VENISE

Được dựng lên trên hơn 100 hòn đảo đầm lầy, được nối với nhau bởi gần 400 chiếc cầu bắt qua 177 con kênh, mặc dầu vậy Venise chỉ chiếm 8 km2.Tuy vậy một khi đã đi vào trong lòng đô thị, người ta có cảm tưởng như các khu phố cứ tiếp nối nhau một cách vô tận. Các con kênh chằng chịt, các góc phố đặc biệt, các ngõ cụt, các sân nhà bí mật.

Với 95 nhà thờ và 20 viện bảo tàng, tất cả đầy các tranh vẽ và các hình điêu khắc, Venise là một trong những trung tâm nghệ thuật quan trọng nhất của thế giới. Nhưng chính đô thị cũng là một tác phẩm nghệ thuật cũng như tất cả các tác phẩm nghệ thuật mà nó chứa. Mặc dầu hàng triệu khách du lịch viếng thăm thành phố mỗi năm, nhưng người dân Venise vẫn say mê các tác phẩm nghệ thuật này cũng như mọi nhà viết sử về nghệ thuật hay các đôi uyên ương đến để hưởng tuần trăng mật. Ngoài những vẻ quyến rủ nên thơ của thành phố, mọi xó xỉnh chứa đầy cảm xúc cá nhân, kỹ niệm về một người bạn, về một cuộc giao tranh, về một nụ hôn.

Người dân Venise, ý thức vẻ đẹp làm sững sờ của đô thị, thú nhận thường khám phá những chi tiết mà họ đã không bao giờ để ý đến trước đây. Tuy nhiên, sự cảm nhận vẻ quyến rủ của Venise của họ được làm phong phú thêm bởi những yếu tố mà khách du lịch quá gắn bó, mà một họa đồ hay một sách hướng dẫn không nhận thấy : đó là cái bầu không khí, cái chu kỳ của acqua alta (Venise bị ngập lụt và được gọi là acqua alta, nghĩa là nước cao), cuộc sống trên các hòn đảo của cái phá (lagune), sự xuất hiện vào mùa xuân của các con mực nang (seiche, seppie), hay sự có mặt của các chú vịt nhỏ khi mùa thu đến. Dân địa phương cũng tận hưởng nhịp điệu và chất lượng của cuộc sống Venise, những cuộc gặp gỡ đột ngột, những bước chân hững hờ, trong sự ấm cúng của cái đô thị được đặt trên nước này. Một quá khứ huy hoàng giải thích tại sao họ có một niềm kiêu hãnh nào đó, thậm chí một cảm giác trịch thượng, đặc trưng của những dân của các thành phố chứa đầy lịch sử. Lòng tự hào của họ được căng phồng lên bởi tất cả những gì mà Sérénissime đã dần dần trở nên : một nửa là viện bảo tàng ở ngoài trời (musée à l’air libre), một nửa là công viên chủ đề (parc à thème), một thành phố nhỏ đặc sắc và là một trong những nơi thường được vãng lai nhất của quả địa cầu.
Được mô tả bởi văn sĩ người Pháp Philippe de Commynes ở thế kỷ XV như là “ con đường đẹp nhất thế giới, với những ngôi nhà đẹp nhất thế giới ”. Mặc dầu ngày nay Grand Canal hơi đổ nát nhưng con kênh đào lớn này vẫn còn sánh với các đại lộ lớn nhất của thế giới.

Dùng vaporetti (tàu taxi) là phương tiện duy nhất để xem các dinh thự dọc theo kinh đào, gồm hơn 100 palazzi (palais), có từ thế kỷ XII đến XVIII.

Trải dài trên 4 km, các cung điện và các nhà thờ trang trí đôi bờ của Canale Grande là kết quả của sự đô thị hóa bắt đầu ngay từ thế kỷ thứ XII, khi các gia đình có thế lực của Cộng Hòa Sérénissime chọn các bờ kênh để xây dựng những dinh thự to lớn. Các kiến trúc sư Lombardo, Codussi, Sansovino và Longhena đã góp phần tạo cho Canale Grande cái vẻ mặt mà chúng ta biết ngày nay, như thế lưu truyền hậu thế style kiến trúc đặc biệt được gọi là gothique vénétien, được làm phong phú thêm bởi các ảnh hưởng byzantin. Do đó tham quan Venise tuyệt đối phải bắt đầu bằng một cuộc dạo chơi bằng aporetto trên Grande Canale.

Canal Grande làm mê hồn người dân Venise, họ vừa tỏ lòng tôn kính con kênh lớn này vì đó là biểu tượng của sự hùng vĩ, vừa dành lòng quyến luyến con đại lộ (grand-rue) của thành phố chôn nhau cắt rốn của họ.

Canale Grande là một trong 3 con kênh lớn của Venise, hai con kênh kia là Canale di Cannaregio ở phía đông bắc và Canale della Giudecca ở phía nam. Thành phố cổ Venise được chia thành 6 sestieri (quận) và các sestieri này lại được chia thành các quartier (phường). Các sestieri được cấu tạo bởi những con đường nhỏ rất hẹp, hẹp đến độ đôi khi không thể đi qua với hai người cùng cặp bước.

Cùng với Canale di Cannaregio (con kênh đào lớn thứ hai của Venise), Canal Grande là thủy lộ duy nhất đi vào bên trong Cité des Doges xứng danh được gọi là Canal ; tất cả những thủy lộ khác chỉ được gọi là Rio. Canale Grande được 3 chiếc cầu bắt qua : PONTE DI RIALTO , Ponte degli Scalzi và Ponte dell’Accademia. Trong cái bối cảnh vô song này, ngày xưa đã diễn ra các đám rước tráng lệ xa hoa và những cuộc đua thuyền dành cho các vua chúa và các sứ thần của những đất nước hùng mạnh nhất. Canal Grande ngày nay vẫn là đại lộ trên đó mỗi ngày Venise đi lo toan công việc. Cuộc rượt đuổi của các thuyền máy, của các vaporetti (bateau-bus, con tàu taxi) và các con thuyền, làm sứt mẻ phần nào hình ảnh lãng mạng của Venise. Nhưng Le Grand Canal vẫn giữ tất cả các nét quyến rủ của nó.

” Đại lộ dưới nước ” (artère aquatique) hùng vĩ của Venise, Canal Grande chỉ là một trong 177 kênh đào chạy xuyên qua đô thị, nhưng với 4 km chiều dài, 30 đến 70 m chiều rộng và 4,50 m chiều sâu, con kênh đào này xứng đáng được gọi tên như thế. Được bọc hai bên bờ bởi những cung điện nguy nga, Canal Grande uốn khúc xuyên qua thành phố. Trên Grand Canal, chạy ngang dọc là các gondoles đầy màu sắc, các con phà, các vaporetti (bateaux-taxis), các tàu tuần tra cảnh sát (vedettes de police) phóng nhanh tốc độ hoặc các con thuyền chất đầy sản phẩm tươi. Năm 1818 khi nước kênh đào lúc đó còn sạch hơn bây giờ, Byron đã bơi theo kênh từ Lido đến San Marco mỗi ngày.
Những gia đình giàu có nhất buộc phải có một cung điện (palazzo, palais) trên Grand Canal. Thật vậy, một địa điểm như vậy mang lại tất cả sự dễ dàng cho công việc thương mại. Palais vừa được dùng làm trụ sở xã hội, vừa là nhà ở. Rất nhanh chóng những người Venise đã hiểu tầm quan trọng của dáng vẻ bên ngoài của tòa nhà đối với khách hàng. Khoảng 100 palais dọc theo Grand Canal đã được xây dựng trong một thời kỳ 500 năm.

Như vậy, chúng ta tìm thấy lại lịch sử của đô thị nhờ những dinh thự thể hiện tất cả những style và các ảnh hưởng. Hầu hết các palais được xây bằng gạch. Vào thời kỳ đó, gạch là vật liệu ít đắc nhất, dễ làm và dễ vận chuyển nhất, và, nhất là nhẹ nhất.Thật vậy, sự xây dựng trên bộ cọc sàn nhà đòi hỏi sử dụng những vật liệu ít nặng nhất. Tất cả sự khéo léo tài tình của các kiến trúc sư Venise đã cho phép xây dựng các palais mà một vài vẫn còn đứng vững từ gần 700 năm nay.

Cầu Rialto đuợc dựng lên ở trung tâm lịch sử của Venise. Chính tại nơi này trước đây đã là nơi họp chợ trung tâm : lụa là và các đồ gia vị từ Đông Phương được mua và bán tại đây.Venise đã trở nên hùng mạnh là bởi vì thành phố giàu có, và các của cải của nó được tuôn vào đây, ở điểm hẹp nhất của Grand Canal, ở nơi có bờ kênh cao nhất : au Rialto.
Một trong những biểu tượng nổi bật nhất của Venise, cầu Rialto, cho đến thế kỷ thứ XIX là cầu duy nhất nối hai bờ của Grand Canal.Về sau thêm vào Pont de Scalzi (ở khoảng nhà gare), và Pont de l’Académie.

Việc xây dựng chiếc cầu nổi tiếng nhất trong các chiếc cầu của Venise ở điểm hẹp nhất của Grand Canal, đã gây nên một cuộc đấu tranh kịch liệt giữa các nhà kiến trúc sư lỗi lạc nhất của thế kỷ XVI : Michel-Ange, Sansovino và Palladio. Nhưng chính Antonio de Ponte đã thắng kỳ thi tuyển chọn với dự án đồ sộ của ông, được thực hiện giữa năm 1588 và 1591.
Được Shakespeare biến thành bất tử trong tác phẩm “Người lái buôn thành Venise” (Le Marchand de Venise), cầu này là một trong số những biểu tượng được biết nhiều nhất của Cité des Doges. Cầu này nằm ở chỗ hẹp nhất của Grand Canal và từ ngày xua đến ngày nay, cầu được dân Venise sử dụng để đi từ bờ bên này qua bờ bên kia của kênh đào.Vào thế kỷ thứ 13, chiếc cầu thô sơ này được thay thế bởi một pont-levis bằng gỗ.
MARCO POLO









Năm 1630, thượng viện (Sénat) nguyện sẽ dựng lên một nhà thờ cống hiến cho Đức Mẹ Đồng Trinh nếu trận dịch bệnh dịch hạch sẽ ngừng tàn phá thành phố (45.000 nạn nhân, hoặc 1/3 dân số). Một khi tai họa biến mất, nhà cầm quyền phát động một kỳ thi tuyển để chỉ định kiến trúc sư có khả năng xây dựng một công trình hoành tráng mà không bắt ngân sách thành phố phải đài thọ nhiều. Cuối cùng Baldassare Longhena (1598-1682) được chọn lựa để thực hiện công trình. Nhà thờ được đặt tên là Santa Maria Della Salute , chữ salute đồng thời có nghĩa là “ sức khỏe ” và “ cứu rổi ” .
THOMAS MANN
Cuốn tiểu thuyết “ Cái chết ở thành Venise ” (La Mort à Venise) (1912) được viết ở Venise, bởi Thomas Mann, người được giải thưởng Nobel về văn học (1875-1955). Lido được làm khung cảnh cho câu chuyện.Trong sách, một văn sĩ già, rất cần sự nghỉ ngơi, viếng thăm đô thị và chết vì một trận dịch bệnh dịch tả, sau một mối tình đầy ám ảnh.
SHAKESPEARE
Mặc dầu ông không bao giờ viếng thăm Ý, nói gì là Venise, Shakespeare (1564-1616) đã sử dụng các câu chuyện của các du khách để thiết lập bối cảnh cho câu chuyện “ Người lái buôn thành Venise ” (Marchand de Venise) và Othello, trình bày một đô thị sầm uất trong đó các âm mưu được chuẩn bị ngầm. Câu chuyện Romeo và Juliette thì có bối cảnh xảy ra ở Vérone.
ALFRED DE MUSSET
Là tác giả của Venise và của Portia, Alfred De Musset (1810- 1857) đã đến Venise cùng với Georges Sand. Họ cư ngụ ở khách sạn Danieli trên Quai des Esclavons, đối diện với Grand Canal.Ngã bệnh, Musset được điều trị bởi một thầy thuốc trẻ người Ý.Tin là đoán được mối tình dan díu giữa viên thầy thuốc này với Georges Sand, ông đã giã từ thành phố Venise.
JOHANN WOLFGANG VON GOETHE
Theo truyền thuyết, người bậc thầy văn học người Đức (1749-1832), bị lôi cuốn bởi miền nam của các dãy núi Alpes, lần đầu tiên đã thấy biển từ Campanile de Venise. Cuộc tham quan đầu tiên này của ông, đối với ông, là một nguồn đổi mới, như tác phẩm Voyage en Italie (1786-1788) chứng tỏ điều đó.
LORD BYRON
Trong thời gian lưu trú 3 năm trong đô thị, nhà thơ lãng mạn người Anh (1788-1824) trở thành một nhân vật huyền thoại, vì lẽ ngoài những chuyện khác ra, ông có đàn khỉ và cáo, và những thành tích bơi trên Grand Canal. Trong số những tác phẩm của ông có nguồn cảm hứng từ Venise, chúng ta có thể kể Deux Foscari và tác phẩm tự tiểu sử Le Pèlerinage de Childe .
HENRY JAMES
Tiểu thuyết gia Hoa Kỳ (1843-1916) đã thường nói đến tính ngẫu nhiên của Tân thế giới và sự giả tạo của Châu Âu. Giữa năm 1872 và 1909, ông đã viết Heures italiennes, một “ nhật ký hành trình ”, chứa nhiều bình luận về Venise.ERNEST HEMINWAY
Người được giải thưởng Nobel về văn học (1899-1961) đã làm quen với Ý khi làm người lái xe cứu thương thiện nguyện trong Đệ nhất thế chiến (kinh nghiệm được kể trong Giã Từ Vũ Khí). Ông đã bị thương ở Trévise.
CHARLES DICKENS
Nhà viết tiểu thuyết lớn người Anh (1812-1870), có lưu trú một thời gian ngắn ở Venise lúc ông đi tham quan nước Ý. Đô thị đã gợi cho ông một chuỗi các giấc mơ trong cuốn sách Images d’Italie (1846).
Từ hơn 1000 năm nay, gondole là con thuyền tiêu biểu của Venise. Gondole được sử dụng chủ yếu để vận chuyển người, như là phương tiện di chuyển giữa các điểm khác nhau của lagune và thành phố (khi đó có nhiều kênh đào và ít cầu hơn ngày nay). Người ta kể rằng người Venise có dáng vẻ quý phái và dáng đi hững hờ là do họ đã phải đi mua sắm bằng gondole. Thật vậy để chèo lái giỏi một gondole, động tác phải ý tứ, chểnh mãn. Ngày nay, không ai phải di chuyển bằng chèo lái và gondole được sử dụng chủ yếu cho khách du lịch. Người Venise tiếp tục đi trên các con thuyền kỳ cục này, không phải để di chuyển mà để thư giãn nghỉ ngơi, để bắt các cơ bắp làm việc, nhưng có lẽ là để giữ cái phép xử thế và cái truyền thống đẹp đẻ của động tác này.

Tư thế kỷ XI, gondole, tiêu biểu nhất của Venise, đi trên mặt nước của các kênh đào của đô thị. Tuy nhiên gondole đã chỉ trở thành một con thuyền thanh lịch vào cuối những năm 1.400. Ngày nay có 405 gondole phục vụ, trong khi vào cuối thế kỷ XIX có tất cả 10.000 chiếc. Vì số lượng các cầu không nhiều và ở cách xa nhau, nên các gondoles đi đi lại lại thường xuyên từ đảo này qua đảo khác, một tập quán lưu truyền ngày nay dọc theo Grand Canal. Vài công trường tiếp tục chế tạo các gondoles và đảm bảo việc sửa chữa. Đó là một công việc tốn kém và phức tạp ; 8 loại gỗ khác nhau cần thiết để lắp ráp 280 mảnh của con thuyền không đối xứng này, dài 11 m và rộng 1,42 m, tổn phí 25.000 Euro. Một gondole cân nặng 350 kg. Lúc đầu có màu sáng chói, sau đó các gondoles trở thành màu đen sau một đạo luật của thượng viện để cho các chủ nhân không phô trương sự giàu có của họ. Gondole có màu đen từ năm 1633, thời Republica Serenissima đưa ra đạo luật cấm các gondole có màu sắc hay phai màu nhằm kềm chế cuộc chạy đua nhằm phô trương sự xa hoa mà giới quý tộc theo đuổi.Dài 11m, gondole được che chở bởi một màu nhuộm đen không thấm nước, được phết thành 7 lớp. Đáy thuyền bằng phẳng, hình dáng kéo dài và hơi bất đối xứng, điều này cho phép người chèo gondole (gondolier) điều chỉnh hướng đi, đồng thời di chuyển với một mái chèo duy nhất. Người lái thuyền gondole điều khiển con thuyền theo kiểu Venise ( “ à la vénitienne ” ), nghĩa là đứng lúc chèo. Anh ta biết tất cả các con kênh của Venise, ngay cả những nơi bí mật nhất, và người ta to nhỏ rằng, khi anh ta bước xuống từ gondole, những bàn chân vịt của anh ta cho phép anh ta bước trên nước.

Đó là phương tiện đơn giản nhất và ít tốn kém nhất để di chuyển trên nước. Người ta nói “ le vaporetto ” để chỉ chiếc tàu công cộng nói chung. Người Venise đôi khi nói “ vaporino”, thêm vào danh từ thường dùng một vẻ âu yếm.

VAPORETTO là một con tàu lớn tiến chậm trên mặt nước và do đó cho phép du khách tận hưởng phong cảnh ở hai bên bờ (nhất là trên Grand Canal ). Có nhiều chỗ trên cầu tàu và ở phía trước, rất được du khách thèm muốn lúc trời đẹp, nhưng buộc phải ngồi để không trở ngại cho người lái.
ĐẠI LINH