MỘNG TUYỀN VẤN ÐÁP SAO LỤC 327
MỘNG TUYỀN VẤN ÐÁP SAO LỤC 327
THINH QUANG
VẤN: Ông Cao Văn Hà Tiên, Virginia: Nước nào sử dụng tiền tệ sớm nhất trên thế giới? Xin bà cụ cho biết về hình thức của các loại tiền đầu tiên này? Cám ơn bà cụ.
ÐÁP: Nước biết sử dụng tiền sớm nhất trên thế giới là Trung Quốc. Loại tiền đầu tiên, là hải bối xác, tức là vỏ sò biển, cũng còn gọi là “hóa bối”. Theo lịch sử Trung Hoa vào cuối thời kỳ xã hội nguyên thủy, người ta đã đào lên tìm thấy một số được chôn theo người chết ở mộ tháp. Ðó là ngôi mộ táng từ thời nhà Thương, có nhiều loại tiền song đa phần là vỏ sò gọi là bối tệ. Sau này. Các nhà khảo cổ còn khai quật được tại các ngôi mộ cổ của các nhà quí tộc người Diên tại Vân Nam thời Chiến Quốc, được vô số sò biển chứa đựng trong các họp làm bằng đồng xanh rất tinh xảo.
Cuối đời Thương người ta bắt đầu đúc tiền bằng kim loại. Tiền này gọi là đồng bối. Loại tiền đồng này tìm thấy tại ngôi mộ thôn Ðại Tư Không ở An Dương,Hà Nam. Lịch sử thế giới xác nhận tiền đồng Trung Hoa được đúc sớm nhất trên hoàn vũ. Tóm lại, Trung Hoa lúc bấy gờ còn nhiều loại tiền khác nữa dùng theo từng vùng. Ví như thời Xuân Thu, Chiến Quốc các nước chư hầu cũng đúc tiền, nên có lắm loại khác nhau như hình “xẻng” gọi là “bố tệ” ,hình “dao” gọi “dao tệ”, hình vuông là “xung kim”, hình bầu dục,hình tròn v.v…
Ðến đời Tần, đất nước thống nhất,nhà vua ra lệnh bải bỏ các loại tiền “dao,bố,sò rồi ban lệnh thống nhất chề độ tiền tệ. Chế độ thống nhất qui định “Vàng” là “thượng tệ” chỉ cho giá trị cao nhất. Thứ đến tiền đồng gọi là “hạ tệ”.
Ðến đời Hán tiền tệ có pháp định rõ ràng Vàng là thượng còn Ðồng là hạ, chia ra nhiều loại cân lượng mà tính giá trị của nó để trao đổi theo giá trị của các mặt hàng v.v..
VẤN: Cụ Trương Như Tấn, San Jose: Trong thơ Quốc Phong tôi muốn nhắc lại một số như Quan thư ngũ chương của Chu Nam hay Thiên Hành lộ tam chương của của Thiệu Nam. Bà cụ nhắc hộ cho một số. Cảm ơn bà cụ nhiều.
ÐÁP: Quan thư ngũ chương:
Q uan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Tản Ðà dịch:
Quan quan cái con thư cưu,
Con sống con mái cùng nhau bãi ngoài.
Dịu dàng thục nữ như ai,
Sánh cùng quân tử tốt đôi vợ chồng.
Một bài khác:
Sâm si hạnh thái,
Tả hữu lưu chi.
Yểu điệu thục nữ,
Ngụ my cầu chi.
Tạ Quang Phát dịch:
So le rau hạnh lơ thơ
Hái theo dòng nước ven bờ đôi bên
U nhan thục nữ chính chuyên
Nhớ khi thức ngủ triền miên không rời.
Còn rất nhiều bài khác nữa.
THINH QUANG