TỪ BI VÀ NHẪN NHỤC
TỪ BI VÀ NHẪN NHỤC
Lê Quang Chưởng
Nhẫn một chút, sóng yên gió lặng.
Luì một buớc, biển rộng trời cao.
Thật là một lời khuyên chí lí trong việc xử thế. Trong cuộc sống ít hay nhiều ai cũng khổ. Chúng ta lúc nào cũng phải đương đầu với những điều bất bình, với những nghịch cảnh trái tai gai mắt, những nguời ăn nguợc nói ngạo, điêu ngoa xảo quyệt. Vì thế muốn có cuộc sống an vui, hạnh phúc chúng ta phải biết nhẫn nhục khi gặp những điều bất như ý. Những câu châm ngôn như : Một câu nhịn, chín câu lành, Tránh voi chẳng xấu mặt nào, không ngoài mục đích khuyên chúng ta mọi việc ở đời phải nhẫn nhục để có sự an lạc, hạnh phúc trong cuộc sống. Nếu chúng ta không có tâm nhẫn nhục thì Tham, Sân, Si sẽ nỗi dậy, khiến cho Thân, Khẩu, Ý của chúng ta vọng động rồi tạo ra những ác nghiệp.
Chúng ta ai ai cũng biết chuyện Hàn Tín trong thời Hán Sở tranh hùng. Hàn Tín thuở còn hàn vi chưa đuợc ai biết đến tài năng của ông, nên phải mưu sinh vất vả. Nhưng đi đâu lúc nào ông cũng mang bên mình một thanh kiếm. Một hôm có tên bán thịt hung hăng chận ông lại ở giữa chợ và nói rằng “ Mày có tài cán gì mà lúc nào cũng đeo kiếm bên nguời như tuớng soái. Có giỏi thì đâm chết tao đi, bằng không thì chui qua duới trôn tao. “ Mọi nguời trong chợ đổ xô đến xem. Hàn Tín suy nghĩ một lát rồi lẳng lặng cúi xuống chui qua trôn tên bán thịt. Thế nhưng sau này ông là Tể tuớng của Luu Bang. Ông nhẫn nhục luồn trôn vì biết mình đang nuôi chí lớn chinh phục thiên hạ. Như ông Tô Đông Pha đời Tống nói :
“ Kẻ mà gọi là hào kiệt tất phải có tiết khí hơn nguời, Nhơn tình có chỗ không nhịn đuợc, nên kẻ thất phu gặp nhục thì tuốt kiếm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa gọi là dũng. Những bậc đại dũng thình lình gặp những chuyện phi thuờng cũng không kinh, vô cớ bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bảo lớn, lập chí cao vậy.”
Ở Hy Lạp có nhà hiền triết Socrate chẳng may có bà vợ khùng khùng điên điên, nói theo danh từ thời thuợng là có vấn đề nhưng ông đã chịu đựng tất cả những thói hư tật xấu của bà vợ ông. Thật đáng phục ! Một hôm ông đang đàm đạo với các môn sinh, bà vợ chửi rủa ông với những lời lẽ thô tục, nhưng ông vẫn điềm nhiên như không nghe thấy gì. Thấy ông không phản ứng gì, bà nổi cơn tam bành múc nuớc tạt vào nguời ông. Ông vẫn không có phản ứng gì, nói với các môn sinh là: “ Sau cơn sấm sét thì đến hồi mưa giông “. Có một lần ông Socrate mời các bạn ông đến chơi, ăn trái cây, bà vợ đùng đùng hất cả rổ trái cây ra sau vuờn. Các bạn ông tỏ vẻ giận dữ, ông mỉm cuời bảo: “ Chắc bà muốn chúng mình ra hè ăn cho mát “. Ông vẫn điềm nhiên tự tại, mụ vợ tức qúa lấy chổi quét tung trái cây lăn trên đất, những nguời bạn ông không chịu nổi định phản ứng lại, nhưng ông vẫn ung dung cuời nói : “ Này các bạn, nếu đang lúc ăn cơm một con gà mái nhảy xổ vào hất đổ thức ăn các bạn có giận không?”. Rồi ông thản nhiên đi lượm trái cây đem đi rửa và cùng bạn bè ăn.
Đó là sức mạnh của người trí. Nguời ta không hiểu tại sao ông có thể nhẫn những điều chắc chưa có ai có thể nhẫn đuợc. Một học giả phương tây cho rằng là do ông biết mỉm cười ngay khi nổi cơn giận dữ và hướng ý muốn tốt đẹp về người khác bằng cách suy luận theo chiều ngược lại. Các bạn nếu muốn trở thành nhà hiền triết hay vĩ nhân thì hãy tìm người bạn đời nào đó có vấn đề và hãy cố tập nhẫn nhục như ông Socrate đi.
Chuyện thầy Đường Tăng Huyền Trang với công cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu của nhân loại, thử hỏi trong lịch sử nhân loại có vị danh nhân thứ hai nào như ông không ? Việc nhân dân Trung hoa đã thần kỳ hoá việc đi thỉnh kinh của ông bằng cách truyền miệng cho nhau rồi sao chép lại thành bộ tiểu thuyết Tây Du Ký là một vinh dự lớn lao mà từ xưa đến nay chưa có ai nhận đuợc.
Trên đuờng hành hương đi thỉnh kinh ở đất Phật, ông đã vuợt qua biết bao nhiêu là sa mạc, núi non hiểm trở, rừng rậm hoang vu, tuởng đã nhiều lần bỏ mạng. Khi xuất hành Pháp sư Tuệ Uy có cho hai người theo ông nhưng sau đó một người sợ triều đình truy nả nên đòi về, còn người kia ốm yếu quá không sao chịu nổi gian lao, khổ cực trên đường đi nên ông cũng cho về luôn, thế là một mình ông cô độc trên đường đi thỉnh kinh.
Ông đã xa quê 16 năm, đi gần ba mươi ngàn cây số, qua 128 nước và đem về được :
– Một trăm rưởi xá lợi tử.
– Bảy tượng Phật gỗ quý cao từ hai thước tới ba thước rưởi.
– Và 657 bộ kinh.
Về nước mới đuợc một tháng, ông bắt đầu công việc dịch kinh đại quy mô và mãi miệt làm luôn mười chín năm cho tới khi chết.
Thật là một nhân vật kiệt xuất, trong cuốn Ý Chí Sắt Đá, ông Nguyễn Hiến Lê nhận xét về thầy Huyền Trang: “…Đọc xong tiểu sử của ông, ta mới thấy tấm gương của ông để lại cho ta soi không có một chút tì vết. Các vĩ nhân khác, trừ vài vị thánh, còn có thể có chỗ cho ta không phục, còn ông thì suốt đời thanh đạm, can đảm, cần cù, hiếu học, lễ độ, khiêm tốn, trong sạch và hy sinh.”
Trong “101 giai thoại thiền “ có truyện “ Mủi kiếm của Banzo”
Matajuro Yagyu là con của một nhà kiếm si nổi danh. Ông cha từ y vì cho rằng kiếm thuật của con mình xoàng qúa khó đạt đến chỗ tuyệt luân. Vì thế Matajuro đến núi Futara gặp nhà danh kiếm khác tên Banzo. Banzo cũng xác nhận lời phê phán của người cha là đúng và nói :“ ngươi muốn học kiếm thuật dưới sự chỉ dạy của ta nhưng ngươi không đáp ứng đủ yêu cầu ”. Người thanh niên van nài : “ Nhưng nếu tôi gắng sức làm việc, bao nhiêu năm tôi có thể trở thành thuật sư.”
“ Cả đời của ngươi ” Banzo trả lời
“ Tôi không thể chờ lâu như thế “ Matajuro giải thích “ Tôi sẽ chịu trải qua mọi khổ nhọc nếu ngài dạy cho tôi. Nếu tôi trở thành kẻ tôi đòi hết lòng theo ngài thì sẽ bao lâu?”.
“ Ồ có thể là 10 năm” Banzo dịu giọng.
“ Cha tôi sắp già, không mấy chốc tôi phải chăm sóc cho ông ” Matajuro tiếp tục “Nếu tôi hết sức làm lụng thì sẽ bao lâu đạt đến chỗ tuyệt luân”
“Ồ có thể 30 năm ” Banzo nói.
“ Sao lạ thế “ Matajuro hỏi “ Truớc tiên ngài bảo 10 năm, giờ thì 30 năm. Tôi sẽ chịu đựng mọi cực nhọc để đạt tinh thuật trong thời gian ngắn nhất là bao lâu.”
“ Vâng thì trong trường hợp đó ngươi sẽ phải ở với ta trong 70 năm. Một kẻ hấp tấp như ngươi khó mà học nghề nhanh đuợc.” Banzo bảo.
“ Tốt lắm “ nguời thanh niên tuyên bố, rốt ráo chàng hiểu rằng mình bị chỉ trích vì thiếu nhẫn nại. “ Tôi đồng ý.”
Matajuro đuợc dặn không bao giờ đuợc nói đến kiếm thuật, không bao giờ động đến kiếm. Y nấu cơm, rửa chén, trải giuờng, quét sân, dọn vườn, làm mọi thứ cho thầy mà không được nói đến kiếm thuật.
Ba năm trôi qua, y vẫn lao động cật lực. Nghĩ đến tương lai, y lại buồn lòng. Ngay cả chẳng hề được bắt đầu học một chút gì về môn kiếm thuật mà y thề hiến cả trọn đời.
Nhưng một ngày kia, Banzo đi lén ra sau lưng y và nện cho y một phát đau điếng với cây kiếm gỗ. Ngày hôm sau trong khi Matajuro đang nấu cơm, một lần nữa Banzo lại lao đến y bất thình lình.
Kể từ hôm ấy, ngày cũng như đêm Matajuro luôn cảnh giác đề phòng cú đấm bất ngờ, không giây phút nào mà ngưng nghĩ đến mủi kiếm của Banzo.
Y học rất nhanh làm cho sư phụ của y hài lòng mỉm cuời. Matajuro trở thành kiếm sĩ cừ khôi nhất trong nuớc.
Matajuro đã nhẫn nhịn chịu đựng sự khắt khe, thử thách của sư phụ vì nuôi chí lớn muốn trở thành kiếm sĩ cừ khôi nhất.
Cũng trong giai thoại thiền có truyện “ Thế À “ như sau :
Thiền sư Hakuin ở bên Nhật, được mọi nguời tán tụng là bậc đạo hạnh. Cạnh thiền thất có một cô gái xinh đẹp, con của ông bà chủ cửa hàng thực phẩm. Bỗng dưng một hôm bố mẹ cô khám phá ra cô đang có bầu. Bố mẹ tra hỏi cô, ai là nguời cha cái bào thai đó, cô không chịu khai. Sau nhiều lần hăm dọa, cật vấn cô bảo là thiền sư Hakuin.
Bố mẹ cô điên tiết lên đến gặp Hakuin và nói về việc ông là tác giả cái bào thai của con gái ông bà.
Ngài chăm chú lắng nghe rồi chỉ nói : “ Thế À “.
Khi đứa bé vừa chào đời. Bố mẹ cô gái đem đứa bé đến thiền thất nói với Hakuin : “ Con của ông đây giao lại cho ông. “
Ngài cũng chăm chú nghe và chỉ nói : “ Thế À. “ Rồi Ngài vui vẻ nhận đứa bé. Lúc bấy giờ danh dự của ngài đã bị tổn thương nghiêm trọng, nhưng ngài vẫn thản nhiên nhận nuôi đứa bé. Ngài tận tình chăm sóc và thuờng đến xóm làng xa xa xin sữa và các thứ cần thiết để nuôi đứa bé sơ sinh, vì ở gần thiền thất nguời ta khinh khi ngài.
Một năm sau, cô gái xinh đẹp kia không chịu đuợc lương tâm cắn rứt bèn thú nhận với bố mẹ rằng người cha thật của đứa bé là anh chàng trẻ tuổi làm công cho Bố mẹ cô.
Bố mẹ cô vội vã đến tạ lỗi thiền sư và mong ngài thứ tội về sự hồ đồ của họ và xin nhận lại đứa bé.
Thiền sư Hakuin cũng chăm chú nghe và cũng chỉ nói : “ Thế À. “ rồi trao lại đứa bé cho ông bà.
Thật là sự nhẫn nhục tuyệt vời !
Theo ngôn ngữ của phim bộ “quân tử trả thù muời năm không muộn“, đó là truờng hợp cái nhẫn của Câu Tiển vua nuớc Việt trong thời Đông Chu liệt quốc. Khi vua Ngô là Hạp Lư kéo quân sang đánh Câu Tiển vua nuớc Việt, bị thảm bại mà chết. Cháu là Phù Sai lên thay và thề trả mốî thù này. Sau khi mãn tang, Phù Sai cử binh theo đuờng thủy sang đánh nuớc Việt. Cuối cùng quân Việt bị đại bại, Câu Tiển bị vây bốn mặt ở Cổ thành. Lẽ ra Câu Tiển bị Phù Sai giết để trả thù cho cái chết của vua Hạp Lư, nhưng nhờ Văn Chủng hiến kế đem cống hiến mỹ nữ và lễ vật cho Phó tướng là Bá Hi để nhờ tâu với Phù Sai là nuớc Việt đã chịu dâng nuớc, làm tôi cho nuớc Ngô. Phù Sai nghe lời nịnh hót của Bá Hi liền tha cho Câu Tiển, chấp nhận lời giảng hòa. Thế là Câu Tiển và vợ sang làm tôi và thiếp cho vua nước Ngô, và dâng hết vàng ngoc châu báu, tài sản quốc gia nuớc Việt cho nước Ngô chỉ trừ giữ lại thái miếu để cúng tế hàng năm.
Câu Tiển nuôi chí lớn phục thù và được Phạm Lãi cố vấn, là chúa tể của một nuớc đã cam chịu làm tên giữ ngựa mà không hề oán hận. Nhân khi Phù Sai triệu Câu Tiển đến để giết đi theo lời đề nghị của tuớng Ngũ Viên, nhưng chờ mấy ngày vua Phù Sai bị bệnh không lâm triều đuợc. Phạm Lãi bốc quẻ biết là bệnh của Phù Sai sẽ thuyên giảm vào ngày kỷ tị và khỏi hẳn vào ngày nhâm thân. Nên khuyên Câu Tiển hãy chịu khó nếm phân của Phù Sai để chẩn đoán bệnh tình cho Phù Sai như lời bốc quẻ của Phạm Lãi. Bệnh tình của Phù Sai thuyên giảm đúng như lời tiên đoán của Phạm Lãi. Vì thế vua Phù Sai nghĩ rằng Câu Tiển đã ăn năn nên đã thả cọp về rừng.
Về nuớc Câu Tiển nghe lời khuyên của Phãm Lãi dùng mỹ nhân kế, đem Tây Thi và Trịnh Đán cùng mỹ nữ tập luyện trong ba năm rồi đem cống hiến cho vua Phù Sai. Phù Sai say đắm sắc đẹp của Tây Thi mà quên đi việc phòng bị.
Hai muoi năm sau Câu Tiển đem binh diệt cả nuớc Ngô, Phù Sai cùng đuờng phải tự vận.
Sự nhẫn nhục của Câu Tiển trên đời này khó có ai có thể bì kịp. Nhẫn, nuốt hận để trả thù, trả thù muời năm chưa muộn, nhưng với Câu Tiển đến hai muoi năm.
Đó là những chuyện bên Tây bên Tàu, ở nuớc ta thì có Nguyễn Công Trứ tự là Tôn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn; quán làng Uy viễn, huyện Nghi xuân tỉnh Hà tĩnh, nguyên quán ở huyện Thanh oai, tỉnh Hà đông.
Ông có thiên tư thông tuệ, lại gặp được thầy giỏi bạn tốt, nhưng vì nước nhà đang trong cảnh nhiễu nhương nên ông đành ẫn nhẫn qua ngày. Cuộc đời ông nhiều phen chìm nổi, đến năm Gia Long thứ 18 (1819) mới đổ tú tài, năm ông 40 tuối. Năm Minh mạng thứ 1(1820) ông đuợc bổ làm tri huyện Đường hào tỉnh Hải dương. Với nhiều chiến công ông được thăng thực thụ Binh bộ Thượng thư năm Minh mạng thứ 14 (1833).
Đến đời Thiệu trị thứ 3 (1943) ông bị vu cáo cách hết chức tước và phát đi làm lính thú ở Quảng Ngãi. Hôm vào trình diện với quan tuần vũ Quảng Ngãi, ông mặc quần áo lính,lưng đeo dao và túi gạo, quan tỉnh mời ngồi, ông từ chối, mời thay quần áo ông cũng không chịu và nói : Lúc làm tuớng tôi không cho là vinh, nay làm lính tôi không thấy là nhục. Nguời ta ở địa vị nào phải sống theo địa vị ấy. Vả lại làm lính mà không mặc đồ lính thì sao cho ra người lính.
Đến năm Thiệu trị thứ 5 (1845) ông đuợc khai phục bổ làm chủ sự bộ Hình, năm sau 1846 quyền án sát tỉnh Quảng Ngãi, năm Thiệu trị thứ 7 (1847) lên chức phủ doãn Thừa thiên.
Nâm Tự đức thứ 3 (1852) dân hai huyện Tiền hải và Kim sơn nhớ on ông sáng lập hai huyện, họ bèn góp tiền lập sinh từ thờ ông. Lễ khánh thành tổ chức linh đinh, trong sinh từ trần thiết hết sức uy nghi long trọng.
Có nguời thấy thế lấy làm bất bình, tố cáo về triều là ông có ý xúi dân làm phản. Vua hạ chỉ cho tổng đốc Nam định điều tra, tổng đốc dâng sớ tâu rõ là việc đó do dân tự động làm để kỷ công ông. Vua liền triệu ông về kinh để uỷ lạo.
Nhân vua hỏi về tình hình dân chúng ở hai huyện Tiền hải va Kim sơn, ông tâu: “ Hai huyện bây giờ phong đăng, hòa cốc, rõ ra cảnh tuợng thái bình. Những khi rảnh việc, dân chúng thường tụ hội vui vẻ lắm, và bày trò chơi đố nhau rất ý vị.
Vua muốn biết cách thức đố như thế nào, ông đáp :
Thí dụ họ đọc một câu thơ :
Đem thân cho thế gian ngồi
Chẳng ơn thì chớ lại cuời bất trung.
Đố là cái gì, rồî giảng là tấm phản ( tấm gỗ dùng để làm ghế ngồi hay nằm).
Hay là :
Ngửa lòng hứng lấy nuớc nhà
Người dù không biết, trời đà biết cho.
Họ giảng là cái máng hứng nuớc mưa.
Vua biết ông nói ra tâm sự kẻ tôi trung bị vu cáo, tủm tỉm cuời vỗ về mấy câu rồi ban cho 100 quan tiền làm lộ phí hồi hương.
Để hiểu rõ hơn chúng ta hãy tìm hiểu nghĩa chữ Nhẫn. Theo chiết tự chữ Hán, chữ Nhẫn gồm có hai bộ : bộ chữ Đao ở trên và bộ chữ Tâm ở duới, có nghĩa rằng Đao kề tim ( Tâm ) mà vẫn bình thản ấy là Nhẫn. Như vậy nhẫn có nghia là chịu đựng. Chịu là chấp nhận như ta thuờng hỏi các anh,các chị, các bạn có chịu không. Khi nói đựng thì chúng ta liên tuởng đến vật chứa đựng, vật càng lớn thì chứa đựng càng nhiều. Nói đến sức chứa đựng thì ta dùng chữ lượng, vật chứa càng nhiều thì lượng càng cao. Ở đây vật chứa chính là tâm, do đó ta thường gọi là tâm lượng, tâm chứa càng nhiều ta thường gọi là đại lượng hay lượng cả ( cả nghia là lớn ).
Như trong truyện Kiều khi Hoạn Thu biết Thúc Sinh ở với Kiều nàng nói :
Ví bằng thú thật cùng ta
Cũng dung kẻ duới mới là luợng trên .
Khi Kiều gặp Từ Hải nàng
Thưa rằng : Lượng cả bao dung
Tấn dương được thấy mây rồng có phen.
Rồi khi Từ Hải cho bắt Hoạn Thư về hỏi tội nàng nói:
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Khi nổi khổ niềm đau càng nhiều thì tâm của ta phải càng lớn mới chứa đựng được, cũng như cái ly, nước càng nhiều thì sẽ tràn ra ngoài. Cũng vậy khi tâm của ta hẹp hòi không chứa đuợc những nổi khổ niềm đau thì lòng sân hận sẽ nổi lên rồi tai họa, ác nghiệp sẽ đến.
Ai cũng biết bất khuất là dũng, nhưng nhẫn nhục để nuôi chí lớn cũng là dũng, chứ không phảỉ thái độ tiêu cực, khiếp sợ như nhiều nguời thường nghĩ. Bất khuất là dũng thì ai cũng biết, cũng phục như tướng Nguyễn Khoa Nam năm 1975 không chịu đầu hàng Việt Cộng nên đã tự sát như những nhà Nho ngày xưa thường nói “ Sĩ khả sát, bất khả nhục “, “ Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục “ và còn nhiều nhiều nữa. Còn nhẫn nhục, nuốt hận để nuôi chí lớn thì chưa biết đuợc ngay, phải đợi thời gian sau mới biết là vì chí lớn hay vì sợ hay vì hèn hạ. Sau tháng tư năm 1975 không biết bao nhiêu là nguời nuốt hận vì gia đinh, vì chờ thời, vì chí lớn, vì mạng sống. Nhưng vì gì cũng được miễn là đừng hèn hạ làm những điều ô nhục dẫm trên lưng, trên đầu của những đồng đội, những người cùng chí huớng chỉ để đạt được mục đích thấp hèn của mình.
Thường người ta hiểu lầm nhẫn nhục là thái độ thụ động, tiêu cực khiếp sợ, khom lưng cúi đầu truớc hành động bạo tàn, ngang ngược thô lỗ của kẻ khác. Nhưng thật ra nhẫn nhục là thái độ tích cực là kiên gan, bền chí, chịu đựng sự nhục mạ, đau khổ vế thể xác cũng như tinh thần để rồi hoàn toàn làm chủ bản tâm mình. Nhẫn nhục như Câu Tiển ai dám nói nhẫn nhục là thụ động. Đó là cái nhẫn theo thế gian, sở di người đời thường cắn răng chịu đựng vì trong hoàn cảnh yếu thế, không thuận lợi, không làm gì được nên phải nhẫn cho yên thân. Nhưng thân đuợc yên mà tâm chắc gì đã đuợc yên, vì bị luôn luôn đau khổ, tức tối vì cái nhẫn bất đắc dĩ. Hành động đó xây dựng trên nền tảng bản ngã, ngã chấp, ngã mạn của mưu đồ tính toán thiệt hơn phát xuất từ lòng tham, vị kỷ và sân hận. Do đó thường dẫn đến hậu quả là sẵn sàng rửa nhục và trả thù bằng mọi cách khi có điều kiện.
Nhưng cải nhẫn của thế gian khác xa với cái nhẫn của Phật giáo. Trong phật giáo buớc đầu của nhẫn nhục là dẹp bỏ sân hận, giận dữ trong lòng. Gặp nguời hung dữ, hăm dọi, mắng nhiếc, tuy ta đủ sức chống trả lại, nhưng thân ta không đối phó lại bằng vũ lực, đó là thân nhẫn. Miệng ta không đáp lại những lời thô tục, hung ác, đó là khẩu nhẫn. Quan trọng là tâm của ta không nỗi lên ý nghĩ sân hận, đó là ý nhẫn.
Đối với hành giả kham nhẫn, tâm vẫn luôn an tịnh dù có bất kỳ sự hủy nhục, não hại nào từ bên ngoài đem đến. Phương pháp tốt nhất để có thể nhẫn nhịn là khởi tâm từ bi, hoan hỷ nhận chịu mọi việc hung ác, tệ hại đổ lên cho mình, bằng cách tìm điểm tốt nhất, dễ thương nhất của họ để chúng ta nghĩ đến mà không khởi tâm sân hận. Hơn nữa có thể cứu giúp họ khi sa cơ thất thế. Đó là cách nuôi dưỡng điều thiện nhỏ nhoi của họ và cũng nuôi lớn lòng từ bi của chúng ta. Thực ra trên đời này không có ai hoàn toàn cả, nên nếu chúng ta biết nhìn ở mặt tích cực thì ai cũng có điểm tốt. Nhớ đến điểm tốt của họ lòng ta sẽ dịu lại và dễ tha thứ, cũng dễ chịu đựng truớc những điều bất nhu ý.
Theo kinh Giải Thân Mật giải thích , hạnh nhẫn nhục gồm có ba ý nghia:
– Thứ nhất : Nại oán hại nhẫn nghĩa là nhận chịu những điều tổn hại do người khác gây cho mình.
– Thứ hai : An thọ khổ nhẫn nghĩa là có thể an nhiên chấp nhận mọi sự đau đớn khổ sở.
– Thứ ba : Đế sát pháp nhẫn nghĩa là có thể quan sát nhận biết đúng bản chất của mọi sự việc để an nhiên chấp nhận.
Kinh Du Già Sư Địa mô tả hạnh nhẫn nhục bao gồm ba tính chất :
– Thứ nhất : Không giận.
– Thứ hai : Không kết thành thù oán.
– Thứ ba : Trong lòng không có ý tưởng xấu ác.
Kết hợp sự giải thích và mô tả của hai kinh trên, ta có thể hiểu rằng nhẫn nhục không chỉ đơn giản là nhịn nhục, chịu đựng mà bao hàm một sự nhận thức , hiểu biết sâu sắc và toàn diện về đối tượng, sự việc rồi từ đó mới có sự chấp nhận với tinh thần từ hòa, không có tâm sân hận, không kết thù oán, không khởi ý xấu ác.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có vị Tỳ kheo hỏi Phật “ Cái gì mạnh hơn cả “ Phật dạy “ Nhẫn nhục mạnh hơn cả “ Thật vậy chỉ có người nhẫn nhục chịu đựng đuợc mọi khó khăn, vượt qua những trở ngại mới mong lập đuợc chí lớn, sự nghiệp vĩ đại trên đời. Khi Đức Phật còn tại thế Ngài luôn mặc áo giáp nhẫn nhục vào đời để độ cho chúng sinh. Như chuyện kể một hôm đi trên đường giáo hóa, gặp một đám côn đồ mắng nhiếc thậm tệ, Ngài vẫn thản nhiên đi không hề có thái độ bất mãn, khó chịu. Nhưng Tôn gỉả A Nan không chịu đuợc liền thưa với Ngài :
– Bạch Thế Tôn, chúng ta nên đi nơi khác.
Phật bảo :
– Bây giờ đi chỗ nào A Nan ?
Ngài A Nan thưa :
– Đi chỗ nào không có người chửi mắng thì mình mới có thể truyền đạo.
Phật bảo :
– Gỉa sử chúng ta đi đến chỗ khác cũng có người mắng chửi nữa thì làm sao A Nan ?
Ngài A Nan thưa :
– Như vậy chúng ta tìm lại những nơi đa từng giáo hóa như thành Xá Vệ hay những nơi có đệ tử của Ngài.
Phật bảo :
– Này A Nan ! Nếu là thầy thuốc giỏi thì có nên treo tấm bảng trước nhà rằng : “ Ở đây chỉ nhận chửa những bệnh thông thường, còn bệnh nặng thì mời đi nơi khác. “?
Ngài A Nan thưa :
– Không
Phật bảo :
– Tại sao vậy ?
Ngài A Nan thưa :
– Thầy thuốc giỏi thì trị bệnh nặng, còn bệnh thường thì có gì quan trọng.
Phật bảo :
– Cũng vậy, nguời ta đang bệnh, ta phải trị cho họ, chừng nào họ không cần thì ta mới đi.
Ngài A Nan thua :
– Họ đang chửi mình thì họ đâu cần mình.
Những người côn đồ nghe vậy liền thức tỉnh lên tiếng :
– Bạch Ngài, chúng con cần Ngài.
Do đó Đức Phật ở lại giáo hóa cho họ.
Có lần Đức Phật đi khất thực, một thầy Bà La Môn vì thấy có nhiều môn đệ của mình bỏ đạo theo thọ giới Đức Phật, nên theo sau chửi mắng thậm tệ nhưng Đức Phật vẫn thản nhiên đi. Thầy Bà La Môn ấy quá bực tức chạy lên chận đuờng hỏi Đức Phật :
– Cô Đàm ! Ngài thua tôi chưa ?
Đức Phật liền trải trải cụ ngồi xuống, đọc bài kệ :
Nưuời hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy đuợc an ổn ngủ.
Đức Phật nói ai còn thấy hơn, thấy thua thì còn oán, còn khổ. Chỉ có nguời bỏ đuợc hơn thua mới đuợc an ổn, hạnh phúc.
Câu chuyện Quan Âm Thị Kính, chúng ta ai cũng biết. Bà thuộc gia đinh khá giả, danh giá, chồng bà là một nho sinh hiếu học. Hai gia đinh môn đăng hộ đối. Một hôm chồng bà vì ham học nên mệt mỏi nằm ngủ trưa. Bà thấy chồng bà có sợi râu mọc ngược lên trên trông khó coi, nên bà lấy kéo định cắt đi sợi râu ấy. Nhưng vừa cầm kéo đụng đến thì ông chồng giật mình thức dậy chụp tay bà và la lên : “ Ám sát tôi “ Cả nhà nghe vậy tin là bà dùng kéo định ám sát chồng.
Oan cho bà, dù bà có nói gì gia đinh bên chồng cũng không tin. Cuối cùng gia đinh bên chồng trả bà về cho cha mẹ bà. Về nhà, bà thấy tủi nhục vì là con gia đình thế phiệt mà lại mang tiếng định giết chồng, nhưng không biết làm thế nào minh oan đuợc. Do đó bà quyết định đi tu.
Bà phải giả trai để đi tu vì thời bấy giờ ở Trung Hoa chưa có phái nữ đi tu, chỉ có phái nam thôi. Khi bà tu trong chùa, với pháp danh Kinh Tâm, có cô Thị Mầu, con nhà giàu thường lui tới viếng chùa, thấy bà ( giả nam ) đẹp trai nên động lòng thương. Thị Mầu vì có tâm không tốt đã gần gũi với người nô bộc của gia đình, cô mang thai rồi đổ oan cho ông đạo Kinh Tâm ( tức bà ). Sự việc ra truớc công đuờng , bà trả lời không có gì nhưng chẳng có ai tin. Dù bị đánh đập, tra khảo, bà vẫn chịu đựng không tiết lộ bà là người nữ để minh oan cho mình. Cuối cùng làng xã trả cho bà về chùa để Hòa thuợng nuôi dạy, giáo hóa lại. Đó là sự nhẫn nhục phi thường, bà phải sống và tu chứ không phải như nguời đời thuờng tự tử khi gặp điều oan ức.
Khi về chùa một thời gian Thị Mầu sinh đứa con đem đến chùa giao cho bà và nói : “ Con của ông nay tôi giao trả cho ông “. Bà đã can đảm nhận nuôi đứa bé, với mọi sự nhục nhã và mọi hình phạt, vì nghĩ rằng :
Dù xây chín bậc phù đồ,
Không bằng làm phuớc cứu cho một nguời.
Mỗi ngày bà ẵm đứa bé đi khắp xóm làng để xin sữa với sự khinh khi, chê bai của thiên hạ. Bà kiên nhẫn chịu đựng những tủi nhục để nuôi cho đứa bé lớn lên. Khi đó bà mới được yên ổn tu hành và đến khi bà lâm chung nguời ta mới phát hiện bà là nguời nữ thì bà đã đắc qủa vị Bồ Tát. Người đời sau thường gọi là Quan Âm Thị Kính và tôn vinh bà là Phật Bà Quan Âm.
Trong truyện của thiền sư Osho có truyện kể :
Một hôm trong nhà thờ Công Giáo, Cha đang giảng :
“ Nếu có ai tát các con một bên má thì hãy đưa má bên kia cho họ tát tiếp theo. “
Mọi nguời rất thích thú lời trích dẫn kinh thánh này. Nhưng sau khi Cha giảng, một con chiên đứng dậy và đi lên tát Cha một cái. Bị cái tát bất ngờ, Cha cũng sững sốt, nhưng Cha điềm tĩnh ngay vì Cha đang trích giảng lời Chúa. Cha liền đưa má bên kia, anh chàng đó tát thêm cái nữa khá mạnh. Lập tức Cha nhảy xuống đánh anh chàng đó.
Anh chàng hỏi : “ Cha làm gì vậy.? “
Cha nói : “ Kinh thánh chỉ nói đến cái tát thứ hai. Giờ tôi và anh ở đây, chúng ta hãy quyết định việc này .”
Ngày xưa có một vị tăng trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, sau khi nghe Thầy giảng dạy về hạnh nhẫn nhục, liền quyết định là phải tu tập thành tựu pháp môn này. Vị tăng ấy rời khỏi ngôi chùa trong làng, tìm đến sống trong một hang đá trên một ngọn đồi cách khá xa làng. Ngày ngày ông chỉ uống nuớc suối, ăn rau quả trong rừng để sống qua ngày và tinh tọa suy xét về pháp môn nhẫn nhục. Vì nơi ấy cách xa làng xóm nên không có ai đến quấy rầy việc tu tập cuả ông. Ông tu đuợc một thời gian khá lâu, tưởng như sấp thành tựu.
Một hôm có một người nông dân trong làng mất con nghé, ông tìm mãi không thấy. Sau cùng ông phát hiện dấu chân con nghé chạy về phía ngọn đồi, nên ông tìm về hướng đó. Khi đến lung chừng đồi ông thấy ở đó có một cái hang đá nằm sau mấy lùm cây. Nghi rằng con nghé có thể ẩn náu trong đó, nên ông tìm đến, nhìn vào trong hang thấy có một vị tăng đang ngồi trong tu thế tinh tọa. Người nông dân vốn nóng lòng nên to tiếng hỏi một cách thô lỗ : “ Ông kia ! Có nhìn thấy con nghé của tôi lạc vào đây không ? “
Vị tăng lặng thinh, người nông dân nghĩ rằng ông chưa nghe rõ liền hét lớn : “ Này, tôi hỏi ông đấy, có nhìn thấy một con nghé lạc vào đây không ? “
Vị tăng mới từ từ ngẩn đầu lên và đáp : “ Không. “
Người nông dân bực tức tiếp tục quát tháo : “ Hừ, không thấy thì nói không thấy, sao phải đợi hỏi nhiều lần đến thế, ông làm gì ở đây ?”
Vị tăng đáp : “ Tôi tu hạnh nhẫn nhục.”
Người nông dân bỗng phá lên cười : “ Tu hành gì, con người như ông đây, gặp người không muốn chào, thấy người cần kíp không muốn giúp, chỉ biết ngồi yên một chỗ như thế thì tu hành cái quái gi. “
Vị tăng không chịu được nữa, bực tức đứng dậy sừng sộ : “ Này, tôi ngồi yên thì đã sao nào, có can dự gì đến việc của ông mà ông vào đây quấy phá tôi.”
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy tu hạnh nhẫn nhuc cũng không dễ đâu. Nếu chúng ta ở một mình nơi vắng vẻ, năm ba năm không có ai đến quấy rầy ta thì lòng sân hận đâu có dịp nỗi lên. Do đó ông bà ngày xưa thường nói : “ Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa “.
Trong khi viết bài này tôi cũng đã nhiều lần dừng lại tập nhẫn nhục, chắc cũng lên đuợc vài cấp. Thực ra tôi đã học nhẫn nhục từ khi còn nhỏ ở trong gia đinh. Gia đinh là môi truờng tiếp xúc đầu tiên và quan trọng nhất khi thực hành nhẫn nhục. Nhìn những gương nhẫn nhục của mẹ tôi về làm dâu trong gia đinh, không những chỉ nhẫn nhục với mẹ chồng, với chồng mà còn chịu đựng với chị chồng, em chồng nữa. Sở dỉ có đuợc sự nhẫn nhục ấy chỉ vì lòng từ bi, thương người để giữ hòa khí và hạnh phúc trong gia đinh. Ngày nay thì không dám đâu.
Mỗi lần có dịp liên tuởng đến những người đan bà Việt Nam, nhất là ở thôn quê, vì tôi lớn lên và trưởng thành ở đó, tôi nhớ rất rõ ràng từng hình ảnh, từng cử chỉ của sự hy sinh, chịu đựng của họ. Như Hồ Dzếnh có mấy câu thơ:
…Nếu chữ hy sinh có ở đời.
Tôi sẽ nạm vàng muôn khổ cực.
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Ngày nay nhất là ở Mỹ, còn các nuớc khác thì tôi không biết rõ, hình như đàn ông tu hạnh nhẫn nhục hơi nhiều, chắc cũng đai nâu, đai đen gì rồi. Một điều cũng dễ hiểu vì các bà thường bao giờ cũng nghĩ mình đúng và cái gì cũng biết. Nên các ông bèn dùng cẩm nang của Khổng Minh “ Di hòa vi qúy. Một câu nhịn chín câu lành. Nhẫn một chút, sóng yên, gió lặng. Lùi một buớc, biển rộng, trời cao. “ Xin thưa đây là ý kiến riêng của tôi nếu các ông, các bà có phản đối thì tôi cũng xin mỉm cười đa tạ và thưa rằng “ Thế À “
Đề tài này cũng khá dài nhưng trong khuôn khổ tờ Đặc san tôi xin dừng ở đây cũng mong chúng ta suy gẫm và tu tập.
Để kết luận tôi xin ghi lại những lời nhắn nhủ của cổ nhân với nguời đời :
Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận.
Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn hóa nhất tề tiêu.
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiêu tùng thử đắc.
Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự do.
Tạm dịch :
Thân nhẫn, khẩu nhẫn, tâm nhẫn thì điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.
Thân nhịn, khẩu nhịn, tâm nhịn thì ngàn tai muôn họa đều tan biến.
Thân nín, khẩu nín, tâm nín thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà đuợc.
Thân thôi, khẩu thôi, tâm thôi thì những công danh cái thế không còn tự do.
Và đây là những câu châm ngôn có thể xem như là cẩm nang cũng được :
Tiểu bất nhẫn, bất thành đại sự.
Bách nhẫn thành kim.
Mong tất cả thăng tiến trên đuờng tu tập.
Lê Quang Chuởng
Massachusetts, tháng 11 năm 2010
Tài liệu tham khảo:
– Đông Chu Liệt Quốc ( về Câu Tiển )
– Hán Sở tranh hùng ( về Hàn Tín )
– Giai thoại làng Nho ( về Nguyễn Công Trứ )
– Tu là Chuyển nghiệp ( Thích Thanh Từ )
– Từ bi và Nhẫn nhục ( Thích Thanh Từ )
– Hoa Nhẫn Nhục ( Nguyễn Minh )
– Thấy Phật ( Cao Huy Thuần )
– Nhẫn có phải là nhục không? ( Thích Trí Tài )
– Luợng cả bao dung ( Thích Nhất Hạnh )
– 101 giai thoại thiền.
– Ý chí sắt đá ( Nguyễn Hiến Lê, về Thầy Huyền Trang )
Và nhiều bài theo trí nhớ.