Tham nhũng tại Việt Nam_2
Ra Hà Nội phải gánh đô la ?!
Những nẻo đường tham nhũng tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu.
Nguyễn Quang
Lời dẫn nhập
Các nhà đầu tư, ngay cả những viên chức chính quyền đều ngầm mách cho nhau thứ luật bất thành văn ‘Ra Hà Nội muốn được việc phải gánh đô la theo mới thành…’. Và chuyện quan hệ ở cửa sau mới là cổng chính ‘Ông ăn chả, bà ăn nem’, ‘Ông ăn một bà phải gấp đôi ba lần!’ Chuyện hối lộ tại Việt Nam người ngoại quốc không hiểu nổi, nhưng cũng rất dễ nhận ra vì mọi sự vẫn trong cái biểu tượng Bát Quái của Á Đông ‘âm trung hữu dương…’Muốn hiểu được phải thầm nhuần quẻ âm dương, phải thoát ra khỏi nhị nguyên luận truyền thống tư tưởng Phương Tây, nhất là đi về phía tha hóa của ‘đồng qui nhi thù đồ’ [1] – nhất nguyên luận!
Cuộc thăm dò dư luận có tên “Phong vũ biểu chống tham nhũng toàn cầu 2010”. [2] Khảo sát do công ty tư vấn Indochina Research, đại diện cho hãng nghiên cứu Gallup International tại Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI). Nhân viên nghiên cứu phỏng vấn trực tiếp 1.000 người dân ở năm thành phố lớn, gồm Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ. 62 % trong số người được hỏi cho rằng tham nhũng gia tăng tại Việt Nam trong ba năm qua. Trong các lĩnh vực “cảm nhận’’ có tham nhũng, cảnh sát được cho là ngành đứng đầu tham nhũng ở Việt Nam – với 82% số người được hỏi đồng ý. Theo sau là giáo dục (67%), cán bộ nhà nước, nhân viên hành chính công (61%), và tư pháp (52%). Khảo sát cho thấy người dân không tin vào lãnh đạo chính phủ, và báo chí, trong công cuộc phòng chống tham nhũng.
______________
[1] Đức Khổng Tử nói: “Thiên hạ tư hà lự? Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự. Thiên hạ hà tư hà lự?” Nghĩa là: Thiên hạ nghĩ gì lo gì? Thiên hạ cùng về một chỗ mà nhiều đường khác nhau, cùng một mối mà trăm điều lo nghĩ. thiên hạ nghĩ gì lo gì?
Ý của Đức Khổng Tử nói rằng: Thiên lý tuy biến hóa thành trăm đường ngàn lối, nhưng rốt cuộc cũng qui về một mối mà thôi. Nếu người ta biết thế thì còn lo nghĩ gì nữa.
[2] Một bản tin chỉ tồn tại trên VietNamNet vài giờ trước khi bị gỡ xuống nhưng nó đã làm Tổng Biên Tập VietNamNet và thư ký xuất bản bị khiển trách, đồng thời phóng viên trực tiếp liên quan tới bản tin không được cấp thẻ nhà báo trong thời gian tới.
Phóng viên với bút hiệu Linh Thư đã đăng bản tin ngắn dựa theo kết quả khảo sát của Tổ chức minh bạch Quốc tế, theo đó, cảnh sát Việt Nam đứng đầu tham nhũng so với các ngành khác ở Việt Nam.
Sau khi bài báo bị kéo xuống, VNN đã đăng lời cải chính và cáo lỗi bạn đọc. Sau đây xin trích dẫn bài viết của tác giả Linh Thư và cáo lỗi của VNN:
Cảnh sát đứng đầu bảng về tham nhũng
Linh Thư
– Cảnh sát được cho là ngành đứng đầu bảng về tham nhũng ở Việt Nam, hơn cả giáo dục hay hành chính công. Song người dân tin tưởng khá mạnh mẽ vào các thể chế chính trị (đặc biệt là Quốc hội và Đảng) trong chống tham nhũng – theo kết quả khảo sát của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) năm 2010.
Tổ chức Hướng tới Minh bạch, cơ quan đầu mối của TI tại Việt Nam sáng nay công bố kết quả khảo sát “Phong vũ biểu Toàn cầu 2010″, một khảo sát ý kiến người dân trên phạm vi toàn thế giới về tham nhũng của TI thực hiện tại 86 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Trong khảo sát lần đầu tiên tiến hành đầy đủ ở Việt Nam, TI tiến hành nghiên cứu tại 5 thành phố lớn: Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ. Cảm nhận chung của đại đa số người dân đô thị ở Việt Nam, theo TI, đó là tham nhũng đang gia tăng trong 3 năm qua, trong đó tham nhũng gia tăng được cảm nhận nhiều hơn ở phía Bắc, đặc biệt là Hà Nội.
Một trong những kết quả chính, theo khảo sát, là cảnh sát được cho là ngành đứng đầu bảng về tham nhũng ở Việt Nam (82%), hơn cả giáo dục hay hành chính công. Không chỉ ở Việt Nam, tại nhiều nước ở Trung Đông, Bắc Phi, châu Mỹ La tinh, ở các quốc gia mới độc lập, hay một số nước châu Á – Thái Bình Dương, cảnh sát cũng bị “ghi danh” là cơ quan nhận hối lộ nhiều nhất.
Lĩnh vực có tham nhũng ở Việt Nam xếp sau cảnh sát là giáo dục (67%), cán bộ nhà nước, nhân viên hành chính công (61%). Tiếp đến là tư pháp, giới kinh doanh… Với giáo dục, 86% người ở Hà Nội cảm nhận có tham nhũng.
Cảm nhận về tham nhũng song người dân tin tưởng khá mạnh mẽ vào các thể chế chính trị (đặc biệt là Quốc hội và Đảng) trong chống tham nhũng, tin tưởng ở xã hội như giới truyền thông, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo…
Cũng theo khảo sát của TI, hối lộ nhỏ tăng đáng kể tại hơn 20 quốc gia. Số người báo cáo đưa hối lộ nhiều nhất năm 2010 ở Afghanistan, Campuchia, Cameroon, Ấn Độ, Iraq, Liberia, Nigeria, Palestine, Senegal, Sierra Leone và Uganda với tỉ lệ 50% người trả lời có đưa hối lộ trong vòng 1 năm qua.
Trong khi đó, tại Việt Nam, tình trạng hối lộ diễn ra ở các đô thị với 84% cho rằng nhằm để “đẩy nhanh công việc” và có một thực trạng đó là người Việt Nam phải đưa hối lộ nhiều hơn so với người dân ở các nước láng giềng như Campuchia, Thái Lan, Indonesia… nhưng lại nhận định tích cực hơn về nỗ lực của Chính phủ trong phòng, chống tham nhũng so với nhận định của người dân các nước láng giềng.
TI đưa ra một số khuyến nghị, trong đó nhấn mạnh Việt Nam tiếp tục tăng cường hơn nữa sự tham gia của những thể chế chính trị, cơ quan được tin cậy như Quốc hội, Đảng, xã hội (truyền thông, tổ chức phi chính phủ, người dân) cũng như các nỗ lực phòng, chống tham nhũng của Chính phủ nhằm khắc phục các thách thức, tồn tại. Bên cạnh đó, cần tập trung nỗ lực phòng, chống tham nhũng vào các ngành, khu vực có nguy cơ và tồn tại tham nhũng cao như ngành cảnh sát, giáo dục…
————————————————-
VietNamNet cải chính và cáo lỗi
Chiều 14/12/2010, báo VietNamNet đăng thông tin về kết quả khảo sát Phong vũ biểu tham nhũng toàn cầu 2010 của Tổ chức Hướng tới Minh bạch, cơ quan đầu mối quốc gia của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI). Thông tin này có tựa đề TI: Cảnh sát đứng đầu bảng về tham nhũng, trong đó có nêu kết quả khảo sát trên 1000 người dân tại 5 đô thị lớn của Việt Nam về cảm nhận tham nhũng tại Việt Nam.
Trong bản tin này có đưa một số chi tiết liên quan đến một số cơ quan Việt Nam chưa được kiểm chứng.
VietNamNet đã rút bản tin này xuống và tổ chức xử lý, kiểm điểm nghiêm khắc trách nhiệm của Tổng biên tập và các cá nhân liên quan đến việc xử lý, đăng phát thông tin này.
Cụ thể: Tổng biên tập nhận hình thức kỉ luật khiển trách. Thư ký xuất bản nhận hình thức khiển trách. Phóng viên viết tin nhận hình thức kỉ luật cảnh cáo và sẽ không được cấp thẻ nhà báo trong đợt tới.
Một lần nữa, VietNamNet xin chân thành cáo lỗi các cơ quan liên quan!
VietNamNet
***
PHẦN HAI: Phương cách giải quyết
I. Mang tính toàn cầu
Nội dung:
I.1 Tham nhũng
I.2 Tổ chức Minh bạch Quốc tế
I.3 Lời giới thiệu: Chuyển đổ văn hóa tham nhũng
I.4 Nguyên tắc trách nhiệm: Chuyển đổi văn hóa tham nhũng
I.4.a Những giá trị bền vững
I.4.b Những chân trời mới
I.5 Giải quyết tham nhũng bằng các công ước và cam kết quốc tế
I.6 Chống tham nhũng ở cấp cao
I.6.a Đưa ra ánh sáng những quan chức cấp cao tham nhũng
I.6.b Thu hồi tài sản
I.7 Hiểu rõ nạn tham nhũng: Những luật lệ về tính minh bạch và tự do thông tin
I.7.a Tự do thông tin
I.7.b Tính minh bạch của chính phủ
I.7.c Các vấn đề khác
I.8 Các cách tiếp cận hiệu quả trong việc bài trừ nạn tham nhũng
I.9 Thực trạng tham nhũng trên thế giới
• a. Nguồn gốc tham nhũng
• b. Công cụ nhận dạng
• c. Thực trạng tham nhũng trên thế giới
• d. Những chính trị gia tham nhũng
• e. Biện pháp chống tham nhũng
• f. Bảng số liệu điều tra tham nhũng các nước trên thế giới 2001-2005
• i. Trừng phạt
• j. Xem thêm
• k. Chú thích
I.10 Chống tham nhũng ở Singapore
I.11 Cơ quan Đạo đức Chính phủ Mỹ
• I.11.1 Hoạt động của OGE
o I.11.1.a Vai trò của OGE
o I.11.1.b Vị trí của OGE
o I.11.1.c Hoạt động của OGE
• I.11.2 Tham khảo
• I.11.3 Liên kết ngoài
I.1 Tham nhũng
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI), tham nhũng hay tham ô là hành vi “của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”.
Tham nhũng là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế – xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế.
Tham nhũng làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội, làm giảm lòng tin của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất ổn định chính trị, kinh tế – xã hội.
I.2 Tổ chức Minh bạch Quốc tế là một trong những tổ chức phi chính phủ quốc tế đi đầu trong công cuộc chống tham nhũng, như tuyên truyền, hướng dẫn, cung cấp tài chính cho các quốc gia đẩy mạnh chống tham nhũng đồng thời trừng phạt kinh tế với các quốc gia thờ ơ với tham nhũng, các tổ chức, quốc gia trên đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào chống tham nhũng trên toàn thế giới, hàng năm tổ chức thường liệt kê thành danh sách và xếp hạng các quốc gia về tham nhũng, là niềm tin cho các nhà đầu tư doanh nghiệp quốc tế, Nó có trụ sở chính tại thủ đô Berlin, Đức.
I.3 CHUYỂN ĐỔI VĂN HÓA THAM NHŨNG
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12/2006
Lời giới thiệu
“Tham nhũng không còn là vấn đề của địa phương mà là một hiện tượng có tính xuyên quốc gia ảnh hưởng tới tất cả các xã hội và các nền kinh tế, do vậy hợp tác quốc tế nhằm ngăn chặn và kiểm soát tham nhũng là điều vô cùng cần thiết”
– Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng
“Chúng ta đã nhận ra rằng tham nhũng là cản trở lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế-xã hội”
– Ngân hàng Thế giới
“Tham nhũng khiến hàng triệu người không thể thoát khỏi cảnh đói nghèo”
– Tổ chức Minh bạch Quốc tế
“Đã từ lâu, văn hóa tham nhũng làm suy giảm sự phát triển và quản lý hiệu quả đồng thời làm gia tăng tội phạm và sự ngờ vực trên khắp thế giới”
– Tổng thống George W. Bush
Theo Ngân hàng Thế giới, nhìn chung tham nhũng được coi là lạm dụng quyền lực công để tư lợi. Các hình thức tham nhũng bao gồm từ tham nhũng quy mô lớn liên quan tới cấp cao nhất trong chính phủ quốc gia, cho tới tham nhũng quy mô nhỏ, chẳng hạn như hối lộ những khoản tiền rất nhỏ hoặc cho hưởng những ưu đãi nhỏ của những người ở cấp thấp hơn. Bất luận quy mô tham nhũng như thế nào đi nữa thì những hành vi như vậy làm suy giảm sự phát triển của xã hội dân sự và làm gia tăng đói nghèo, đặc biệt khi mà các nguồn lực nhà nước – lẽ ra đã được đầu tư để nhân dân có cuộc sống tốt hơn – lại bị các quan chức nhà nước sử dụng sai hoặc lạm dụng.
Trong những năm gần đây, với một loạt các thỏa thuận quốc tế, một khuôn khổ chống tham nhũng toàn cầu đã bắt đầu được định hình. Mỗi quốc gia giờ đây có thể chống tham nhũng hiệu quả hơn thông qua thực thi mạnh mẽ các biện pháp chống tham nhũng và dựa vào hợp tác quốc tế để hỗ trợ những biện pháp này. Tạp chí Điện tử kỳ này của Bộ Ngoại Hoa Kỳ nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của khu vực công, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ trong việc xóa bỏ nạn tham nhũng trên toàn thế giới.
Ban biên tập
***
I.4 CHUYỂN ĐỔI VĂN HÓA THAM NHŨNG
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12/2006
Nguyên tắc trách nhiệm: Chuyển đổi văn hóa tham nhũng
Condoleezza Rice
Nền dân chủ chỉ phồn thịnh lâu dài khi pháp quyền được thừa nhận và chính phủ phải minh bạch và có trách nhiệm với nhân dân. Tham nhũng làm xói mòn những trụ cột này của xã hội tự do và tiến bộ của loài người. Cộng đồng quốc tế sát cánh bên nhau với niềm tin rằng nam giới, phụ nữ và trẻ em đáng được quản lý bởi sự liêm chính ở mức độ cao nhất để họ có thể phát huy hết tiềm năng của mình. Các nhà lãnh đạo phải có trách nhiệm với công dân. Niềm tin chiến thắng trong cuộc chiến chống tham nhũng chính là cam kết tiếp tục của chúng ta đối với những giá trị của sự quản lý trung thực, cởi mở, đối xử công bằng và pháp quyền.
I.4.a Những giá trị bền vững
Về hợp tác với các đối tác tận tâm khác, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng cường sự minh bạch, truy tố tham nhũng cấp cao và lôi các quan chức tham nhũng ra ánh sáng.
Bằng các công cụ như Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, chúng ta quyết tâm tăng cường cam kết và hợp tác quốc tế để thu hồi và trả lại những tài sản đã bị lấy cắp mà có thể được sử dụng để thúc đẩy phát triển và nâng cao tinh thần trách nhiệm.
Hoa Kỳ tự hào được hỗ trợ những người thúc đẩy cuộc chiến chống tham nhũng. Chúng ta kề vai sát cánh với các đối tác, những người thúc đẩy quản lý hiệu quả, sự liêm chính cả trong khu vực tư nhân lẫn công cộng và quyền tự do báo chí. Những nỗ lực này sẽ khôi phục lòng tin của công chúng đối với chính phủ và là một khuôn khổ để đầu tư kinh tế vào đất nước hoạt động hiệu quả.
Để đạt được những tiêu chuẩn cao này, chúng ta phải xây dựng một liên minh các đối tác giữa khu vự nhà nước và khu vực tư nhân ở cả hai cấp trung ương và địa phương. Chúng ta và các đối tác phải lên án, đưa ra ánh sáng và trừng phạt nạn tham nhũng. Với những nguyên tắc chung, chúng ta có thể xây dựng thiện chí và năng lực của nhân dân và các chính phủ để chống tham nhũng và chuyển đổi văn hóa này.
I.4.b Những chân trời mới
Sự vận hành của nền dân chủ là một tiến trình liên tục nhằm xây dựng nên các thể chế dân chủ. Chúng ta có thể xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn bằng cách đoàn kết hỗ trợ quản lý hiệu quả và chống tham nhũng. Tiếp tục hợp tác với các đối tác quốc tế có thể giúp chúng ta xây dựng những xã hội mà ở đó mọi cá nhân đều có được tự do. Đồng thời, với một cam kết mới về tính trách nhiệm, chúng ta có thể xây dựng nền tảng nguyên tắc vững chắc cho các thế hệ tương lai.
Ngoại trưởng Condoleezza Rice
*****
I.5 CHUYỂN ĐỔI VĂN HÓA THAM NHŨNG
Giải quyết tham nhũng bằng các công ước và cam kết quốc tế
John Brandolino và David Luna
Nội dung:
I.5.a Củng cố các nguyên tắc chống tham nhũng
I.5.b Thực thi luật pháp
I.5.c Ngăn chặn trong khu vực nhà nước
I.5.d Ngăn chặn trong khu vực tư nhân
I.5.e Các cơ chế triển khai
I.5.f Các thỏa thuận và sáng kiến quốc tế hiện có
I.5.i Tiến lên phía trước
Nếu như trước đây chống tham nhũng được cho là trách nhiệm của chính phủ mỗi nước, thì nay nó đã trở thành công việc của cả cộng đồng quốc tế, cùng nhau hợp tác để bổ sung và hỗ trợ cho nỗ lực của các chính phủ. Tác giả khái quát một loạt các thỏa thuận đa phương và quốc tế hình thành nên mạng lưới chống tham nhũng toàn cầu. John Brandolino là Giám đốc Chương trình chống Tội phạm còn David Luna là Giám đốc phụ trách các Sáng kiến về Quản lý và Chống Tham nhũng thuộc Cục Phòng chống Ma túy Quốc tế và Thực thi Luật pháp, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Tham nhũng từng được coi là một hiện tượng quá phổ biến đến mức hầu như không thể giải quyết được. Tuy nhiên, trong 15 năm qua, cộng đồng quốc tế đã chứng kiến sự thay đổi tích cực và rõ rệt trong cuộc chiến toàn cầu chống tham nhũng. Trước khi có sự thay đổi lớn lao này, các quốc gia miễn cưỡng ngay cả khi bàn về tham nhũng và coi đó chỉ là một vấn đề nội bộ. Ngày nay, có rất nhiều hội nghị và cơ chế đa phương được xây dựng chuyên để giải quyết vấn đề tham nhũng. 15 năm trước, các nước cho phép khấu trừ thuế đối với những khoản hối lộ các quan chức nước ngoài. Giờ đây, ngày càng có nhiều quốc gia hợp tác với nhau truy tố việc hối lộ. Thực vậy, 15 năm trước, một số quốc gia đã sai lầm khi lập luận rằng tham nhũng thực sự có thể chấp nhận được trong một số bối cảnh văn hóa nhất định hoặc là để thúc đẩy kinh doanh ở các nước đang phát triển. Ngày nay, chẳng ai còn dám lập luận như vậy nữa.
Từ năm 1996, các thỏa thuận quốc tế về chống tham nhũng đã giúp tăng cường các cam kết chính trị chống tham nhũng và xác định những chuẩn mực và thông lệ quốc tế căn bản giải quyết vấn nạn này. Chống tham nhũng từng được cho là trách nhiệm của các chính phủ. Ngày nay, một phần do có các thỏa thuận chống tham nhũng – được củng cố bởi ngày càng nhiều các tuyên bố thể hiện ý chí chính trị – nên trên thế giới đã có sự thừa nhận rộng rãi rằng cộng đồng quốc tế có thể bổ sung và hỗ trợ nỗ lực chống tham nhũng của một chính phủ, và rằng cộng đồng quốc tế có mối quan tâm thực sự muốn thấy tham nhũng được giải quyết cả ở cấp độ địa phương lẫn toàn cầu.
Sự nhất trí về các cơ chế chống tham nhũng giúp cộng đồng quốc tế mở rộng cánh cửa tăng cường hợp tác song phương và đa phương trên những mặt trận quan trọng một thời là những mặt trận địa phương. Đổi lại, việc hợp tác này sẽ khuyến khích chia sẻ những kinh nghiệm tốt nhất, xây dựng lòng tin và mối quan hệ giữa các nước đang hợp tác, và cuối cùng là nâng cao tính hiệu quả của các nỗ lực song phương và đa phương và các chương trình viện trợ phát triển.
I.5.a Củng cố các nguyên tắc chống tham nhũng
Các thỏa thuận chống tham nhũng đa phương ghi nhận các nguyên tắc chống tham nhũng được quốc tế công nhận và chính thức hóa cam kết thực hiện những nguyên tắc này của chính phủ. Những nguyên tắc này – mới đây nhất được ghi nhận trong Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) – không chỉ đơn thuần thúc đẩy các chính phủ hình sự hóa hành vi tham nhũng mà còn thừa nhận rằng chống tham nhũng đòi hỏi hành động phối hợp trên một số mặt trận.
Những thỏa thuận này giải quyết một hoặc nhiều mặt trận hành động chống tham nhũng, bao gồm:
I.5.b Thực thi luật pháp: Quyền tiến hành điều tra, truy tố và xét xử công minh là chìa khóa giúp phát hiện và truy tố hiệu quả tham nhũng của công. Với tầm quan trọng như vậy, các quyền này buộc các chính phủ phải xây dựng các bộ luật hình sự, các chế tài và các cơ quan thực thi luật pháp hiệu quả nhằm phát hiện và ngăn chặn việc hối lộ và các hành vi tham nhũng chủ yếu khác.
I.5.c Ngăn chặn trong khu vực nhà nước: Nhiều thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế yêu cầu các chính phủ thực hiện một loạt biện pháp, chẳng hạn như duy trì các chuẩn mực đạo đức đối với công chức, xây dựng các hệ thống quản lý tài chính và thu nhập minh bạch, tránh xung đột lợi ích, yêu cầu công khai tài chính về tài sản cá nhân, bảo vệ những người tiết lộ/cung cấp thông tin, xây dựng các thể chế và các thủ tục giải trình hiệu quả trong và ngoài chính phủ, đồng thời cung cấp tiếp cận thông tin chính phủ.
I.5.d Ngăn chặn trong khu vực tư nhân: Nhiều thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế cũng nhấn mạnh và yêu cầu các chính phủ có những biện pháp tác động có tính xây dựng đến hành vi ứng xử của khu vực tư nhân, chẳng hạn như duy trì một khuôn khổ quản lý hiệu quả để ngăn chặn việc che giấu những khoản chi trái phép hoặc hối lộ trong các tài khoản của công ty, ngăn chặn hành vi gian lận tập thể và nghiêm cấm khấu trừ thuế đối với các khoản hối lộ.
I.5.e Các cơ chế triển khai: Đối với một số công cụ chống tham nhũng đa phương, các cơ chế triển khai có thể thúc đẩy hợp tác quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật để giải quyết những yếu kém. Hiện có bốn cơ chế đánh giá lẫn nhau về chống tham nhũng đang hoạt động dựa trên đánh giá đồng hạng nhằm kiểm soát và thúc đẩy việc thực hiện: Cơ chế triển khai của Tổ chức các nước châu Mỹ, Nhóm các quốc gia chống Tham nhũng trong Hội đồng châu Âu, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Nhóm Công tác Phát triển về vấn đề Hối lộ và Sáng kiến chống Tham nhũng của tổ chức Hiệp ước vì sự Ổn định[1].
I.5.f Các thỏa thuận và sáng kiến quốc tế hiện có
Cho đến nay, thỏa thuận toàn diện nhất và có thể áp dụng trên toàn cầu được xây dựng dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Hơn 130 quốc gia đã tham gia quá trình đàm phán kéo dài hai năm về Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và công ước đã có hiệu lực vào tháng 12/2005. Công ước này bao gồm tất cả các lĩnh vực hành động đề cập ở trên và lần đầu tiên xây dựng một khuôn khổ hợp tác trong các vụ thu hồi tài sản. Công ước này cũng đi đúng hướng khi là công ước quốc tế chống tham nhũng đầu tiên có khả năng được áp dụng thực sự trên toàn cầu. Cho đến nay đã có 140 bên ký kết và 80 nước tham gia.
Ở châu Âu, Hội đồng châu Âu (COE) đã xây dựng ba công cụ chủ yếu để hướng dẫn các thành viên chống tham nhũng. Hai trong số ba văn kiện này là các công ước (Công ước Luật hình sự chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu năm 1997 và Công ước Luật Dân sự chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu), và một văn kiện bao gồm các nguyên tắc không ràng buộc (Hai mươi nguyên tắc hướng dẫn chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu). Hội đồng châu Âu cũng xây dựng cơ chế đánh giá đồng hạng để kiểm soát việc thực hiện các công ước và nguyên tắc này của 42 quốc gia, kể cả Mỹ. Liên minh châu Âu (EU) cũng xây dựng một số văn kiện hướng dẫn thành viên. Những văn kiện này bao gồm Công ước năm 1997 của Liên minh châu Âu về chống tham nhũng liên quan tới quan chức của các Cộng đồng châu Âu hoặc quan chức của các nước thành viên và Chương trình Hành động chung của EU năm 1998 về chống tham nhũng trong khu vực tư nhân. Bên cạnh đó còn có Khuôn khổ Chống Tham nhũng trong Khu vực Tư nhân của Liên minh châu Âu năm 2002. Hiệp ước Vì sự ổn định xây dựng năm 2000 được 7 quốc gia Đông Nam Âu ký kết cùng với cơ chế đánh giá đồng hạng kèm theo nhằm giám sát việc thực hiện hiệp ước, được biết đến với tên gọi Sáng kiến chống tham nhũng của tổ chức Hiệp ước Vì sự ổn định (SPAI).
Ở Mỹ La-tinh, đàm phán về Công ước Chống tham nhũng liên Mỹ năm 1996 được tiến hành dưới sự bảo trợ của Tổ chức các nước châu Mỹ (OAS), và trong năm 2001, Tổ chức này đã xây dựng được cơ chế đánh giá đồng hạng để giám sát việc thực hiện. Hiện có 33 quốc gia, kể cả Mỹ, tham gia thỏa thuận này.
Ở châu Á, 21 quốc gia khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã đưa ra một thỏa thuận chống tham nhũng không mang tính ràng buộc. Được biết đến với tên gọi Kế hoạch Hành động chống tham nhũng vì châu Á-Thái Bình Dương của Ngân hàng Phát triển châu Á (ABD) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thỏa thuận này đạt được với sự bảo trợ của ADB/OECD, còn cơ chế đánh giá đồng hạng sẽ được hình thành trong tương lai. Năm 2004, các nhà lãnh đạo Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đã thông qua Phương hướng Hành động chống Tham nhũng của APEC, trong đó cam kết mạnh mẽ thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và hợp tác trong khu vực nhằm đưa ra ánh sáng những quan chức tham nhũng, những người hối lộ họ và tài sản họ có được một cách phi pháp.
Ở châu Phi, Công ước Ngăn chặn và chống tham nhũng của Liên minh châu Phi đã được các nguyên thủ quốc gia thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh châu Phi tổ chức tại Maputo, Mô-zăm-bích tháng 7/2003. Nghị định thư về chống tham nhũng của Cộng đồng Phát triển Nam Phi năm 2001 bao gồm các biện pháp được 14 quốc gia của Cộng đồng này đưa ra. Năm 1999, Liên minh Toàn cầu vì châu Phi (GCA) đã xây dựng các nguyên tắc không ràng buộc chống tham nhũng. Những nguyên tắc này đã được 11 quốc gia thành viên GCA thông qua.
Ở Trung Đông, các nước Ả-rập đang hợp tác với nhau thông qua một mạng lưới khu vực gọi là Sáng kiến Quản lý Hiệu quả vì sự Phát triển, nhằm hỗ trợ tiến trình cải cách quản lý và hiện đại hóa khu vực công đang diễn ra và tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế-xã hội trên toàn khu vực. Chống tham nhũng là trụ cột hành động, cụ thể là nỗ lực thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng.
37 quốc gia ký Công ước năm 1997 của OECD về chống hối lộ các công chức nước ngoài trong các giao dịch kinh doanh quốc tế đã xây dựng cơ chế đánh giá đồng hạng để giám sát việc thực hiện. Công ước OECD là khá hạn hẹp và cụ thể nếu xét về phạm vi. Nội dung chính của Công ước này là sử dụng nội luật để hình sự hóa việc hối lộ các công chức nước ngoài.
Công việc và các nguyên tắc của Lực lượng Hành động Đặc biệt về Tài chính (FATF) cũng đóng góp lớn cho chương trình nghị sự quốc tế chống tham nhũng. FATF xây dựng chuẩn mực toàn cầu chống rửa tiền và tội phạm tài chính trong các Khuyến nghị 40+9 của Lực lượng này, đồng thời giám sát việc các nước thực hiện những khuyến nghị này. Tổ chức liên chính phủ này quy tụ các đại diện từ các cơ quan giám sát/quản lý và các thể chế tài chính nhằm đối phó với việc lạm dụng hệ thống tài chính, trong đó có hành vi lạm dụng do tham nhũng gây ra.
Trong những năm gần đây, các nước G8 – nhóm không chính thức 8 nước bao gồm Canađa, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Nga, Anh và Mỹ gặp nhau để thảo luận về các chính sách kinh tế và đối ngoại rộng mở – đã đưa cuộc chiến chống tham nhũng thành ưu tiên hàng đầu, trong đó có nỗ lực chống tham nhũng cấp cao, đưa ra ánh sáng những quan chức tham nhũng, phối hợp thu hồi những tài sản có được một cách bất hợp pháp và hỗ trợ các chương trình tăng cường sự minh bạch nhằm cải tiến ngân sách, việc mua bán (của nhà nước/chính phủ), tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm khi chuyển nhượng tài sản công.
I.5.i Tiến lên phía trước
Các thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong chỉ trích ngày càng gia tăng của quốc tế đối với nạn tham nhũng. Các thỏa thuận này buộc các chính phủ phải hành động và giúp tăng cường hợp tác quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật.
Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) là một bước phát triển quan trọng trong cơ cấu các thỏa thuận chống tham nhũng quốc tế. Công ước này đã tập hợp các chủ đề được đề cập trong các công ước khu vực và toàn cầu trước đây và nhiều chủ đề hơn nữa, kết hợp đưa chúng vào thành một tập hợp toàn diện các cam kết. Đây là thỏa thuận quốc tế đầu tiên thu hút hơn 40 nước tham gia, và con số hiện nay là hơn 80 nước và chắc chắn sẽ trở thành một công cụ quốc tế đầu tiên có thể áp dụng trên toàn cầu để chống tham nhũng. Những nguyên tắc chống tham nhũng từng được thử nghiệm, trong đó có tầm quan trọng của hợp tác quốc tế, nay đã trở thành những nguyên tắc toàn cầu mà có thể được xem là xuất phát từ một nhóm các quốc gia hoặc khu vực cùng chung chí hướng.
Khi các chính phủ bắt đầu thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng và xây dựng một tiến trình triển khai nhằm thúc đẩy việc thực hiện và tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, thì những cam kết và cơ chế hiện có của khu vực đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cho các chính phủ hợp tác với nhau về những vấn đề tham nhũng trong một khuôn khổ quen thuộc và với các đối tác quen thuộc. Thêm vào đó, các nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới phải tiếp tục hợp tác chặt chẽ và mạnh mẽ thông qua Công ước chống Hối lộ của OECD và cơ chế giám sát liên quan của công ước này để giảm bớt thói quen hối lộ quan chức nước ngoài trong các giao dịch kinh doanh quốc tế. Các nước OECD phải thể hiện ý chí chính trị thông qua việc thực thi các bộ luật hình sự hóa hành vi hối lộ đó.
Trong khi các công cụ quốc tế và các khuôn khổ đa phương là một công cụ có giá trị trong cuộc chiến toàn cầu chống tham nhũng, thì nhiệm vụ biến ý chí chính trị thành hành động cụ thể sẽ vẫn là một vấn đề có tầm quan trọng lớn. Hoa Kỳ cam kết hợp tác với tất cả các đối tác trên thế giới để đảm bảo rằng trong 15 năm tới hành động hiệu quả chống tham nhũng sẽ trở thành bản năng thứ hai của hầu hết các chính phủ trên thế giới.
[1] Stability Pact là tổ chức đuợc hình thành theo sáng kiến của EU dành cho các nước Đông Nam Âu nhằm thúc đẩy hòa bình, dân chủ, tôn trọng nhân quyền và thịnh vượng kinh tế, vì sự ổn định của toàn khu vực. Chống tham nhũng là một trong những ưu tiên của tổ chức này. (http://www.stabilitypact.org/anticorruption/)
***
I.6 CHUYỂN ĐỔI VĂN HÓA THAM NHŨNG
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12/2006
Chống tham nhũng ở cấp cao
Tham nhũng quy mô lớn của các quan chức nhà nước cấp cao – tham nhũng ở cấp cao – là mối đe dọa cụ thể đối với nền dân chủ và pháp quyền ở các nước đang phát triển. Loại hình tham nhũng này làm suy yếu trách nhiệm giải trình về tài chính, cản trở đầu tư nước ngoài, làm giảm hiệu quả kinh tế và làm giảm lòng tin vào các hệ thống pháp lý và tư pháp.
Theo Ngân hàng Thế giới, mỗi năm có 1.000 tỉ đô-la được chi cho các vụ hối lộ, và theo Liên Hợp Quốc, chỉ riêng châu Phi đã có hơn 400 triệu đô-la bị ăn cắp và tẩu tán ra nước ngoài. Tham nhũng ở cấp cao là một vấn đề liên quan đến phát triển, bởi nó làm suy giảm sự phát triển kinh tế và khiến cho những vấn đề quan trọng trở nên thiếu hiệu quả, như cuộc chiến chống đói nghèo. Ở nhiều nơi trên thế giới, các quan chức tham nhũng ở cấp cao vơ vét cho đầy túi tham thay vì đầu tư cho phát triển, như xây dựng đường xá, trường học và bệnh viện mới.
Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ và các đối tác quốc tế đã đề ra những biện pháp mới để ngăn không cho các quan chức sử dụng của cải mà họ tích lũy được thông qua những hành vi tham nhũng và họ cũng đang tìm những cách thức mới để tìm lại tài sản của mình.
Năm 2006, để chống tham nhũng ở cấp cao, Hoa Kỳ đã thực hiện Chiến lược Quốc gia nhằm quốc tế hóa nỗ lực chống tham nhũng ở cấp cao. Chiến lược này đã đưa cuộc chiến chống tham nhũng ở cấp cao lên một tầm mới với sự tham gia của các đối tác nước ngoài của Hoa Kỳ và các cơ quan tài chính của Hoa Kỳ tham gia vào một nỗ lực mạnh mẽ hơn nhằm đưa ra những biện pháp tốt nhất để phát hiện và tịch thu các quỹ đã bị lấy cắp, tăng cường chia sẻ thông tin và đảm bảo trách nhiệm lớn hơn đối với viện trợ phát triển.
Hai khía cạnh quan trọng của cuộc chiến chống tham nhũng cấp cao là lôi ra ánh sáng các quan chức tham nhũng, thu hồi và phân phối hợp lý tiền của thu được từ các vụ tham nhũng.
I.6.a Đưa ra ánh sáng những quan chức cấp cao tham nhũng
Ngày 12/1/2004, Tổng thống Bush ra Tuyên bố 7750, trao cho ngoại trưởng thẩm quyền pháp lý đặc biệt để xác định những người không được phép vào Mỹ do liên quan đến tham nhũng của công có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích quốc gia của Mỹ, bao gồm:
* Hoạt động kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp Hoa Kỳ;
* Những mục tiêu viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ;
* An ninh của Hoa Kỳ trước tội phạm và khủng bố xuyên quốc gia;
* Sự ổn định của các quốc gia và thể chế dân chủ.
Mục đích của tuyên bố này là ngăn không cho những người đó được vào Mỹ để hưởng lợi từ những hành vi tham nhũng của họ và phát đi một thông điệp mạnh mẽ rằng Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ các nỗ lực quốc tế chống tham nhũng của công xảy ra ở bất cứ đâu.
I.6.b Thu hồi tài sản
Hoa Kỳ cũng đang hợp tác với các đối tác quốc tế để truy tìm và thu hồi tài sản tham nhũng. Đồng thời, Hoa Kỳ còn hỗ trợ các cuộc điều tra nước ngoài để thu hồi tài sản thông qua việc sử dụng các công cụ tịch thu tài sản và điều tra thực thi luật pháp.
Trong những năm gần đây, các nhà chức trách Hoa Kỳ đã trả lại cho nhiều quốc gia hàng triệu đô-la mà các nhà lãnh đạo cũ của họ đã biển thủ.
Hoa Kỳ cũng sẽ hợp tác với các đối tác quốc tế để đưa ra những biện pháp tốt nhất trong việc xác định, truy tìm, phong tỏa và thu hồi tải sản có được một cách phi pháp thông qua tham nhũng quy mô lớn và hợp tác với các trung tâm tài chính quốc tế khác để xây dựng và tăng cường những biện pháp hiệu quả nhất ngăn không cho tài sản tham nhũng vào đất nước, tăng cường chia sẻ thông tin tài chính đáng nghi ngờ, khuyến khích và xây dựng mối quan hệ đối tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân.
Ngoài những biện pháp này, Tài khoản để đối phó với những thách thức thiên niên kỷ (MCA) của Tổng thống Bush – một chương trình cung cấp viện trợ cho các chính phủ nước ngoài cam kết lãnh đạo đất nước công minh, đầu tư cho nhân dân và khuyến khích tự do kinh tế – là phần thưởng cho những quốc gia xóa bỏ hoàn toàn tham nhũng.
***
I.7 CHUYỂN ĐỔI VĂN HÓA THAM NHŨNG
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12/2006
Hiểu rõ nạn tham nhũng: Những luật lệ về tính minh bạch và tự do thông tin
Donald F. Kettl
Mặc dù chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn tham nhũng ở Hoa Kỳ, nhưng những quy định chống lại những thông lệ của tham nhũng và luật pháp nhằm tăng tính minh bạch của chính phủ cũng đã giảm được tham nhũng thông qua việc theo dõi các hoạt động của chính phủ một cách sát sao để bài trừ sự lãng phí, gian lận, và sự lạm dụng chức quyền. Tự do thông tin và những luật “Minh bạch” là hai trong số những công cụ chống tham nhũng này. Tác giả Donald F. Kettl là giám đốc của Viện Nghiên cứu Chính phủ Fels tại Đại học Pennsylvania, và là tác giả của cuốn Hệ thống dưới sự căng thẳng: An ninh Nội địa và Chính trị Hoa Kỳ, tái bản lần thứ nhất (2007).
Người Mỹ lâu nay thường sử dụng hai cách tiếp cận rất khác nhau trong việc bài trừ nạn tham nhũng. Cách tiếp cận thứ nhất – và là cách tiếp cận có nguồn gốc sâu xa nhất là quy định của luật pháp. Nếu có một hành vi nào đó mà công dân hay các đại biểu dân cử cảm thấy không đúng đắn hay không vừa lòng, thì phản ứng manh tính bản năng sẽ là soạn ra một quy định cấm hành vi đó. Điều này dẫn đến sự ra đời của rất nhiều quy định, đôi khi còn của cả một bộ máy điều tiết nhằm ngăn chặn không cho một vấn đề được phép tái diễn.
Những cuộc điều tra Watergate về việc Chính quyền Tổng thống Nixon đã sử dụng quyền lực của tổng thống như thế nào vào thập niên 1970 đã làm nảy sinh một cách tiếp cận thứ hai trong việc bài trừ nạn tham nhũng. Chỉ riêng các quy định đã tỏ ra không đủ để ngăn chặn sự lạm dụng chức quyền một cách phổ biến. Hơn nữa, nhiều nhà cải cách lo ngại sâu sắc về sự tập trung quyền lực nhà nước và bức màn bí mật luôn bao bọc quanh nó. Quốc hội Hoa Kỳ đã cố gắng giảm bớt tham nhũng thông qua một số chương trình mới nhằm tăng cường tính minh bạch.
Tất nhiên không thể xóa bỏ hoàn toàn nạn tham nhũng được. Có nhiều cơ hội để lái các quy định luật pháp theo cách thức làm bóp méo các mục đích chung để phục vụ lợi ích cá nhân và không thể loại bỏ hoàn toàn nạn tham nhũng chỉ bằng luật pháp. Nhưng theo cách tiếp cận của người Mỹ vào những năm 1970 thì có thể hạn chế tham nhũng nhờ việc vén các bức màn bí mật và làm sáng tỏ hoạt động của chính phủ thông qua việc tăng cường quyền lực cho các điều tra viên, nhằm giám sát chính phủ, loại bỏ các hành vi lãng phí, gian lận và lạm dụng chức quyền. Cách tiếp cận này có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống chính trị Hoa Kỳ, và cũng gợi lại những gì mà vị tổng thống thứ tư của nước Mỹ – James Madison đã viết năm 1822: “Một chính phủ vì dân mà không có sự phổ biến thông tin cho dân chúng hoặc không có phương tiện để tiếp cận thông tin thì chỉ là sự bắt đầu cho một trò hề hoặc chính là một tấn thảm kịch, hoặc có lẽ là cả hai thứ đó. Tri thức sẽ luôn thống trị sự ngu dốt, và nhân dân chính là người bầu ra các thống đốc của họ, họ có quyền và họ cần phải biết những gì chính phủ của họ đang làm”.
I.7.a Tự do thông tin
Một trong những thành tố quan trọng nhất của chiến lược này là Luật về Tự do Thông tin (FOIA). Đạo luật này được thông qua lần đầu tiên năm 1966, quy định rằng về nguyên tắc, các tài liệu của chính phủ thuộc quyền sở hữu của dân chúng, và dân chúng có quyền được xem nội dung các tài liệu của chính phủ. Luật này chuyển trách nhiệm chứng minh truyền thống từ một quan niệm vốn có trước đó rằng các tài liệu này sẽ được giữ kín và chỉ những công dân chứng minh được lý do cần thiết thì mới được xem những tài liệu này, sang một quy ước mới cho phép dân chúng tự do tiếp cận tài liệu của chính phủ trừ khi nhà nước có lý do chính đáng để không tiết lộ thông tin (ví dụ như vì lý do an ninh quốc gia hay bảo mật thông tin cá nhân). Quan trọng hơn, luật này đã tạo ra nền tảng cho những cải cách liên tiếp sau đó: các công dân có quyền biết về chính phủ của họ và về những gì mà chính phủ đang làm.
Một luật đi kèm khác, Luật Thông tin Cá nhân năm 1974, cũng đã quy định rằng công dân có quyền biết thông tin mà chính phủ đã thu thập về họ. Ví dụ, Cơ quan Điều tra Liên bang đã cất giữ một số hồ sơ cá nhân. Dư luận chỉ trích rằng cơ quan này đã vi phạm quyền cá nhân khi thu thập thông tin cho những hồ sơ này, rằng các thông tin này có thể không đúng và chính phủ có thể sử dụng thông tin này chống lại các cá nhân trong khi họ không biết về những thông tin mà cơ quan này đã thu thập. Theo Luật Thông tin Cá nhân, các công dân được phép có một bản sao những hồ sơ cá nhân mà chính phủ đã thu thập về họ, thậm chí nếu cần thiết, họ có thể không thừa nhận tính xác thực của thông tin trong các hồ sơ này. Đạo luật này cũng hạn chế cơ hội phổ biến thông tin cá nhân của chính phủ. Luật Tự do Thông tin và Luật Thông tin Cá nhân đã không chỉ tạo ra nền tảng luật pháp về minh bạch chính sách của chính phủ mà còn đòi hỏi các cơ quan chính phủ phải đưa ra các hướng dẫn rõ ràng để thực thi luật, và chính điều này lại làm cho bản thân chính sách về sự minh bạch trở nên minh bạch hơn.
I.7.b Tính minh bạch của chính phủ
Năm 1976, Quốc hội cùng với Chính phủ đã thông qua Đạo luật Ánh dương. Với rất ít ngoại lệ, chủ yếu liên quan đến an ninh quốc gia và bảo mật thông tin cá nhân, Luật này quy định rằng các cuộc họp của chính phủ phải được công khai trước dân chúng. Các cơ quan công quyền cần phải thông báo trước về các cuộc họp sắp diễn ra và chương trình nghị sự của mình, đồng thời phải công khai trước dân chúng kết quả của những cuộc họp này. Thêm vào đó, đạo luật này cũng định nghĩa rõ ràng “cuộc họp” nhằm ngăn chặn các nhóm quan chức chính phủ tụ họp để đưa ra các quyết định, nhưng lại nói rằng đó là cuộc họp không chính thức.
Hai năm sau, Quốc hội thông qua thêm một đạo luật nữa: Luật Tổng Thanh tra, quy định rằng các quan chức cấp cao tại tất cả các cơ quan liên bang phải tiến hành thanh tra và kiểm toán độc lập. Các viên Tổng Thanh tra này có toàn quyền kiểm tra hoạt động, ngân sách và đội ngũ viên chức của các cơ quan liên bang. Chính quyền của Tổng thống Jimmy Carter đã ủng hộ đạo luật này. Khi Ronald Reagan kế nhiệm ông, vị tổng thống mới này đã bãi nhiệm toàn bộ 16 viên Tổng Thanh tra, dẫn tới một mối lo ngại rộng khắp rằng tổng thống không thể kiểm soát được những hành vi lãng phí của chính phủ. Ronald Reagan đã trả lời bằng cách tái bổ nhiệm 5 Tổng Thanh tra và bổ nhiệm 11 Tổng Thanh tra mới; đồng thời tuyên bố rằng mỗi người trong số họ hãy “tinh anh hơn một con chó săn”. Các Tổng Thanh tra thường đưa ra các báo cáo đối với những vụ việc lớn, từ việc quản lý tồi của chính quyền liên bang đến các trở ngại trong quản lý hợp đồng. Các báo cáo của họ thường gây ra những xung đột chính trị sâu sắc và mặc dù nhiều lần vai trò của họ đã có nguy cơ bị giảm sút, nhưng họ vẫn là một phần quan trọng trong chính sách minh bạch của chính phủ liên bang.
Đây đều là những sáng kiến của chính phủ liên bang, và các quy định của những đạo luật này chỉ áp dụng cho các cơ quan liên bang. Tuy nhiên, phần lớn các bang trên khắp nước Mỹ cũng đều đã thông qua các đạo luật tương tự (nói chung, luật pháp của các bang thường được áp dụng cho hoạt động của các chính quyền thành phố và thị trấn ở địa phương). Từ những năm 1970, tính minh bạch đã trở nên quan trọng không kém gì so với các cách tiếp cận điều chỉnh trong nỗ lực bài trừ nạn tham nhũng của Hoa Kỳ.
I.7.c Các vấn đề khác
Tất nhiên là các chính sách đưa ra không phải lúc nào cũng đạt được kết quả như mong muốn. Các quan chức chính phủ vẫn bị kết tội là đã sử dụng vị trí để tư lợi, trong đó có cả việc đảm bảo việc làm trong tương lai cho những doanh nhân mà các quan chức này đã đàm phán hợp đồng và việc nhận hoa hồng trong các vụ đàm phán khác. Số lượng Tổng Thanh tra dường như là quá nhỏ so với số lượng các vụ việc và các hoạt động mà họ phải điều tra. Như vậy, chắc chắn là họ sẽ tập trung hơn vào một số vụ việc so với các vụ việc khác, và điều này dẫn tới hiện tượng bỏ qua một số vấn đề và đôi khi các Tổng Thanh tra sẽ lựa chọn các vụ việc vì những lý do chính trị.
Ngoài ra, các biện pháp đảm bảo tính minh bạch này tốn kém bởi vì chúng làm cho bộ máy hành chính trở nên cồng kềnh hơn. Các cơ quan liên bang phải thành lập một bộ phận chịu trách nhiệm xem xét yêu cầu của dân chúng về các hồ sơ và thông tin, phải xây dựng các quy trình mới để công khai hoạt động, kết quả; và yêu cầu phải báo trước các cuộc họp như trong Đạo luật Ánh dương đã quy định khiến cho các cơ quan liên bang gặp khó khăn trong việc hành động nhanh do các cuộc họp đều phải chờ được thông báo trước cho dân chúng. Hơn nữa, không phải tất cả mọi nơi trong chính phủ đều có sự minh bạch. Ngành tư pháp, đặc biệt là ở cấp liên bang, đã phản đối một số nội dung trong phong trào minh bạch hoá, nhất là đối với việc đưa lên truyền hình những buổi tranh tụng và phán quyết của toà.
Tuy nhiên, làn sóng minh bạch hóa đang dâng cao trong chính quyền Hoa Kỳ cũng đã thu được nhiều thành quả tốt đẹp. Nó giúp khôi phục lòng tin đối với chính quyền và xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng sau vụ điều tra Watergate hồi đầu thập kỷ 70. Nó làm tăng sự quan tâm của dân chúng đối với chính quyền. Mặc dù quá trình minh bạch hóa đã gây ra một số trở ngại về thủ tục hành chính, nhưng ngay cả những người phản đối xu thế này cũng phải miễn cưỡng công nhận rằng mức độ minh bạch đã được cải thiện ở các cấp. Sự minh bạch không thay thế vị trí hàng đầu của các quy định pháp luật trong việc chống lại nạn tham nhũng, và nó cũng không loại bỏ hoàn toàn nạn tham nhũng, nhưng chắc chắn rằng nó đã giúp cho cuộc chiến chống tham nhũng trở nên mạnh mẽ và dân chủ hơn.
***
I.8 CHUYỂN ĐỔI VĂN HÓA THAM NHŨNG
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12/2006
Các cách tiếp cận hiệu quả trong việc bài trừ nạn tham nhũng
Một giải pháp hiệu quả đối với nạn tham nhũng phải được bắt đầu từ hai nhận thức không thể thiếu: thứ nhất là không có một hệ thống hay một xã hội nào là không có nạn tham nhũng, và thứ hai là chúng ta cần phải bắt đầu nỗ lực ngay từ những bước đi căn bản nhất trong việc xây dựng sự hiểu biết chung về điều chúng ta muốn ám chỉ khi nói đến tham nhũng.
Các cách tiếp cận đa phương diện là quan trọng nhất. Ngay cả khi nguồn lực của chúng ta rất nhỏ, các cán bộ của USAID vẫn giải quyết tốt mọi việc trong thời gian hợp tác với chính phủ của nước chủ nhà đối tác và với các nhà tài trợ, để bảo đảm triển khai một cách tiếp cận chung trong việc thực hiện những cải cách chống tham nhũng, và để bảo đảm rằng các nguồn lực ngoại giao cũng như các nguồn lực từ các chương trình hỗ trợ phải được sử dụng một cách có hiệu quả. Kinh nghiệm của USAID tại Kenya là một ví dụ tiêu biểu chứng minh cho những gì có thể đạt được thông qua hỗ trợ các nhà cải cách và các thể chế trên nhiều mặt trận. Trong khi các sự kiện tại đất nước này khiến nước Mỹ quyết định giảm bớt sự trợ giúp của mình đối với một số cơ quan chính phủ (ví dụ như Ban Đạo đức của Chính phủ) thì một chương trình hỗ trợ trước đó của Hoa Kỳ và của các nhà tài trợ khác đã giúp cơ quan này thu thập những thông tin quan trọng hiện vẫn đang được Ủy ban Tài chính Công của Nghị viện Kenya sử dụng; đồng thời, USAID cũng đã trao một khoản viện trợ xây dựng năng lực cho chính phủ và tiếp tục có ảnh hưởng lớn tới cuộc tranh luận chính trị và các cuộc điều tra tại đất nước này. Và tất nhiên sẽ không một tiến bộ nào trong số này có thể đi xa đến như vậy nếu không có vai trò tiên quyết của xã hội dân sự Kenya – là đối tác của USAID và là những người luôn đi tiên phong trên mặt trận chống tham nhũng từ nhiều năm nay.
Xã hội dân sự luôn luôn là một đối tác không thể thiếu. Các chính phủ thường không tự cải cách, ngay cả khi đội ngũ lãnh đạo ủng hộ mạnh mẽ những cải cách này. Chúng ta thường thu được những thành quả tốt đẹp nhất khi các cộng đồng địa phương tham gia vào việc giám sát triển khai các dự án phát triển và ngân sách. Tại Côlômbia, cộng đồng veedur (các ủy ban giám sát của công dân) đã thay đổi những tập quán về tuyển dụng tại các trường học địa phương và cấm công nhân xây dựng làm đường sử dụng nguyên vật liệu kém phẩm chất. Ở Mali, người dân đóng thuế tại một huyện ở Bamako đã phát hiện ra những điều không nhất quán trong ngân sách địa phương, và điều này đã khiến cho một số quan chức địa phương bị kết tội và cách chức. Các chương trình của USAID tại Rwanda, Tanzania và nhiều nơi khác cũng đã có những thành quả tương tự.
Các cách tiếp cận về xây dựng thể chế tỏ ra thích hợp ở những nơi chính quyền cơ sở được thành lập và ở những nơi có cam kết chính trị mạnh mẽ đối với việc thay đổi cách tiến hành các công việc chung. Các chương trình hỗ trợ của USAID đã giúp Ủy ban Chống tham nhũng của Inđônêxia và Tòa án Thương mại Nam Phi đạt được những thành quả quan trọng, nhưng trong những môi trường ít thuận lợi hơn, các thể chế chuyên biệt như vậy hoạt động không được tốt lắm. Tài liệu của các ủy ban chống tham nhũng trên khắp thế giới đều xác nhận điều này là đúng.
Huy động các nguồn lực, cam kết chính trị, các thành quả phát triển thông qua việc lồng ghép các mục tiêu và nguyên tắc chống tham nhũng có thể là một chiến lược mang lại thành công. USAID theo đuổi cách tiếp cận này một phần là để đối phó với hiện tượng thiếu nguồn lực dành cho công việc quản trị nhà nước có tính truyền thống hơn và một phần là vì chúng ta đã thấy rằng nạn tham nhũng rất khó bị đẩy lùi nếu chỉ tiếp cận từ phía quản trị nhà nước. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã chứng kiến nhiều ví dụ về các cộng đồng và chính phủ đang phấn khích xung quanh những cải cách liên quan đến phân phối dịch vụ và nâng cao vị thế kinh tế của họ trên trường quốc tế. Những ví dụ này chỉ ra rằng đây là một vùng đất hứa cho các nỗ lực cao hơn. Mặt khác, chúng ta cũng ý thức được nguy cơ của việc tự tin rằng những cải cách mà chúng ta đang thúc đẩy đã có tác động chống tham nhũng, nhưng chúng ta lại chưa khớp được các cải cách này trong các bản kế hoạch, trong đàm phán, hoặc chưa dự báo được kết quả của một hoạt động cải cách.
Trong khi thấy được cách tiếp cận nào là có hiệu quả cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng thì chúng ta cũng phát hiện ra một số cách tiếp cận không mang lại hiệu quả:
* Các chương trình nâng cao nhận thức dân chúng không bị ràng buộc với cải cách
* Các cải cách không có các chương trình nâng cao nhận thức dân chúng
* Không có cách tiếp cận dài hạn
* Các khuyến nghị không dựa trên nghiên cứu và thu thập số liệu
* Các chương trình do các nhà tài trợ cấp vốn và được coi là chương trình của các nhà tài trợ (sự thiếu tinh thần làm chủ).
USAID sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với các chính phủ, các tổ chức đa phương và cộng đồng các tổ chức phi chính phủ nhằm đảm bảo một sự phối hợp chiến lược và hiệu quả giữa các hoạt động ngoại giao và các chương trình hợp tác của Chính phủ Hoa Kỳ. Quản trị nhà nước tốt và trách nhiệm giải trình sẽ tạo điều kiện đưa dân chúng thoát khỏi đói nghèo, nâng cao chất lượng y tế và giáo dục, tăng cường an ninh biên giới, mở rộng phạm vi tự do cá nhân, thực hiện các chiến lược kinh tế và phát triển bền vững, và tạo ra các nền dân chủ vững mạnh hơn.
I.9 Thực trạng tham nhũng trên thế giới
Nội dung:
• a. Nguồn gốc tham nhũng
• b. Công cụ nhận dạng
• c. Thực trạng tham nhũng trên thế giới
• d. Những chính trị gia tham nhũng
• e. Biện pháp chống tham nhũng
• f. Bảng số liệu điều tra tham nhũng các nước trên thế giới 2001-2005
• i. Trừng phạt
• j. Xem thêm
• k. Chú thích
• l. Liên kết ngoài
I.9.a Nguồn gốc tham nhũng
Tham nhũng xuất hiện từ rất sớm từ khi có sự phân chia quyền lực và hình thành nhà nước. Có ý kiến cho rằng tham nhũng bắt nguồn từ nền văn hóa độc tài đề cao cá nhân, coi trọng biếu xén. Ý kiến khác cho rằng: xã hội thay đổi các chuẩn mực về đạo đức, xã hội biến đổi liên tục, nền kinh tế biến đổi mạnh sinh ra tham nhũng.
Tham nhũng thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh tế kém phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân/đầu người thấp. Tại các nước này con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để tham nhũng. Đối với một số nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập bình quân/đầu người cao, các cá nhân có sở hữu tài sản lớn mới bắt đầu tham gia chính trường để làm lãnh đạo.
I.9.b Công cụ nhận dạng
Các tác giả trong cuốn sách Tools to support transparency in local governance (Công cụ hỗ trợ cho tính minh bạch trong công tác cai trị ở địa phương) đã xác định ra qui luật hoạt động của tham nhũng trong thực tế công quyền dưới dạng công thức tạm dịch như sau:
Tham nhũng (Corruption) = Độc quyền (Monopoly) + Bưng bít thông tin (Discretion) – Trách nhiệm giải trình (Accountability).
Theo công thức trên, có thể dễ dàng nhận dạng tham nhũng trong các biểu hiện của nó: thừa độc quyền, thừa bưng bít thông tin, thiếu (phi) trách nhiệm giải trình.
Công cụ nhận dạng tham nhũng cho thấy được bản chất của tham nhũng, mà con người là yếu tố quan trọng tham gia vào.
I.9.c Thực trạng tham nhũng trên thế giới
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, một tổ chức phi chính phủ, công bố ngày 18 tháng 10 năm 2005 [1] có tới 2/3 trong 159 nước được thăm dò có tình trạng tham nhũng nghiêm trọng — một kết quả đáng buồn.
• Các nước Bắc Âu được đánh giá là tốt nhất: Iceland (1), Phần Lan và New Zealand (2), Đan Mạch (4), Thụy Điển (6) và Na Uy (8). Các nước nghèo cũng chính là những nước có tình trạng tham nhũng nặng đội sổ: Bangladesh và Tchad (158). Tiếp đó là Haiti, Myanma và Turkmenistan, Nigeria, Guinea Xích Đạo, Côte d’Ivoire, Angola cũng là những nước có chỉ số nhận thức tham nhũng thấp (từ 1,7 đến 2 điểm).
• Châu Á: Singapore (5), Hong Kong (15), Nhật (21), Đài Loan (32), Malaysia (39) và Hàn Quốc (40), Thái Lan (59), Trung Quốc (78), Ấn Độ (88), Philippines (117) và Indonesia (137). Trong đó Việt Nam (107) cùng hạng với Belarus, Eritrea, Honduras, Kazakhstan, Nicaragua, Palestine, Ukraina, Zambia và Zimbabwe.
• Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank), hàng năm trên thế giới có khoảng 1.000 tỷ USD bị tham nhũng dưới dạng đưa hối lộ.
• Theo tổ chức TI, chỉ riêng ở châu Phi hàng năm có khoảng 148 tỷ USD đã bị mất hay thất thoát do tệ tham nhũng gây ra, tương đương với 1/2 khoản nợ nước ngoài của lục địa này. (Theo con số nợ nước ngoài của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế (IMF), châu Phi nợ nước ngoài khoảng 248 tỷ USD).
• Chủ tịch của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Peter Eigen, nhận xét: “Tham nhũng là nguyên nhân chính của đói nghèo khóa chặt người dân trong vòng nghèo khổ.”
I.9.d Những chính trị gia tham nhũng
Tổ chức Minh bạch Quốc tế vừa lập danh sách những chính trị gia tham nhũng nhất trong những thập kỷ 1990 (13 tháng 10 năm 2005)
• Đứng hàng đầu trong danh sách là cựu Tổng thống Mobutu Sese Seko của Cộng hoà Dân chủ Congo, biển thủ 5-8 tỷ đô la; cựu Tổng thống Suharto của Indonesia, tài sản gần bằng một nửa tổng sản phẩm quốc nội của Indonesia; cựu Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippines biển thủ 100 tỷ đô la (theo báo cáo của ủy ban trong sạch phủ tổng thống Philippines); và cựu Tổng thống Alberto Fujimori của Peru, biển thủ hàng trăm triệu đô.
I.9.e Biện pháp chống tham nhũng
Nhiều quốc gia họp tại Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng đều thống nhất cho rằng sự minh bạch là một biện pháp chống tham nhũng hữu hiệu nhất.
Công cụ chiến đấu tham nhũng = Minh bạch khiếu nại của dân chúng + Minh bạch ngân sách, tài chính + Minh bạch mua sắm
Hiến chương LHQ về tham nhũng có hiệu lực từ tháng 12 năm 2005, sẽ tạo ra một khuôn khổ pháp lý quốc tế trong việc chống lại tham nhũng, thu hồi lại những khoản tiền bị tham nhũng, thúc đẩy ngân hàng và các tổ chức tài chính có những hành động chống rửa tiền, cho phép các quốc gia thanh tra các công ty nước ngoài và cá nhân mà có dính dáng tới tham nhũng tại nước của mình, cấm việc đưa hối lộ của các quan chức nước ngoài.
Loại bỏ tham nhũng và thực hiện cải cách việc nhận tiền tài trợ là những điều quan trọng để các khoản hỗ trợ tài chính, tài trợ hiệu quả hơn và để mục tiêu phát triển kinh tế của thế giới được thành công. Ông David Nussbaum, giám đốc điều hành TI nói: ” Tham nhũng không phải là một thảm hoạ tự nhiên. Đó là những khoản ăn cắp cơ hội được tính toán từ những kẻ tham lam. Các nhà lãnh đạo phải cải thiện cách làm việc, thông thoáng và tin cậy hơn thay vì chỉ hứa suông”.
Ngày quốc tế phòng chống tham nhũng là ngày 09 tháng 12.
Cấm vận là sự ngăn cấm quan hệ ngoại giao, viện trợ, buôn bán, thương mại, vũ khí, năng lượng, đi lại vận chuyển hàng hóa (bằng hàng không hay đường biển), khoa học kỹ thuật… với một nước nào đó. Nó thường được một nước có nhiều tiềm lực, có nhiều ảnh hưởng sử dụng để chống lại một nước khác. Mục tiêu của cấm vận là gây khó cho nước khác trên lĩnh vực bị cấm vận cũng như các lĩnh vực có liên quan. Ảnh hưởng của cấm vận kinh tế tùy thuộc vào sức mạnh kinh tế của nước cấm vận, khả năng kinh tế của nước bị cấm vận và các đồng minh của nó. Các nước nhỏ, cô lập, khi bị nước lớn cấm vận thì có thể gặp khó khăn trong việc xuất nhập khẩu, khó hòa nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế khó phát triển hơn và khó tiếp cận các tài nguyên chiến lược.
Lệnh cấm vận thường được sử dụng như một sự trừng phạt chính trị do sự bất đồng về chính sách và hành động trái với một nhóm nước lớn mạnh về mọi mặt. Mặt khác nó còn là công cụ xử lý, đe doạ một số quốc gia không tuân theo.
Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, OPEC… là các tổ chức/quốc gia có khả năng cấm vận gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia khác.
I.9.f Bảng số liệu điều tra tham nhũng các nước trên thế giới 2001-2005
Số liệu mới nhất tại en:Corruption Perceptions Index
Nước 2001 2002 2003 2005
Chỉ số Xếp hạng Chỉ số Xếp hạng Chỉ số Xếp hạng Chỉ số Xếp hạng
Iceland
9.2 4/91 9.4 4/102 9.6 2/133 9.7 1/159
Phần Lan
9.9 1/91 9.7 1/102 9.7 1/133 9.6 2/159
New Zealand
9.4 3/91 9.5 2/102 9.5 3/133 9.6 2/159
Đan Mạch
9.5 2/91 9.5 2/102 9.5 3/133 9.5 4/159
Singapore
9.2 4/91 9.3 5/102 9.4 5/133 9.4 5/159
Thụy Điển
9.0 6/91 9.3 5/102 9.3 6/133 9.2 6/159
Thụy Sĩ
8.4 12/91 8.5 12/102 8.8 8/133 9.1 7/159
Na Uy
8.6 10/91 8.5 12/102 8.8 8/133 8.9 8/159
Úc
8.5 11/91 8.6 11/102 8.8 8/133 8.8 9/159
Áo
7.8 15/91 7.8 15/102 8.0 14/133 8.7 10/159
Hà Lan
8.8 8/91 9.0 7/102 8.9 7/133 8.6 11/159
Anh
8.3 13/91 8.7 10/102 8.7 11/133 8.6 11/159
Luxembourg
8.7 9/91 9.0 7/102 8.7 11/133 8.5 13/159
Canada
8.9 7/91 9.0 7/102 8.7 11/133 8.4 14/159
Hồng Kông
7.9 14/91 8.2 14/102 8.0 14/133 8.3 15/159
Đức
7.4 20/91 7.3 18/102 7.7 16/133 8.2 16/159
Hoa Kỳ
7.6 16/91 7.7 16/102 7.5 18/133 7.6 17/159
Pháp
6.7 23/91 6.3 25/102 6.9 23/133 7.5 18/159
Bỉ
6.6 24/91 7.1 20/102 7.6 17/133 7.4 19/159
Ireland
7.5 18/91 6.9 23/102 7.5 18/133 7.4 19/159
Chile
7.5 18/91 7.5 17/102 7.4 20/133 7.3 21/159
Nhật Bản
7.1 21/91 7.1 20/102 7.0 21/133 7.3 21/159
Tây Ban Nha
7.0 22/91 7.1 20/102 6.9 23/133 7.0 23/159
Barbados
– – – – – – 6.9 24/159
Malta
– – – – – – 6.6 25/159
Bồ Đào Nha
6.3 25/91 6.3 25/102 6.6 25/133 6.5 26/159
Estonia
5.6 28/91 5.6 29/102 5.5 33/133 6.4 27/159
Israel
7.6 16/91 7.3 18/102 7.0 21/133 6.3 28/159
Oman
– – – – 6.3 26/133 6.3 28/159
Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất
– – – – 5.2 37/133 6.2 30/159
Slovenia
5.2 34/91 6.0 27/102 5.9 29/133 6.1 31/159
Botswana
6.0 26/91 6.4 24/102 5.7 30/133 5.9 32/159
Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) 5.9 27/91 5.6 29/102 5.7 30/133 5.9 32/159
Qatar
– – – – 5.6 32/133 5.9 32/159
Uruguay
5.1 35/91 5.1 32/102 5.5 33/133 5.9 32/159
Bahrain
– – – – 6.1 27/133 5.8 36/159
Cộng hoà Síp
– – – – 6.1 27/133 5.7 37/159
Jordan
4.9 37/91 4.5 40/102 4.6 43/133 5.7 37/159
Malaysia
5.0 36/91 4.9 33/102 5.2 37/133 5.1 39/159
Ý
5.5 29/91 5.2 31/102 5.3 35/133 5.0 40/159
Hungary
5.3 31/91 4.9 33/102 4.8 40/133 5.0 40/159
Hàn Quốc
4.2 42/91 4.5 40/102 4.3 50/133 5.0 40/159
Tunisia
5.3 31/91 4.8 36/102 4.9 39/133 4.9 43/159
Litva
4.8 38/91 4.8 36/102 4.7 41/133 4.8 44/159
Kuwait
– – – – 5.3 35/133 4.7 45/159
Cộng hòa Nam Phi
4.8 38/91 4.8 36/102 4.4 48/133 4.5 46/159
Namibia
5.4 30/91 5.7 28/102 4.7 41/133 4.3 47/159
Hy Lạp
4.2 42/91 4.2 44/102 4.3 50/133 4.3 47/159
Cộng hòa Séc
3.9 47/91 3.7 52/102 3.9 54/133 4.3 47/159
Slovakia
– – – – 3.7 59/133 4.3 47/159
Mauritius
4.5 40/91 4.5 40/102 4.4 48/133 4.2 51/159
Costa Rica
4.5 40/91 4.5 40/102 4.3 50/133 4.2 51/159
Latvia
3.4 59/91 3.7 52/102 3.8 57/133 4.2 51/159
El Salvador
3.6 54/91 3.4 62/102 3.7 59/133 4.2 51/159
Bulgaria
3.9 47/91 4.0 45/102 3.9 54/133 4.0 55/159
Colombia
3.8 50/91 3.6 57/102 3.7 59/133 4.0 55/159
Fiji
– – – – – – 4.0 55/159
Seychelles
– – – – – – 4.0 55/159
Cuba
– – – – 4.6 43/133 3.8 59/159
Thái Lan
3.2 61/91 3.2 64/102 3.3 70/133 3.8 59/159
Trinidad và Tobago
– – – – 4.6 43/133 3.8 59/159
Belize
– – – – 4.5 46/133 3.7 62/159
Brasil
4.0 46/91 4.0 45/102 3.9 54/133 3.7 62/159
Jamaica
– – 4.0 45/102 3.8 57/133 3.6 64/159
Ghana
3.4 59/91 3.9 50/102 3.3 70/133 3.5 65/159
Mexico
3.7 51/91 3.6 57/102 3.6 64/133 3.5 65/159
Panama
3.7 51/91 3.0 67/102 3.4 66/133 3.5 65/159
Peru
4.1 44/91 4.0 45/102 3.7 59/133 3.5 65/159
Thổ Nhĩ Kỳ
3.6 54/91 3.2 64/102 3.1 77/133 3.5 65/159
Burkina Faso
– – – – – – 3.4 70/159
Croatia
3.9 47/91 3.8 51/102 3.7 59/133 3.4 70/159
Ai Cập
3.6 54/91 3.4 62/102 3.3 70/133 3.4 70/159
Lesotho
– – – – – – 3.4 70/159
Ba Lan
4.1 44/91 4.0 45/102 3.6 64/133 3.4 70/159
Ả Rập Saudi
– – – – 4.5 46/133 3.4 70/159
Syria
– – – – 3.4 66/133 3.4 70/159
Lào
– – – – – – 3.3 77/159
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)
3.5 57/91 3.5 59/102 3.4 66/133 3.2 78/159
Maroc
– – 3.7 52/102 3.3 70/133 3.2 78/159
Sénégal
2.9 65/91 3.1 66/102 3.2 76/133 3.2 78/159
Sri Lanka
– – 3.7 52/102 3.4 66/133 3.2 78/159
Suriname
– – – – – – 3.2 78/159
Liban
– – – – 3.0 78/133 3.1 83/159
Rwanda
– – – – – – 3.1 83/159
Cộng hòa Dominicana
– – – – 3.3 70/133 3.0 85/159
Mông Cổ
– – – – – – 3.0 85/159
Romania
2.8 69/91 2.6 77/102 2.8 83/133 3.0 85/159
Armenia
– – – – 3.0 78/133 2.9 88/159
Bénin
– – – – – – 2.9 88/159
Bosna và Hercegovina
– – – – 3.3 70/133 2.9 88/159
Gabon
– – – – – – 2.9 88/159
Ấn Độ
2.7 71/91 2.7 71/102 2.8 83/133 2.9 88/159
Iran
– – – – 3.0 78/133 2.9 88/159
Mali
– – – – 3.0 78/133 2.9 88/159
Moldavia
3.1 63/91 2.1 93/102 2.4 100/133 2.9 88/159
Tanzania
2.2 82/91 2.7 71/102 2.5 92/133 2.9 88/159
Algérie
– – – – 2.6 88/133 2.8 97/159
Argentina
3.5 57/91 2.8 70/102 2.5 92/133 2.8 97/159
Madagascar
– – 1.7 98/102 2.6 88/133 2.8 97/159
Malawi
3.2 61/91 2.9 68/102 2.8 83/133 2.8 97/159
Mozambique
– – – – 2.7 86/133 2.8 97/159
Serbia và Montenegro
– – – – 2.3 106/133 2.8 97/159
Gambia
– – – – 2.5 92/133 2.7 103/159
Macedonia
– – – – 2.3 106/133 2.7 103/159
Swaziland
– – – – – – 2.7 103/159
Yemen
2.9 65/91 2.7 71/102 2.6 88/133 2.7 103/159
Belarus
– – 4.8 36/102 4.2 53/133 2.6 107/159
Eritrea
– – – – – – 2.6 107/159
Honduras
2.7 71/91 2.7 71/102 2.3 106/133 2.6 107/159
Kazakhstan
2.7 71/91 2.3 88/102 2.4 100/133 2.6 107/159
Nicaragua
2.4 77/91 2.5 81/102 2.6 88/133 2.6 107/159
Palestine
– – – – 3.0 78/133 2.6 107/159
Ukraina
2.1 83/91 2.4 85/102 2.3 106/133 2.6 107/159
Việt Nam
2.6 75/91 2.4 85/102 2.4 100/133 2.6 107/159
Zambia
2.6 75/91 2.6 77/102 2.5 92/133 2.6 107/159
Zimbabwe
2.9 65/91 2.7 71/102 2.3 106/133 2.6 107/159
Afghanistan
– – – – – – 2.5 117/159
Bolivia
2.0 84/91 2.2 89/102 2.3 106/133 2.5 117/159
Ecuador
2.3 79/91 2.2 89/102 2.2 113/133 2.5 117/159
Guatemala
2.9 65/91 2.5 81/102 2.4 100/133 2.5 117/159
Guyana
– – – – – – 2.5 117/159
Libya
– – – – 2.1 118/133 2.5 117/159
Nepal
– – – – – – 2.5 117/159
Philippines
2.9 65/91 2.6 77/102 2.5 92/133 2.5 117/159
Uganda
1.9 88/91 2.1 93/102 2.2 113/133 2.5 117/159
Albania
– – 2.5 81/102 2.5 92/133 2.4 126/159
Niger
– – – – – – 2.4 126/159
Nga
2.3 79/91 2.7 71/102 2.7 86/133 2.4 126/159
Sierra Leone
– – – – 2.2 113/133 2.4 126/159
Burundi
– – – – – – 2.3 130/159
Campuchia
– – – – – – 2.3 130/159
Cộng hòa Congo
– – – – 2.2 113/133 2.3 130/159
Gruzia
– – 2.4 85/102 1.8 124/133 2.3 130/159
Kyrgyzstan
– – – – 2.1 118/133 2.3 130/159
Papua New Guinea
– – – – 2.1 118/133 2.3 130/159
Venezuela
2.8 69/91 2.5 81/102 2.4 100/133 2.3 130/159
Azerbaijan
2.0 84/91 2.0 95/102 1.8 124/133 2.2 137/159
Cameroon
2.0 84/91 2.2 89/102 1.8 124/133 2.2 137/159
Ethiopia
– – 3.5 59/102 2.5 92/133 2.2 137/159
Indonesia
1.9 88/91 1.9 96/102 1.9 122/133 2.2 137/159
Iraq
– – – – 2.2 113/133 2.2 137/159
Liberia
– – – – – – 2.2 137/159
Uzbekistan
2.7 71/91 2.9 68/102 2.4 100/133 2.2 137/159
Cộng hòa Dân chủ Congo
– – – – – – 2.1 144/159
Kenya
2.0 84/91 1.9 96/102 1.9 122/133 2.1 144/159
Pakistan
2.3 79/91 2.6 77/102 2.5 92/133 2.1 144/159
Paraguay
– – 1.7 98/102 1.6 129/133 2.1 144/159
Somalia
– – – – – – 2.1 144/159
Sudan
– – – – 2.3 106/133 2.1 144/159
Tajikistan
– – – – 1.8 124/133 2.1 144/159
Angola
– – 1.7 98/102 1.8 124/133 2.0 151/159
Côte d’Ivoire
– – – – 2.1 118/133 1.9 152/159
Guinea Xích Đạo
– – – – – – 1.9 152/159
Nigeria
1.0 90/91 1.6 101/102 1.4 132/133 1.9 152/159
Haiti
– – 2.2 89/102 1.5 131/133 1.8 155/159
Myanma
– – – – 1.6 129/133 1.8 155/159
Turkmenistan
– – – – – – 1.8 155/159
Bangladesh
0.4 91/91 1.2 102/102 1.3 133/133 1.7 158/159
Tchad
– – – – – – 1.7 158/159
I.9.i Trừng phạt
Tham nhũng là một tội lỗi gây hại cho quốc gia và là một trong các nguyên nhân gây ra nạn đói nghèo cho người dân nhưng nó được hiểu khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, tuỳ theo quan điểm của giai cấp cầm quyền cũng như ý thức quyền lợi của công dân mà có các biện pháp trừng phạt khác nhau trong lịch sử và hình phạt ngày càng khoan dung hơn:[1]
• Ở thành Athena trong thời Hy Lạp cổ đại, các quan chức tham nhũng sẽ bị tước quyền công dân và quyền tham gia vào các tổ chức chính trị của thành bang vì theo luật, việc nhận hối lộ đáng phải chịu sự sự ô nhục và ruồng bỏ mà bị tước quyền công dân cũng như việc bị huỷ bỏ sinh mạng chính trị là hình phạt ô nhục đối với dân Hy Lạp cổ đại. Cũng có khi họ bị tử hình.
• Ở Byzantium vào thế kỉ thứ 11, các quan chức tham nhũng thường bị làm cho mù mắt và bị thiến. Bên cạnh việc chịu đòn và bị làm cho mù mắt, những kẻ nhận hối lộ thường bị đày ải, còn tài sản của họ thì bị tịch thu sung công. Hình phạt thiến không phải do pháp luật quy định mà là kết quả của việc xúc phạm và sỉ nhục công chúng.
• Cộng hòa La Mã áp dụng hình phạt xử tử đối với những quan tòa nhận hối lộ theo bộ luật hợp pháp đầu tiên của nước cộng hòa Twelve Tables.
• Ở Hoa Kỳ thời mới thành lập người nhận hối lộ phải đi tù hoặc nộp phạt.
• Ở Việt Nam người nhận hối lộ sẽ được giảm nhẹ tội nếu nộp lại tiền hối lộ, trường hợp do người ngoài xã hội lôi kéo, chủ mưu làm tha hóa cán bộ thì người ngoài xã hội chịu hình phạt nặng hơn như tử hình còn cán bộ nói chung xử nhẹ và khoanh gọn vì sợ bị mất cán bộ. Về sau do tham nhũng ngày càng tăng cũng như dư luận xã hội một số cán bộ tham nhũng cũng đã bị trừng phạt xử tù cho dù đã có thiện chí trả lại tài sản có do phạm tội. Và các vụ tham nhũng lớn thường mang tính chính trị từ sự thanh trừng đấu đá giữa các phe nhóm trong đảng!
I.9.j Xem thêm
• Tham nhũng tại Việt Nam
• Chống tham nhũng ở Singapore
I.9.k Chú thích
1. ^ Hối lộ và xảo trá – Trừng phạt và ô danh 14:06′ 19/07/2007 (GMT+7)
I.9.l Liên kết ngoài
Tiếng Anh
• Hiệp định Chống tham nhũng của Liên hiệp quốc tại Law-Ref.org
• Transparency International
• Tool to analyze anti-corruption and institutional reform
Tiếng Việt
• Chuyên trang chống tham nhũng ở Vietnam Net
• Đóng góp cho Luật chống tham nhũng
• Chống tham nhũng bắt đầu từ đâu?
• Dự thảo luật phòng chống tham nhũng
• Tham nhũng: Chống thế nào cho hiệu quả?
• 6 nhóm giải pháp chống tham nhũng
• Chống tham nhũng không có lời giải?
• Tham nhũng giúp bảo vệ quyền lực
• Chống tham nhũng-chống tha hóa quyền lực phải bằng pháp quyền
• Chống Tham Nhũng Thông Qua Quản Trị Quốc Gia Theo Nguyên Tắc Dân Chủ
• Chuyển đổi văn hóa tham nhũng
• Tình trạng tham nhũng đáng quan ngại tại Việt Nam
• Tham nhũng đang trở thành “chuyện thường ngày” Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện.
• Cổng Thông Tin Phòng Chống Tham Nhũng Cổng thông tin chính thức Chống Tham Nhũng của chính phủ Việt Nam
• Chống tham nhũng – cuộc chiến “liên thời đại”
Công bố xếp hạng tham nhũng:
• Công bố xếp hạng tham nhũng thế giới 2007
______________________
I.10 Chống tham nhũng ở Singapore
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Singapore có Cơ quan điều tra tham nhũng (CPIB) tách khỏi các cơ quan khác, trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có quyền độc lập điều tra và ngăn chặn tham nhũng. Chính điều này sẽ giúp cho cơ quan không bị chi phối trong hoạt động điều tra.
Chức năng và nhiệm vụ của CPIB là tiếp nhận và điều tra các tố giác về tham nhũng trong các cơ quan nhà nước và tư nhân (lĩnh vực công và tư nhân); điều tra và làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp trong các tổ chức của Nhà nước; ngăn chặn và phòng ngừa tệ nạn tham nhũng bằng cách điều tra, xem xét quá trình và phương thức hoạt động trong các cơ quan nhà nước nhằm hạn chế đến mức tối đa các điều kiện để tham nhũng nảy sinh.
CPIB hiện có 75 nhân viên, trong đó có 49 nhân viên điều tra (CPI officers) và 26 nhân viên phục vụ. Trong số các nhân viên điều tra, có cả Chủ tịch và 2 Phó chủ tịch CPIB, 5 trợ lý Chủ tịch và 41 nhân viên điều tra chuyên nghiệp được sắp xếp theo các cấp bậc khác nhau. Những người không làm nhiệm vụ điều tra gồm có 4 nhân viên tiếp nhận và xử lý thông tin, 22 nhân viên văn phòng.
Bộ phận nghiệp vụ là bộ phận quan trọng nhất, tập trung số lượng lớn nhân viên có trình độ cao. Bộ phận này thực thi nhiệm vụ chủ yếu trong đấu tranh chống tham nhũng và tiến trình điều tra các hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội tham nhũng theo luật định. Bộ phận nghiệp vụ được chia thành 4 đơn vị, mỗi đơn vị đảm trách điều tra một số loại vụ việc, một số loại đối tượng nhất định. Trong đó có đơn vị gọi tắt là SIT – đây là đơn vị được giao điều tra những nhân vật quan trọng (có chức, có quyền và có địa vị xã hội) và các vụ việc có tính chất phức tạp.
Bộ phận trinh sát nghiệp vụ có nhiệm vụ thu thập và xử lý các thông tin về tham nhũng, xác minh tính chính xác của những thông tin đã được cung cấp, nghiên cứu nhằm xác nhận và cung cấp các yêu cầu cần thiết đối với điều tra nghiệp vụ.
Bộ phận hành chính – nghiệp vụ chịu trách nhiệm về vấn đề hành chính, nhân sự, tổ chức của cơ quan, lập kế hoạch chiến lược cho cơ quan điều tra chống tham nhũng. Ngoài ra, bộ phận này còn có chức năng lập báo cáo cho Chính phủ và cung cấp thông tin cần thiết khác cho các cơ quan trung ương có yêu cầu.
Trong bộ phận này còn có một đơn vị với chức năng ngăn chặn và thẩm định, có nhiệm vụ xem xét, đánh giá cách thức hoạt động của các cơ quan chính phủ có khuynh hướng tham nhũng để đưa ra những nhận xét về những yếu kém, sơ hở trong quản lý điều hành làm nảy sinh tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác, từ đó kiến nghị các biện pháp khắc phục và phòng ngừa một cách có hiệu quả.
Thành viên của CPIB thường là những nhân viên cảnh sát chuyên về lĩnh vực điều tra tham nhũng nên họ có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động điều tra, nghiên cứu, khác với thành viên của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam – gồm những cán bộ cao cấp trong hệ thống chính trị. Nhiệm vụ chính của các thành viên Ban chỉ đạo không phải là chuyên về việc điều tra tham nhũng mà là công việc ở những cơ quan, ban ngành mà họ đang trực tiếp phụ trách. Từ đó dẫn đến một hệ quả là những thành viên này rất am hiểu lĩnh vực mà họ đang hoạt động, nhưng đối với công việc chống tham nhũng thì đó là một nhiệm vụ khá mới mẻ mà chưa chắc họ có thể hoàn thành tốt công việc.
Bên cạnh đó, các thành viên CPIB hoạt động chuyên trách nên dành toàn bộ thời gian và công sức cho công việc. CPIB còn có Ban tiếp nhận thông tin hoạt động liên tục. Những người có thông tin về tham nhũng có thể gởi đơn hoặc gọi điện cho cơ quan CPIB hoặc nhân viên cơ quan này đang thi hành công vụ, hoặc cũng có thể gọi điện cho bộ phận trực ban 24/24 giờ theo một số máy cố định để cung cấp thông tin hoặc phản ánh các vấn đề liên quan đến tham nhũng. Cơ quan điều tra tham nhũng cũng sẵn sàng tiếp nhận các tố cáo về tham nhũng bằng văn bản hoặc các hình thức thông tin khác. Vì thế, CPIB luôn tiếp nhận những thông tin phản ánh một cách nhanh nhạy và đầy đủ, không bỏ sót bất kỳ một tố cáo nào. Điều này sẽ là tiền đề cho những hoạt động điều tra về sau.
Liên kết ngoài
• Cơ quan phòng chống Tham Nhũng Singapore
• Cơ quan Đạo đức Chính phủ Mỹ
Nguồn từ:
“http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%91ng_tham_nh%C5%A9ng_%E1%BB%9F_Singapore”
_________________________________________
I.11 Cơ quan Đạo đức Chính phủ Mỹ
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cơ quan Đạo đức Chính phủ Mỹ (US Office Of Government Ethics, OGE) là một cơ quan độc lập trong bộ máy Chính phủ Mỹ nhưng lại lập thành tích nổi bật trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước này. OGE được thành lập năm 1989 theo cải cách pháp luật (“Luật Đạo đức Chính quyền Mỹ năm 1978”), trên cơ sở tách ra từ Văn phòng Chính phủ Mỹ về quản lý nhân sự.
OGE tọa lạc tại số nhà 1201 đại lộ New York vùng tây bắc thủ đô Washington. Giám đốc OGE là ông Robert I. Cusick.
Mục lục
• I.11.1 Hoạt động của OGE
o I.11.1.a Vai trò của OGE
o I.11.1.b Vị trí của OGE
o I.11.1.c Hoạt động của OGE
• I.11.2 Tham khảo
• I.11.3 Liên kết ngoài
I.11.1 Hoạt động của OGE
I.11.1.a Vai trò của OGE
• Soạn thảo Quy phạm hành vi đạo đức của nhân viên làm thuê trong các cơ quan hành chính;
• Xét duyệt các quy tắc phụ về hành vi đạo đức do các ban ngành hành chính đặt ra;
• Giám sát tình hình thi hành khai báo tài sản công khai và bí mật của các quan chức chính quyền;
• Thẩm xét lý lịch những quan chức được Tổng thống bổ nhiệm (cuối cùng phải được Quốc hội phê duyệt) xem họ có va chạm lợi ích kinh tế (với chính quyền) hay không.
I.11.1.b Vị trí của OGE
Giám đốc OGE do Tổng thống bổ nhiệm, sau khi có sự phê chuẩn của Thượng nghị viện Hoa Kỳ; Giám đốc OGE có nhiệm kỳ 5 năm, không cùng nhiệm kỳ với Tổng thống. Cho tới nay chưa một Giám đốc nào của OGE bị Tổng thống miễn chức. Về cấp bậc, OGE thấp hơn Bộ nhưng giám đốc OGE ngang cấp với Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang FBI (thuộc Bộ Tư pháp) và Chủ tịch Ủy ban Thương mại Liên bang. Giám đốc OGE chịu trách nhiệm trước Tổng thống; nếu Quốc hội không đồng ý thì Tổng thống không có quyền bãi miễn.
Toàn bộ OGE chỉ có 70 nhân viên, trong đó có 15 luật sư; ngân sách hàng năm là 12 triệu USD. Chính phủ Mỹ có rất nhiều cơ quan lớn. Cơ quan lớn thứ hai trong Chính phủ Liên bang là Bộ Cựu chiến binh (Department of Veterans Affairs) có 250 nghìn nhân viên.
Các bộ ngành trong Chính phủ đều có Văn phòng Đạo đức công chức, Giám đốc Văn phòng đó do bộ trưởng bổ nhiệm. OGE dùng phương thức thẩm duyệt định kỳ để giám sát sự vận hành của các chương trình đạo đức của các bộ ngành. Theo cơ chế tam quyền phân lập, OGE chỉ có quyền quản lý các cơ quan hành chính. Quốc hội và Tòa Tối cao có riêng cơ quan quản lý đạo đức của họ. Các bang và phần nhiều các đô thị đều có cơ quan tương tự, không chịu sự quản lý của OGE.
OGE có cấp bậc không cao, số nhân viên không nhiều, cũng không quản lý Quốc hội, Tòa Tối cao, chính quyền các bang và chính quyền các cấp, nhưng OGE có quyền lực thực tế rất lớn. Theo thống kê, số công chức Chính phủ Liên bang do OGE quản lý là 3,6 triệu người, kể cả Tổng thống, Phó Tổng thống, các bộ trưởng.
I.11.1.c Hoạt động của OGE
Cứ 4 năm một lần, OGE cử cán bộ thẩm tra đến các cơ quan Chính phủ tiến hành kiểm tra tình hình thi hành quy phạm đạo đức. OGE có nhiều cán bộ thẩm tra, mỗi người phụ trách 3-4 cơ quan chính phủ. Thẩm tra xong, họ gửi báo cáo thẩm tra tới Ủy ban Đạo đức của đơn vị sở tại. Nếu phát hiện vấn đề gì trong thẩm tra thì Giám đốc OGE có quyền ra lệnh cho đơn vị đó sửa chữa khuyết điểm trong một thời hạn nhất định, và trong ngày phải báo cáo tình hình sửa chữa. Trong vòng 6 tháng sau khi gửi báo cáo thẩm tra, OGE phải tiến hành tái thẩm tra tình hình chỉnh sửa của đơn vị đó. Nếu đơn vị nào có vấn đề gì nghiêm trọng về đạo đức thì OGE có thể tiến hành thẩm tra bất cứ lúc nào, không cần chờ 4 năm một lần. 60 ngày phải báo cáo tình hình sửa chữa. Trong vòng 6 tháng sau khi gửi báo cáo thẩm tra, OGE phải tiến hành tái thẩm tra tình hình chỉnh sửa của đơn vị đó. Nếu đơn vị nào có vấn đề gì nghiêm trọng về đạo đức thì OGE có thể tiến hành thẩm tra bất cứ lúc nào, không cần chờ 4 năm một lần.
Ngoài Văn phòng Đạo đức ra, các bộ còn có Văn phòng Chánh Thanh tra, phụ trách xử lý các vụ vi phạm trong bộ. Nếu phát hiện quan chức nào phạm luật, OGE có quyền thông báo cho Chánh Thanh tra của đơn vị có quan chức đó và yêu cầu điều tra. Nếu yêu cầu này bị từ chối thì OGE có thể báo cáo thẳng lên Nhà Trắng.
Trường hợp vấn đề nghiêm trọng liên quan tới phạm tội hình sự thì OGE sẽ chuyển hồ sơ tới Vụ Liêm khiết công cộng thuộc Cục Hình sự Bộ Tư pháp hoặc FBI để họ điều tra và khởi tố.
Là một cơ quan phòng chống tham nhũng, OGE còn có chức năng giáo dục và đào tạo. Thí dụ các viên chức mới tuyển dụng dù ở cấp bậc cao thấp thế nào đều phải tiếp thu đào tạo huấn luyện; cương vị khác nhau thì thời gian đào tạo khác nhau, nhưng ít nhất không được dưới một giờ. Những quan chức cần khai báo tài sản công khai hoặc bí mật hàng năm còn phải tiếp thu đào tạo thêm ngoài quy định. Bình thường OGE còn tiến hành đào tạo trên mạng cho các công chức phổ thông. Ngoài ra hơn 1.200 quan chức cấp cao của Chính phủ còn phải tiếp thu đào tạo đối diện trực tiếp một thầy một trò.
Việc giáo dục đạo đức liêm chính trên mạng tiến hành mỗi năm ít nhất một lần, thông thường chủ yếu giáo dục về các chuẩn mực và quy tắc luật pháp hành vi đạo đức. Nói chung đều dùng cách trả lời trên mạng để kiểm tra kết quả học tập. Ai chưa tiếp thu sát hạch trên mạng thì sẽ tiếp thu phụ đạo một thầy một trò, đối diện trực tiếp, cho tới khi đạt yêu cầu sát hạch mới thôi. Để tăng cường hiệu quả đào tạo, sau mỗi điều văn luật pháp đạo đức đều có thí dụ vụ án điển hình được lựa chọn công phu, như vậy học viên hiểu sâu hơn điều văn đó. Cusick nói cứ cách 12 đến 18 tháng, OGE lại tổ chức một đại hội toàn quốc, hơn 600 người phụ trách công tác đạo đức trên cả nước về dự.
Có thể thấy công việc chủ yếu của OGE là giám sát hướng dẫn, đào tạo và thẩm tra. Nó không can thiệp quá nhiều vào vụ án cụ thể, song cũng hợp tác với các ban ngành khác trong việc phạt các quan chức có vi phạm nặng.
Thí dụ John Frederick là quan chức phụ trách các công trình xây dựng của Hải quân Mỹ, có nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành hợp đồng một dự án xây dựng của chính phủ do công ty DMI thầu. Vị quan chức này đã nhiều lần ngỏ ý với lãnh đạo DMI muốn kiếm một ít bổng lộc. Thế là DMI bèn chia một phần công trình mình thầu cho công ty do Frederick lập ra. Frederick không báo cáo việc này lên trên. Trong vòng chưa đầy một năm, công ty của ông kiếm được thu nhập 26 nghìn USD, Frederick trích một phần thu nhập này “lại quả” cho lãnh đạo DMI. Như vậy John Frederick đã vị phạm quy định đạo đức cấm nhân viên nhà nước lợi dụng chức quyền để giúp cho cá nhân hoặc tổ chức khác giành được lợi ích kinh tế. Kết quả Frederick bị kỷ luật 6 năm theo dõi, 6 tháng giam lỏng quản chế, lao động phục vụ cộng đồng 100 giờ và nộp phạt 12.000 USD. [1]
I.11.2. Tham khảo
1. ^ Đường Dũng (Phóng viên thường trú tại Mỹ của people.com.cn) – Nguyễn Hải Hoành lược dịch, “Phỏng vấn cơ quan chống tham nhũng của Chính phủ Mỹ”, Tạp chí Tia Sáng, 17/06/2010. Truy cập 31/10/2010. Bản chính được lưu trữ ngày 17/06/2010. (Viết bằng tiếng Việt.) “people.com.cn”
I.11.3 Liên kết ngoài
en: Cơ quan Đạo đức Chính Phủ Mỹ
Hết
PHẦN HAI: Phương cách giải quyết
I. Mang tính toàn cầu
***