xuân nối tiếp: “Xuân đã về, xuân vẫn mơ
màng… Trên xóm làng cất tiếng hát ca vang…” Rồi bài nhạc xuân
khác: “Hoa lá nở thắm đẹp làn môi hồng/ Xuân đến rồi đây nào ai biết
không/… Tay trong tay những cánh thiệp đầu xuân…” Và tiếp theo là
những bài nhạc xuân sau năm 1975 sáng tác ở hải ngoại, rộn ràng náo
nức thiết tha làm xao xuyến lòng kẻ tha hương trong những mùa xuân ở
xứ người, như bài “Xuân Nơi Đây” của nhạc sĩ Võ Tá Hân mà gia đình
Sĩ Điền năm nào đó đã nghe trên đài BBC (Luân Đôn) phát thanh đêm ba
mươi Tết: “Xuân nơi đây không mai vàng đua nở/ Không hoa đào tắm
ánh nắng xuân/ Không cụ đồ ngồi viết liễn/ Không trẻ thơ đốt pháo vỗ tay
mừng…/…Xuân nơi đây có rượu ngon bánh ngọt/ Có thiệp xuân chúc phúc
chúc an lành/ Có nỗi buồn của người xa xứ/ Đón xuân về hồn thổn thức
bâng khuâng…”
Xe chạy bon bon sắp bắt vào xa lộ. Máy sưởi (heat) trong xe phà hơi
ấm và ngoài trời giá lạnh căm căm cho những bộ hành co ro trong chiếc áo
ấm chạy băng qua đường ở trạm cây xăng, hay chợ 7 Eleven.
Bỗng người, xe xuôi ngược trên đường nghe tiếng bánh xe cọ sát
mặt đường thắng gấp rít lên ghê rợn. Nhồi tiếp theo sau tiếng “Rầm!
Rầm…” Xe chạy ngược xuôi dồn cục ái ngại nhìn qua cửa xe. Một vài bộ
hành dừng lại xa xa đứng nhìn. Và chưa đầy 5 phút, thì tiếng hụ còi của xe
cảnh sát, xe chữa lửa, xe cứu thương hối hả chạy đến hiện trường vừa xảy
ra tai nạn…
Minh Thu mở mắt định thần nhìn quanh… bà không biết đây là đâu,
và tại sao mình nằm ở đây?
– Mẹ tỉnh rồi, con mừng quá! Ba không sao, xe mình bị xe người ta
tông vào, mẹ có nhớ không?
Minh Thu hốt hoảng như sực nhớ! Nàng mở to mắt nhìn con từ đầu
xuống chân, lập bập hỏi:
– Con có sao không? Ba thế nào, ổng đâu rồi?
– Con không sao cả mẹ à. Mẹ hãy bình tĩnh, ba không gì và được
đưa đi chụp hình chưn coi xương sóc có sao không?
Minh Thu đã nhớ và lấy lại bình tỉnh phần nào. Nhưng mắt bà luôn
nhìn ra cửa mong chờ chồng trở lại thấy mặt mới yên lòng. Nhưng bà
cảm thấy mình mẩy ê ẩm nặng chình chịch. Tứ chi rã rời, muốn giở chưn
lên nhưng không sao nhút nhích được. Tự nhiên dòng nước mắt chảy dài
xuống má. Thằng con lấy khăn giấy chậm nước mắt cho mẹ:
– Con xin lỗi mẹ. Ba người xe mình giờ không sao cả. Mọi việc xui
qua rồi ở năm cùng tháng hạn mẹ à… xin mẹ đừng buồn…
Minh Thu hỏi qua dòng lệ:
– Còn xe kia thế nào?
– Con không biết, nhưng họ đụng xe mình rồi xe họ bị lật ngược
văng vào lề bên kia… Con nghĩ rủi nhiều may ít cho những người trong xe
đó.
Minh Thu thở dài, bà lơ đãng đưa mắt nhìn quanh. Bệnh viện thưa
vắng người từ bịnh nhân cho đến nhân viên. Dù bịnh nhân nằm viện nhưng
họ cũng nhờ bác sĩ giúp đỡ thu xếp cho họ được về nhà những ngày lễ lớn
để xum họp với gia đình, trừ những bịnh nhân cấp cứu.
Nhân viên làm việc cuối tuần, lễ cũng ít hơn ngày thường. Về hành
chánh nhân viên các phòng hình như nghỉ hết nên không nhiều người tới lui
rộn ràng như những ngày thường. Chỉ có rải rác nhân viên chuyên môn, Y
tá, Bác sĩ… trực thôi.
Giường ông Sĩ Điền được đẩy trở lại kế giường vợ. Sau khi đi chụp
hình chân tay mà bác sĩ nghi ngờ xương của ông có thể bị xây xát… Minh
Thu rướm nước mắt hỏi chồng:
– Ông sao rồi, có gì không ông?
Để trấn an vợ:
– Có gì đâu, bà an tâm đi bộ xương già của tôi coi vậy mà chắc lắm.
Đi sau giường ông Điền là bác sĩ rất trẻ. Mang bảng tên Hưng. Ông
ta đang đứng xem hồ sơ của Sĩ Điền. Rồi ông lên tiếng bảo:
– Thưa bác, hai bác chịu khó tạm ở lại đây đêm nay. Sáng mai nếu
các thử nghiệm và hình ra không có gì thì hai bác về được. Và giờ bác gái,
chân tay không thấy gì, nhưng cũng phải đến phòng quang tuyến để chụp
hình cho chắc ăn nghe bác…
Minh Thu nhẹ chớp mắt gật đầu. Nãy giờ bà nhìn vị bác sĩ trẻ không
chớp mắt nhứt là nghe giọng phát âm tiếng Việt của ông rất rành rọt không
sai chạy một mảy may nào. Ông nói tiếng Việt giõi hơn đám con bà nhiều.
Các con bà đôi lúc chúng phát âm đỡ hơn các người Tàu Chợ lớn nói tiếng
Việt một chút thôi, hoặc chúng nói như nói ngọng!
Bỗng ông hỏi bà:
– Thưa bác sanh năm nào? Ở đâu? Và bác làm nghề gì…
Minh Thu uể oải trả lời:
– Tôi sanh năm… Ở Cần Thơ… Và làm Y tá ở bệnh viện Mỹ Tho…
Bác sĩ Hưng, bỗng châu đôi mày, cắn bút, nhìn bà Minh Thu. Ông
hỏi:
– Thưa bác, năm 1978 bác còn làm ở bịnh viện đó không?
– Có, ông nhà tôi đi cải tạo về, đến tháng 5 năm 1979 chúng tôi mới
vượt biên…
Ngày cận Giáng Sinh, theo lẽ bà Minh Thu theo chồng con về nhà.
Nhưng bà phải ở lại vì xương ống quyển bên phải của bà bị nứt và bắp thịt
ở đó bị sưng lên. Và bà ngã xỉu và hôn mê trong lúc ngồi ăn sáng…
Bác sĩ Hưng trưa về nhà tắm rửa, ăn qua loa và ngủ một chút thì lật
đật vào bịnh viện ngay. Thay vì ông được nghỉ ngày đó sau đêm trực vừa
qua.
Bà Minh Thu ốm ròm mà không biết sao bị cao máu, chất béo nhiều
trong mỡ. Và bị tiểu đường hết sức trầm trọng.
Hai gia đình người con ở xa về ăn Tết với cha mẹ. Năm nay họ thay
cha thay anh chăm sóc mẹ nằm bệnh viện suốt từ hôm gặp tai nạn cho đến
ngày Tết. Ngoài con và chồng bà Minh Thu săn sóc cho bà, người ta còn
thấy có cả bác sĩ Hưng luôn túc trực bên bà.
Bệnh viện vào những ngày lễ lớn như vậy thật sự ít bác sĩ. Nhưng
riêng bác sĩ Hưng luôn lẩn quẩn bên giường bịnh của bà Minh Thu… Ông
lo đủ mọi việc một cách tận tình chu đáo về trị liệu cho bà, mà khả năng
ông có thể làm được… Ông trực tiếp gọi bác sĩ chuyên môn hỏi thăm, theo
dõi về bịnh của bà… Ông nhờ những đồng nghiệp giúp đỡ bà trong phần
hành của họ.
Bà Minh Thu được chuyển qua nhiều phòng trị bịnh đặc biệt khác
nhau. Gia đình chuẩn bị tinh thần cho chuyện không may xảy đến cho bà
trong cơn bịnh ngặt nghèo kéo dài gần nửa tháng rồi.
Nhân viên trong bịnh viện thấy sự đôn đáo săn sóc, và quan tâm lo
lắng của bác sĩ Hưng về bịnh của bà Minh Thu, ai cũng tưởng bà là thân
nhân của ông. Còn gia đình của bà Minh Thu cảm ơn bác sĩ Hưng tận đáy
lòng về sự giúp đỡ tận tình mẹ và vợ của họ trong thời gian bà trị bịnh ở
đây. Riêng chồng bà Minh Thu nghĩ vợ ông có phước phần nên được bác sĩ
không quen biết mà giúp đỡ quá tận tình như vậy.
Hoa lá sau trước nhà đã bắt đầu nẩy mầm đâm đọt non. Gió ngoài
trời lành lạnh, nhưng cái lạnh dễ chịu của mùa xuân chớm về. Bầy én liệng
trên vòm trời trong, mây trắng, mây ửng hồng lang thang thướt tha bay theo
gió. Đàn bướm cỏ nhởn nhơ trên những nụ hoa vàng ngoài kia vùng đất bỏ
trống từ mấy năm nay, chủ đất để bán mà chưa thấy ai mua. Bỗng chuông
điện thoại reo vang, bà Thu chồm qua bàn lấy điện thoại:
– Hello, hello… xin hỏi nào vị bên kia đầu dây?
– Thưa bác có khỏe không, cháu Hưng đây bác.
Bà Minh Thu vui vẻ:
– Bác sĩ Hưng đó à? Cảm ơn cháu mấy hôm rày bác khỏe. Cháu
đang ở đâu mà gọi cho bác vậy?
– Cháu ghé qua thăm bác một chút có tiện không thưa bác? Vì trên
đường cháu qua bệnh viện làng bên trở về đi ngang nhà bác…
Bà Minh Thu vui vẻ:
– Hãy ghé qua chơi ăn cơm chiều luôn. Bác trai đi thăm thằng Út
mấy bữa mới vừa về. Ổng có mua chả mực, hào sống, chả tôm. Bác sẽ
nướng hào, chiên chả, hấp bánh hỏi để bác cháu cuốn bánh tráng rau sống
uống bia nghe. Thằng Hiếu Minh đi làm cũng sắp về tới rồi đó…
Nói xong, bà gác máy điện thoại. Lật đật lại tủ tìm gói bánh hỏi khô
ngâm nước đế hấp…
Bà làm sao mà quên được, hôm sửa soạn xuất viện để về với gia
đình, thì bác sĩ Hưng đến, tặng bà bình hoa đỗ quyên màu hồng phấn rất
đẹp. Con trai Hiếu Minh của họ cũng có mặt. Ông Sĩ Điền đở bình hoa trên
tay vợ, chân tình bảo:
– Suốt thời gian nhà tôi trị bịnh ở đây. Bác sĩ là người chăm sóc tận
tình nhứt để bịnh bà ổn định mà trở về với gia đình. Ơn đức nầy chúng tôi
không bao giờ quên…
Bác sĩ Hưng mỉm cười, rồi lễ phép trả lời:
– Dạ thưa hai bác, suốt cuộc đời nầy cháu cũng không bao giờ quên!
Vợ chồng ông Sĩ Điền và con trai lấy làm lạ và ngạc nhiên quá đỗi!
Cả ba người mở to mắt chờ nghe, vì bác sĩ Hưng nói đến đó rồi bỏ lửng!
Bác sĩ Hưng cười nhẹ tiếp:
– Thưa bác Minh Thu, bác còn nhớ nửa đêm năm đó bác ẫm con trai
bác từ bên phòng cấp cứu bệnh viện Mỹ Tho chạy băng qua lộ để đến trại
bịnh nhi đồng không? Cái năm mà dịch bịnh sốt xuất huyết lan tràn. Bác
còn nhớ không bác?
Hai cha con Hiếu Minh chưng hửng nhìn nhau! Còn bà Minh Thu thì
nét mặt đăm chịêu như cố nhớ lại thuở xa xưa. Rồi bà vỗ trán:
– À, tôi nhớ ra rồi. Năm đó ông xã tôi còn trong tù. Thằng con trai tôi
đây (bà chỉ Hiếu Minh) bị bịnh. Tôi ẵm nó vào nhà thương khám xong họ
nghi nó bị sốt xuất huyết bảo chờ xe chở qua phòng cấp cứu trẻ em…Nóng
lòng nên tôi xách hồ sơ ôm con chạy bộ. Vì từ phòng cấp cứu người lớn
qua phòng nhi đồng không xa lắm. Chỉ băng qua con đường Định Bộ Lĩnh
cắt bệnh viện và nhà bảo sanh. Lúc đó, khoa nhi nằm trong khu sản khoa,
chạy bộ một mạch là tới ngay. Lo sợ cuống cuồng cho con, tôi quên cả dép
giầy… Đến nơi làm thủ tục cho thằng nhỏ xong. Nghe chân rát định thần
nhìn xuống mới biết chân đạp phải đá sỏi, miểng chai… bị xây xát máu
chảy tùm lum. Giờ nhớ lại còn phát sợ! Vậy mà đã hơn 30 năm rồi! Thiệt
thời gian qua mau quá!
Bà Minh Thu hơi lấy làm lạ, nhìn bác sĩ Hưng rồi chẫm rãi:
– Ờ mà sao bác sĩ biết vậy?
Vợ chồng bà Minh Thu và đứa con trai đang chuẩn bị sẵn sàng đồ
đạc để ra xe về nhà. Nhưng giờ không ai còn hối thúc nhau mau lẹ như hồi
mới đến nữa. Mà họ cùng hướng mắt nhìn về phía bác sĩ Hưng chờ đợi trả
lời.
Bác sĩ Hưng có dáng người cao ráo. Ốm nhưng hồng hào khỏe
mạnh, nước da không trắng lắm cũng không đen. Tóc hớt ngắn, vầng trán
cao, mày rậm, mi cong, mắt to nhưng lúc nào cũng như vương vướng u
buồn. Cho dù ông ta đang vui vẻ cũng vậy. Miệng vừa tầm, khi cười rất có
duyên để lộ hàm răng trắng đều, được nằm trên khuông mặt chữ điền.
Ông chớp chớp làn mi, mắt buồn buồn nhìn ra cửa sổ như hình dung
lại những gì của một thời đã qua. Ngoài trời nắng lụa lung linh trải trên cây
cỏ, gió hiu hiu. Bầu trời một màu xanh trong như bích ngọc, điểm lác đác
vài cụm mây trắng mỏng.
Bà Minh Thu sốt ruột hỏi nhỏ như nhắc khéo:
– Sao bác sĩ biết việc xa xưa của tui? Chớp mắt đã mấy mươi năm
rồi. Nếu không có một vật gì đó, một cảnh gợi ý nào đó… thì tôi quên
bẵng đi mất. Nay bất chợt bác sĩ hỏi… khiến tôi bàng hoàng như vừa tỉnh
cơn mơ. và những chuyện ngày xưa lại ào ạt trở về trong hồi tưởng của
tôi. Thiệt tội nghiệp quê hương của chúng ta chinh chiến triền miên. Cũng
tại bọn tay sai của Cộng sản cả… Cho nên dân tình khổ sở lầm than… Tình
thế hơn sức người nên khó thay đổi được! Cuộc nội chiến Quốc Cộng trên
quê hương ta thật quá tàn khốc! Biết bao nhiêu sinh mạng con người phải
hy sinh…
Ông Sĩ Điền nghiêm mặt:
– Khó thay đổi được, người dân phải xả thân vì nước không đổ lỗi
cho tình thế. Nam nhi trượng phu thời Cộng Hòa thẳng ngay, nên họ chết
vì đất nước, máu chảy đỏ trên sa trường! Đó là những người anh hùng của
Miền Nam, của đất nước chúng ta…
Bà Minh Thu thở dài, mắt u buồn:
– Sau những ngày tháng giặc tràn vào gia đình tôi khổ lắm! Tôi làm
ở bệnh viện một tháng lãnh chỉ có mười mấy ký gạo (nhà nước bảo phải
thắt lưng buộc bụng). Lúc đó dân miền Nam xác xơ… má tôi đột ngột qua
đời sau lần đổi tiền lần thứ nhứt! Chồng tù tội, con trai trong cơn bịnh
hiểm nghèo… Nhà thiếu trước hụt sau đói khát thường xuyên… Đồ đạc tư
trang bán lần bán hồi để sống và thăm nuôi ổng…
– Mẹ, chuyện xưa quá rồi thôi bỏ đi. Nhờ Ơn Trên không phải giờ
gia đình mình yên ổn lắm rồi sao.
Hiếu Minh lên tiếng ngầm khuyên đi về. Vì cậu ta sợ mẹ mủi lòng
khóc, và nghĩ ngợi nhiều đến chuyện buồn xưa mệt nữa thì phiền lắm.
Bỗng bác sĩ Hưng nắm chặt lấy hai bàn tay của bà Thu Minh, xúc cảm:
– Bác thật sự không nhớ cháu sao? Cháu là thằng bé lúc đó khoảng 7
tuổi, ôm manh mền rách, chạy lúp xúp theo bác qua trại nhi đồng đó. Bác
nhớ chưa?
Bà Minh Thu khựng lại! Mắt nhìn trời xa qua cửa sổ… Rồi bà quay
lại nhìn chầm chập bác sĩ Hưng. Nhưng rồi bà lắc đầu:
– Tôi thật sự không nhớ, bộ có vậy sao? Lúc đó khi biết Hiếu Minh
nghi bị sốt xuất huyết, tôi đã điếng hồn rồi thì còn tâm trí đâu mà biết đến
những chuyện chung quanh…
– Cháu là đứa con mới ra đời bị bỏ rơi! Nhờ vào từ tâm của các bà
phước lượm về nuôi. Nên cháu sống ở cô nhi viện từ bé. Khi giặc vào, cô
nhi viện không còn nguồn tài trợ nào để giúp đỡ. Nên bọn cô nhi lớn như
chúng cháu tản lạc khắp nơi để kiếm sống… Có đứa đi xin, có đứa đi bươi
rác, ở lang thang nơi gầm cầu, bến xe, nhà lồng chợ… Chờ người ta ăn rồi
thì ăn đồ còn lại… Một ngày kia cháu bị bịnh vất vưởng không thuốc men
chi cả. Cháu đi lần vào nhà thương thí và té trước cửa bịnh viện. Nhờ có
mấy người y tá thương tình cho thuốc men và vào nằm bịnh viện. Họ bảo
cháu ngồi chờ xe đưa qua bênh trại bịnh trẻ em. Thấy bác ôm con chạy đi,
bà y tá bảo cháu chạy theo để qua bển. Cháu có biết gì đâu, không có một
mảnh giấy lộn trong người, nên bà y công chỉ vào phòng trống nằm ngủ…
Cháu đói quá, đói muốn ngất xỉu! Nếu lúc đó chết có lẽ cháu chết vì đói
chớ không phải chết vì bịnh!
Vợ chồng Minh Thu và thằng con quên về, chăm chú lắng nghe. Bác
sĩ Hưng, giọng đều đều kể tiếp:
– Sáng hôm sau khi tỉnh lại, cháu thấy giường bên có em nhỏ đang
nằm ngủ với dáng điệu mệt nhọc như đang bị sốt. Chừng 5 phút sau, cánh
cửa phòng bật mở, người y tá ăn mặc chỉnh tề bước vào với xách tay nào
nước lọc, nào bình thủy… Bà liếc nhìn cháu rồi bước thẳng đến giường
em bé kia. Cháu nằm xoay người vào tường mà nghe hết những lời ngọt
ngào, khuyến dụ, trìu mến của bà mẹ khuyên bảo con uống thuốc, uống
nước… Lúc đó cháu mới biết: Thì ra bà y tá đang làm việc ở bệnh viện
và em bé nầy là con trai bà. Cháu len lén nhìn thấy bà rót trong bình thủy
ra. Mùi thơm của cháo nóng bay tỏa căn phòng. Bà y tá nói với con: “Con
còn yếu lắm. Bác sĩ bảo chỉ uống được nước cháo thôi. Vì nếu ăn vật cứng
vào sẽ làm hại đến ruột và nguy hiểm lắm. Nên cháo nầy mẹ nấu thật nhừ,
rồi nghiền cho nhuyễn. Dùng vải thưa lược cho hết lợn cợn của cháo. Mẹ
chỉ lấy nước cho con uống đỡ. Con chịu khó uống nghe con! Khi hết bịnh về
nhà, mẹ nấu cơm kho cá, kho thịt cho con ăn…” Thằng bé ậm ự rồi uống
chén nước cháo! Sau đó bà nhúng nước khăn lau mặt, lau tay cho con. Cháu
thật sự thèm muốn cử chỉ dịu dàng trìu mến đó của bà, của một người mẹ!
Bỗng bà y tá xoay qua cháu, rồi bà hỏi: “Cháu nằm trị bịnh hả, có biết bịnh
gì không? Nằm ở đây chắc là cũng bị bịnh như con của bác rồi. Nhà cháu
có ở gần đây không…” Lúc đó cháu mủi lòng rướm nước mắt, nghĩ đến
phận mình và ước mong có mẹ săn sóc như bà y tá săn sóc con mình. Cháu
không nói gì chỉ gật và lắc đầu trả lời bà thôi. Cơn đói lại hoành hành bào
bọt cái bao tử của cháu không chịu được! Cháu phải kéo vội mảnh mền
tả tơi dẻo nhẹo nhét đè vào bụng, ép và co thúc chân lại cho qua cơn đói.
Không biết bà y tá có thấy không? Nhưng bà bưng qua chén nước cháo mà
bà trút hết từ bình thủy ra. Bà nhẹ tay đỡ đầu cháu lên, kề vào miệng cho
cháu uống hết nửa chén nước cháo…
Nói đến đó, bác sĩ Hưng sụp xuống bên bà Minh Thu đang ngồi,
dáng điệu ông như đứa trẻ đang quỳ bên mẹ. Ông lạc giọng:
– Sáng hôm sau cháu bỏ bệnh viện tìm về lại bến đò nơi tụ tập
những đứa trẻ không nhà như cháu. Và như có sự an bài của Ơn Trên, vào
ngày nọ giữa đêm tối, cháu thấy nhiều người xuống chiếc ghe, cháu cũng
chạy theo… Phật Trời hộ độ đưa đẫy cháu yên bình đến bến bờ tự do.
“Nửa chén nước cháo của bác cho, mãi ở trong lòng cháu và nó đã nung
đúc tinh thần cháu trong lúc cháu gặp khó khăn hoặc yếu đuối nhứt… Cũng
nhờ nửa chén nước cháo của bác mà cháu mới có ngày hôm nay… Cháu
luôn cầu nguyện ước mong được gặp lại bác dù chỉ một lần…”
Bà Minh Thu bắc nồi nước lên bếp chờ sôi để hấp bánh hỏi. Mắt
nhìn qua cửa sổ. Xa xa dạng rặng đồi chạy dài phía sau nhà. Bầy chim lông
đen đang bay lượn trên không gian. Gió thu lành lạnh hắt hiu đong đưa
cành lệ liễu trước cổng nhà. Bầu trời xám đục như hạ thấp, nắng hoàng
hôn ửng vầng mây tím, xanh, lam hồng, vàng nhạt… nhàn hạ lững thững
bay bay.
Nghe tiếng xe, ông Sĩ Điền dừng tay cắt tỉa bỏ những bông hoa héo
những nhánh gảy trên mấy bụi hồng trước sân. Quay nhìn phía cổng vào,
ông cười tươi ra mở cửa cho hai chiếc xe của hai thằng con trai Hưng và
Minh quẹo vào nhà… Bởi sau lần tai nạn vào nằm bệnh viện, rồi các bịnh
khác tới tấp đến với bà Minh Thu vợ ông. Ai cũng tưởng bà gần đất xa
trời! Nhưng có lẽ nợ trần còn vương vấn bà khỏe mạnh trở về nhà.
Để mùa Giáng Sinh năm nay, gia đình của ông bà Sĩ Điền, Minh
Thu có thêm thằng con trai nữa! Nơi xứ lạ quê người giàu vật chất, thiếu
thốn chút nghĩa tình! Nhưng “Nửa Chén Nước Cháo” năm nào, vào mùa
Giáng Sinh năm trước đã dẫn dắt đưa đẩy, để bác sĩ Hưng giờ đây có được
cha mẹ, các em… Anh hưởng hạnh phúc ấm êm của gia đình, như những
người may mắn sanh ra trên thế gian nhiều hệ lụy nầy.
Tệ xá Diễm Diễm Khánh An
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Tuyển tập “Hương Cau Quê Mẹ”
Đ.T: (530) 822 5622
Email: dtdbuon@hotmail.com