VU LAN. VIỆT NAM VÀ TRIẾT THUYẾT THẦN THOẠI
| VU LAN. VIỆT NAM VÀ TRIẾT THUYẾT THẦN THOẠI VU LAN MÙA BÁO HIẾU THINH QUANG “LỄ VU LAN,MÙA BÁO HIỆU” XUẤT XỨ TỪ TÍCH NGÀI MỤC KIỀN LIÊN CỨU MẸ N GAY TỪ LÚC ÐỨC THÍCH CA MÂU NI CÒN TẠI THẾ. Cứ theo kinh điển ghi chép thì Mục Kiền Liên – được chuyển ra từ Maudgalâyana,Moggalanâ thường được viết ngắn Mục Liên. Ngài là một Ðại Thinh văn La hán đệ tử của đức Phật Thích Ca , Bồ tát Ma ha tát được đức Phật khen là bậc Thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử. Ngài là con trai của Maudgala – thông minh,học rộng, tài cao lại nổi tiếng là người đức độ bao trùm trong thiên hạ, Ðã vậy trí huệ của ông sáng chói như mặt nhật, dịu hiền như mặt trăng…lấp lánh như muôn nghìn vì tinh tú… trên vòm trời…Aáy thế mà cái sáng chói của vầng Thái Dương, cái tươi mát dịu hiền như Cung Quản, và cái lấp la lấp lánh như hàng hà sa số hạt kim cương kia vẫn chưa thấm tháp đối với tấm gương chí hiếu của Ngài Mục Kiền Liên – người con tiêu biểu lòng hiếu thảo ! Vốn là con dòng cháu dỏi,lại thuộc hàng phong lưu phú quí, thường giao du đây đó, lúc nào cũng tỏ ra có đầy đủ đức hạnh hơn người. Một hôm nhân dự một cuộc lễ ở thành Vương Xá gặp được Xá Lỵ Phất tức Cariputra cùng là một trang hào kiệt thông minh tài giỏi trong đời. Hai bên chuyện trò tương đắc, cuối cùng giao kết cùng nhau xuất gia tu hành để mong có ngày giải thoát…khỏi bể khổ trầm luân… tránh vòng tục lụy. Mục Kiền Liên về xin phép cha mẹ cho được xuất gia, nhưng bị từ khước, nhờ bạn hữu năn nỉ vẫn không sao lay chuyển được lòng cương quyết của cha mẹ… Thất vọng ông bèn bỏ ăn định thực hiện hiện ý định tìm lấy sự giải thoát do tâm nguyện của mình mà vẫn không trái lời của cha mẹ. Trước cảnh tuyệt thực này, biết là chí con mình đã quyết, song thân ông lo sợ con mình có thể rủi ro bị mệnh hệ đến tính mệnh, nên bằng lòng để cho con làm theo ý nguyện. Thế là ngay sau đó Mục Kiện Liên đến ngay xứ Nalada tìm Xá Lợi Phất để cùng nhau làm theo lời ước nguyện. Người bạn này may mắn hơn dễ dàng được cha mẹ chấp thuận. Hai người bèn khăn gói lên đường đến thành Vương xá, để nghe cuộc thuyết pháp của sáu nhà Sư nổi tiếng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, đôi bạn tâm đầu ý hợp này cảm thấy chưa đúng như ý mình mong muốn,bèn lại lên đường tìm gặp Yangdag Rgyal Sanjaya. Vị sư này sau khi nghe đôi bạn vừa đến tỏ bày tâm nguyện bèn tươi cười mách bảo:” Nay mai sẽ có đức Phật đến thành Vương Xá này , ắt hai người sẽ được Ngài thu nhận làm môn đệ.” Trong cuộc kết bạn tâm giao Mục Kiện Liên và Xá Lợi Phất giao ước với nhau là sau này hễ trong hai người thấu được Ðạo trước ,thì mách cho người kia.” Xá Lợi Phất nhân gặp được sư Aùi Bệ Acvajit ,vốn là đệ từ của Phật, bèn đem sự huyền bí của đạo Phật mà ông đã thu thập được chỉ lại cho Mục Kiện Liên nghe. Thế là cả hai liền quy y Tam Bảo. Mục Liên liền nhập Pháp Phật. Ðược đúng bảy ngày ông cảm thấy mọi phiền não đã tan biến mất mà đắc quả A La Hán . Oâng tỏ ra là vị Ðệ tử có phép thần thông hơn cả Tỳ Kheo nhìn thông suốt được cả mọi nẻo Chân Như cũng như các chốn tù đày dẫy đầy khổ hạnh! Ông thấy và biết được mẹ mình đang chịu cảnh đói khổ trong cảnh giới Ngạ Quỷ, liền tìm đến viếng thăm han hỏi. Thấy mẹ đói khát khốn cùng, liền đích thân mang cơm nước dâng lên , nhữnng mong sao mẹ qua cơn đói khát, nhưng khốn đốn thay, nghiệp lực của bà Thanh Ðề – tên của mẹ Ngài – quá nặng, một mình Ngài không làm sao chuyển hóa được bèn tìm đường về xin Phật độ trì tiếp tay cứu khổ !. Sau khi bạch Phật để xin phép cứu độ cho Mẹ, nhân cơ hội đó Ðức Thế Tôn khuyến thị các hàng đệ tử tại gia xuất gia nên thiết lễ VU LAN đồng thời nhân lễ này mà thi ân bố đức. Nhờ công đức tu hành thanh tịnh sau ba tháng “an cư kiết hạ”của toàn thể chư tăng ni hòa nhịp một lòng thành khẩn …sao cho được hiếu thảo trọn bề… Trước lời nguyện cầu và lòng thành tâm không gì có thể làm cho lay chuyển nên cảm thông được các đấng thiêng liêng cao cả,hàng phục được ma quân ác thú….Nếu tất cả đều tỏ một lòng xả bỏ niệm ác mà hướng về nẻo thiện…thì ắt chốn Ðịa Ngục sẽ hóa hiện sen vàng, tâm con người sẽ tạo ra Thiên Ðường Ðịa Ngục. Trong kinh Phật có câu: “Ưng quan pháp giới tánh Mới hay vạn vật trong pháp giới đều do tâm con người mà ra … Tập quán này có từ lâu đời vì các Ðấng Sanh Thành mà nhân tiết Vu Lan mà cầu siêu báo hiếu. (Vũ Lan bồn xuất xứ từ bốn tiếng Phạn “ULLAMBANA”, người Trung Hoa dịch âm ra bằng Hán tự là “Ô Lam Bà Noa” – từ này có nghĩa “Cứu nạn khổ hình treo ngược”! Có nhiều lời lẽ giải thích về danh từ VU LAN BỒN”, cho là do lối đọc âm trại lại của người Việt ta khác hẳn với người Trung Hoa! Còn từ Bana của tiếng Phạn,Trung Hoa dịch âm là “Bà Noa” còn ta thì đọc thành âm “Bồn” ! Bà Noa hay là Bana tiếng Phạn có nghĩa là chậu chứ đựng các thức ăn cúng dường chư tăngcuất hạ sau mùa Vu Lan ngày rằm tháng Bảy với mục đích hàng năm chú nguyện cho các vong hồn thoát cảnh địa ngục. Ý nghĩa của Vu Lan Bồn là cầu xin xá tội vong nhân,là pháp hội cứu khổ cứu nạn do chư tăng cầu siêu cứu độ cho ông bà cha mẹ đã khuất bóng và luôn cả cho ông bà cha mẹ còn tại thế… Vào thế kỷ thứ lll Tây lịch , ngài Dharmaraka – được dịch ra bằng Hán tự là Trúc Pháp Hộ từ thời Tây Tấn,đã dịch ra kinh Vu Lan, truyền tụng khắp các nước Á Châu…rao truyền lòng hiếu thảo của Ngài Mục Kiền Liên báo hiếu và giải thoát cho mẹ mình thoát khỏi chốn A Tỳ Ðịa Ngục…đời đời kiếp kiếp…Chẳng những vậy mà còn khuyến cáo mọi người chúng ta noi theo gương sáng này hầu cứu rổi cho cha mẹ được giải thoát cảnh chốn lao ngục tù hình về nơi Cội Phúc…) Thuyết Vu Lan có từ ngàn xưa,kể từ ngày ông đi độ Mẹ mắc đọa ở Ðịa Ngục, chính ông đã khải thỉnh đức Phật thuyết kinh Vu Lan Bồn cùng các kinh khác. Trong những tích Phật thuật ghi lại đã từng có nhiều đời Mục Liên giáng thế cứu độ chúng sinh. Oâng cùng Xá Lợi Phất tịch một lần trước cả Phật. Trong hội Pháp Hoa đức Phật có thọ kỳ cho Mục Kiền Liên về sau thành Phật lấy hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương (Tamâla-patrachandanagandha, Như Lai,cõi Thế Giái tên là Ý Lạc (Manôbhirâma,Kỳ Tiếp tên là Y Mãn… Sự tích ngày lễ Vu Lan nói lên lòng hiếu thảo của Mục Liên đối với mẹ chỉ vì bà muốn con mình có địa vị cao sang đầy danh vọng giữa thế gian mà bà làm bất cứ điều gì dù đó là những điều tội ác, miễn sao cho con mình được thành công viên mãn. Do đó mà bà đã phạm phải nhiều trọng tội không thể nào dung thứ được …Ðến khi chết bà Thanh Ðề phải bị đọa vào Ðịa Ngục A Tỳ ! Nhìn thấy Mẹ bị cực hình đói khát, ngồi trên bàn chông sắt tháng này qua tháng nọ,năm này qua năm kia.. ông cảm thấy lòng đau như cắt ! Mục Liên nhiều lúc để mặc cho hai dòng lệ lăn tròn trên đôi má khi chính tự tay mình đưa cơm đến miệng cho mẹ ăn hay đưa nước cho mẹ uống , bất giác nhìn thấy chén cơm kia, chung nước nọ thảy đều bốc lên thành lửa ngọn… thiêu đốt cả mặt mày mẹ ! Trước cảnh đau thương đó Mục Liên phải nhờ gậy phép của Phật Quan Aâm mang xuống tận cõi âm ty cứu mẹ thoát khỏi cảnh cực hình. Oâng đã khuyên mẹ nên ăn năn hối lỗi dốc lòng tu niệm. Nhờ lòng hiếu thảo và lời khuyên bảo của con mà bà Thanh Ðề dốc lòng chừa cải,cuối cùng bà cũng đắc quả . Theo lời giảng trong kinh Vu Lan Bồn : khuyên hễ đến dịp ngày rằm tháng Bảy nhân dịp chư tăng vừa kết hạ xong thì nên dùng cơm chay cúng dường tăng chúng, nhờ tăng chúng tiếp tay chú tâm cầu nguyện thí thực đặng mà giải cứu cho cha mẹ thoát cảnh kốn cùng tại a tỳ địa ngục mà trở về với chốn thanh nhan quanh năm có hương sen ngào ngạt…suốt tháng có mây trắng lững lờ bay,tâm thần luôn an nhiên như nhiên trong khắp bầu trời … bao la rộng lớn… Hai câu thơ nói về Mục Liên : Mục Liên dù đã hóa thân Trong “Gương Sáng Người Xưa của Thích Huyền Vi có đoạn viết:”Làm sao để nhớ ơn cha mẹ?”: “Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc! Mười tháng mang thai,ba năm bú mớm, nuốt đắng nhả ngọt,nhường chỗ khô cho con,mẹ nằm nơi ướt át. Vừa được thành người,đã hy vọng tiếp nối gia đường,lo phần tế tự. Thế mà hôm nay chúng ta đã được xuất gia,lạm xưng thích tử,mang hiệu sa môn*,các món ngon vật lạ đã không cung cấp,cúng tế trần thiết gia đường càng không chu đáo. Sống đã không phụng dưỡng thân thể,chết ta lại không thể tiếp độ thần thức. Ðối với thân thế gian,ta bị tổn hại,đối với xuất thế ta càng vô ích. Suy xét như vậy,ta thấy chỉ còn cách thường thực hành Phật đạo trong trăm ngàn kiếp,khắp cứu độ chúng sanh trong mười phương,ba đời,mà song thân trong nhiều kiếp được siêu thăng. Không phải song thân một người,mà cha mẹ tất cả cũng được cứu vớt… Chữ hiếu trong Phật đạo, không cục bộ,ích kỷ,không chỉ vị ngã mà còn phải vị tha. Mục Kiền Liên không phải chỉ cứu mẹ mình mà ông đã có công cứu cho cùng khắp… Trên thế gian không phải chỉ có mỗi bà Thanh Ðề chỉ vì lòng yêu con mà quên cả nghĩ đến những điều tội lỗi. Vì vậy mà phải bị sa xuống A Tỳ Ðịa Ngục, đầu đội chậu máu, đít ngồi bàn chông,cơm ăn,nước uống thành lửa, đêm không thể ngủ,ngày chẳng có phút ngơi, sự cay đắng cứ như sóng thủy triều tràn dâng không phút giây ngừng nghỉ… “ Cha mẹ đối với con cái rất nhiều gian lao khổ nhọc,công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ thật không có gì sánh bằng. Cho nên nói “thương thay cha mẹ sanh ta khó nhọc” Ơn đức cha mẹ,nghiêng nặng về từ mẫu nhiều hơn nên nói mười tháng mang thai,ba năm bú mớm,nhờ công ơn cực nhọc của từ mẫu…” Cao quý thay! Công cha như núi Thái sơn, cao vòi vọi đó…nhưng sánh với cái công đức của người mẹ thì vẫn còn chưa đủ…Bởi nghĩa mẹ như nước trong nguồn,chảy mãi không ngừng, chẳng bao giờ dứt được …Oâi! Sự khổ cực của người mẹ kể làm sao cho xiết ! Trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới,có đoạn:” Nếu bức bách gia tộc lấy của làm bố thí,người ấy chẳng được quả báo lớn. Trước chẳng hay cúng dường “Cha Mẹ”, mà lại làm khổ não “Vợ Con”, giả danh làm “Bố Thí” thì chẳng được gọi là nghĩa thí. Tu bố thí như vậy,vì thiếu lòng thương xót nên gọi là :chẳng biết trả ơn.” CHUYỆN CHỮ HIẾU Trong thần thoại ta cũng có chuyện nói về “Chữ Hiếu”. Ðó là chuyện Thánh Mẫu Liểu Hạnh. Chuyện này có nhiều dả sử . Như chuyện sự tích “Sùng Sơn Thánh Mẫu” ghi Ngài hiệu Liễu Hạnh Nguyên Quân là con gái thứ của Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Theo “Hội Chân Biên” của Thanh Hòa Tử thì bà Chúa Liễu Hạnh là đệ nhị Chúa Tiên sắc nước hương trời được Ngọc Hoàng quý mến. Có lẽ vì được cưng chiều nên bà bị lỗi lầm ở chốn Tiên Cung nên phải bị đày xuống trần gian vào năm Thiên Hựu triều Lê Anh Tôn ( 1557). Ngày giáng sinh Thánh Mẫu đúng rằm tháng tám, trăng trong gió mát…ở cửa người làng Vân Cát, huyện Vụ Bản thuộc tỉnh Nam Ðịnh…Ngài giáng sinh lần thứ nhất, diện mạo khác thường ,lớn lên đúng là giai nhân tuyệt thế. Ngài được cha mẹ đặt tên là Giáng Tiên, thường ngồi trong thư phòng đọc sách,làm thơ…không có một thi nhân nào sánh kịp… Ngoài ra Ngài lại tỏ ra thuộc hàng công ngôn dung hạnh… Tiếng tăm Ngài được truyền đi khắp nơi, khiến người Ðào Lang họ Trần cũng thuộc hàng trâm anh thế phiệt muốn được cùng Giáng Tiên kết bạn trăm năm…sắt cầm hảo hiệp… Hai đàng kết nghĩa vợ chồng được hai năm thì Ngài từ biệt Ðào Lang – tức là người chồng mà hóa thân. Ngài tạ thế vào ngày 3 tháng 3 năm Ðinh Sửu,nhằm năm Gia Thái thứ 5,triều Lê Thái Tôn, an táng tại cây đa làng An Thái. Dân chúng lập đền thờ gọi đền Phủ Giầy. Khi Ngài hóa thân, Trần phu nhân khóc than thảm thiết không nguôi. Một đêm nọ phu nhân vào chốn thư phòng xem sách vở bỗng dưng xây xẩm mặt mày lăn ra bất tỉnh. Bỗng có ngọn gió từ phương Tây thổi lại, rôi hình ảnh Ngài hiện ra cúi xuống ôm lấy Trần phu nhân mà khẽ lên tiếng gọi:” Mẹ ơi! Mẹ hãy tỉnh dậy, con đây…Xin mẹ đừng thương nhớ nữa!” Ðang trong cơn mê, phu nhân nghe như có tiếng ai gọi bèn mở mắt ra bất giác nhận thấy mình đang nằm trong vòng tay Liễu Hạnh, bèn khóc lên mà rằng:” Con ơi, sao con đành lòng bỏ mẹ ra đi… Con ở lại đây đừng bỏ mẹ mà đi nữa…” Ngài khóc ròng than thở:” Con cam tội bất hiếu, con những muốn ở mãi lại đây để giữ thần hôn cho tròn đạo hiếu, nhưng số con tại chốn trần gian chỉ có ngần ấy tngày hôi…Xin mẹ phóng tâm đừng thương tiếc mà tổn hao sức khỏe… Lúc bấy giờ Lê công cùng với Ðào sinh nghe tin vốn chạy đến, Ngài bèn quì xuống lạy mà nói:” Nay con đã phải rời kiếp sống ở trần gian mà trở về với chốn Tiên cung,vì nghĩ đến Ðào lang nắm lấy tay vợ than thở:” Chúng ta may mắn cùng tác hợp lương duyên những mong bách niên giai lão…nào ngờ nửa đường đứt gánh …Nay đã trở về cùng chung sum họp xin chớ bỏ đi…” Ngài Liễu Hạnh bèn đáp lời:” Tiên nữ ,Tào tinh hai đàng cùng nhau gặp gỡ tất phải có thiên duyên tiền định. Ðừng thở than thêm nữa rồi sẽ có ngày cùng nhau tái hội. Nói xong Ngài quỳ xuống trước mặt hai bên cha mẹ thở than một lúc và cuối cùng nói: “Xin hai bên cha mẹ đừng vì con mà hao tổn tinh thần, có cơ nguy cho sức khỏe ! Con xin bái biệt từ đây và cam đành chịu tội bất hiếu.” Nói xong hình ảnh của nàng Giáng Tiên từ từ biến thành một làn hơi trắng bay thẳng lên trời… Quả nhiên năm sau Ðào lang cũng theo Ngài bay về chốn Cực Lạc. Còn Ngài Giáng Tiên do Ngọc Hoàng Thượng Ðế xét lại kỳ trích giáng trước kia chưa được đầy đủ bèn cho tái giáng chốn phồn trần giữ chức Phúc Thần có nhiệm vụ nhận lễ cúng dường của nhân gian dưới thế. Lần tái giáng này Ngài biến hiện bất thường,khi thì hóa thân một nữ nghệ nhân hay bề ngâm thơ vịnh phú, lúc thì biến ra bà lão đầu tóc bạc phơ tay cầm gậy trúc đủnh đỉnh đi khắp đó đây ngắm cảnh trăng trong gió mát… Ngài cũng thường viếng thăm các chùa chiền tại hạt Lạng Sơn…Khi đến thăm viếng Chùa Thiên Minh nhận thấy nơi đây là mọt chốn danh lam thắng cảnh liền ở lại trụ trì kinh kệ. Thường vào đêm rằm tháng bảy nhân lễ Vu Lan Ngài ra giữa trời ngồi dưới bóng cây tùng mang đàn ra vừa gảy vừa ca bài Dưới Bóng Trăng Xanh: “ Cô vân vãng lai hề sơn thiều nghiêu, Có nghĩa: THINH QUANG |