Kẻ Sĩ Đông Phương Cù Huy Hà Vũ – Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc
——
Kẻ sĩ Đông phương Cù Huy Hà Vũ, tay bị bị còng, nhưng vẫn vững vàng khí phách trước cường quyền bạo lực (chú thích TLYTLSVN). Ảnh RFA
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc
I/ Dẫn nhập:
Tư tưởng, triết lý Đông phương được định hình qua các tôn giáo lớn ở Việt Nam cũng như Trung Hoa từ hơn 2000 năm trước. Đó là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo.
Ba tôn giáo nêu trên đã có một thời hưng thạnh ở đất nước chúng ta vào các thời Lý Trần và hội tụ vào trong một nền tư tưởng duy nhất (một cách chính thức), được gọi là Tam giáo đồng nguyên. Những vị vua Lý Trần đã đem tinh túy của Tam giáo đồng nguyên để đào tạo tầng lớp nhân tài phục vụ đất nước trên mọi lãnh vực.
Tinh túy đó chính là lý tưởng bồ tát và lý tưởng quân tử.
Do nhờ vận dụng một cách khéo léo những tinh túy đó, mà các triều đại Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Đinh, Ngô, tiền Lê, Lý, Trần, hậu Lê và Nguyễn Tây sơn, đã cùng với dân tộc tạo nên những chiến tích oai hùng, dũng liệt chống lại sự xâm lăng của quân Trung hoa phương Bắc.
Lý tưởng bồ tát và lý tưởng quân tử, đã góp phần đào tạo nên tầng lớp nhân tài từ lãnh vực văn học đến võ công để phục vụ đất nước qua các triều đại. Tầng lớp nhân tài đó, là những người có chơn tài, thực đức, thiết tha phục vụ cho quyền lợi của dân tộc, nên được người dân kính trọng gọi là tầng lớp trí thức của nước nhà. Một danh từ khác gọi những người đó là tầng lớp sĩ phu hay là những kẻ sĩ.
Tiếp theo đây xin được trình bày căn nguyên phát khởi cũng như giới thiệu cùng độc giả hai vị Tổ đã góp phần hình thành hai lý tưởng vừa nêu.
II/ Hai vị tổ của lý tưởng bồ tát và lý tưởng quân tử:
A/ Thiền sư Khương Tăng Hội.
Tôn tượng thiền sư Khương Tăng Hội
Phật giáo truyền đến nước ta vào đời Hùng Nghị Vương thứ nhất hoặc thứ hai, tức thế kỷ thứ 2 và 3 trước Công nguyên. Nhà sư Phật Quang trên núi Quỳnh Viên đã truyền Phật giáo cho Chử Đồng Tử và ngài là người Phật tử tại gia đầu tiên của tộc Việt. Năm 40 sau Tây lịch Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị khởi nghĩa ở quận Mê Linh chống lại sự cai trị tàn ác của thái thú Tô Định. Năm 43 cuộc chiến đấu của Hai Bà bị thất bại, nên phải trầm mình nơi dòng sông Hát để giữ tròn khí tiết với đất nước và dân tộc. Một vị nữ tướng của Hai Bà là Bát Nàn công chúa bị thương đã rút về một ngôi chùa xã Tiên La đồng thời qua đời tại đây.
Trước khi qua đời vị nữ tướng này đã cùng với một số các nhà sư Phật giáo tìm cách ứng dụng vai trò của đạo Phật vào việc bảo vệ dân tộc chống lại chính sách Hán hóa dã man do Mã Viện áp đặt, trong bối cảnh này Lục Độ Tập Kinh được ra đời.
Lục Độ Tập Kinh là tổng hợp của nền văn hóa thời vua Hùng và tư tưởng Phật Giáo.
Đến khoảng thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch, một ngôi sao sáng của dòng thiền phương Nam xuất hiện trên vòm trời Giao Châu và Trung Hoa, đó chính là Thiền sư Khương Tăng Hội.
Ngài là người tộc Việt, đến Kiến Nghiệp (Trung Hoa) để truyền bá Phật giáo và thị tịch năm 280 đời nhà Tấn. Suốt mấy mươi năm hoằng pháp, ngài biên soạn nhiều tác phẩm quan trọng trong đó quyển Lục Độ Tập Kinh đã được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Tàu (khoảng năm 220-250) để phổ biến tư tưởng Phật giáo phương Nam cho dân bản xứ.
Thiền sư Khương Tăng Hội chính là vị Sơ Tổ của Thiền tông Việt Nam và Trung Hoa.
Lục độ tập kinh đã đề ra rất nhiều quy tắc cho người dân Việt Nam vào thời đó phải làm theo để cứu nước và giữ nước, cũng như tinh thần, truyền thống tâm linh của dân tộc. Tuy nhiên chúng tôi xin mạn phép đưa ra 3 điểm như sau, dựa trên chữ Nhân và chữ Hiếu.
1/ Ta thà chịu tổn mạng chứ không bỏ đạo Nhân
2/ Bất Nhân trái đạo thà chết chứ không làm
3/ Bồ tát thấy dân rên la trong lửa đỏ, nên phải lăn vào để cứu dân.
B/ Thầy Mạnh Tử, chữ Tàu viết là 孟子; bính âm: Mèng Zǐ ; sinh vào năm 372–289 trước Tây lịch. Tuy nhiên có nơi khác lại ghi là sinh 385 và mất khoảng năm 303 hoặc 302 trước Tây lịch.
Thầy Mạnh Tử (ảnh wikipedia)
Ngài tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung hoa. Người mẹ là Chương thị, tức Mạnh Mẫu nuôi ông ăn học từ thuở nhỏ (ông mồ côi cha) trong một sự nghiêm khắc. Theo sách ghi lại, Mạnh mẫu đã dời nhà 3 lần khi ông còn nhỏ cốt tìm môi trường phù hợp cho ông được tập trung tinh thần vào việc học. Và cũng nhờ vào nỗ lực đó, ông đã thành danh và tên tuổi được lưu truyền đến ngàn năm sau.
Tuy Mạnh Tử chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của Khổng tử, nhưng ông trưởng thành trong thời Chiến quốc, đã chứng kiến biết bao cảnh tang thương của dân chúng, do đó, quan niệm dân trên hết, đất nước đứng thứ hai và nhà vua hàng sau cùng đã là những đóng góp tích cực vào một xã hội tương tàn giữa các lãnh chúa khác nhau thời Trung hoa cỗ.
Và ông cũng đề ra 3 nguyên tắc cho một người quân tử hay kẻ sĩ vào thời đó là:
1/ Uy vũ bất năng khuất nghĩa là không sợ hãi cường quyền bạo lực.
2/ Phú quý bất năng dâm nghĩa là giàu sang không đắm mùi si mê của thế gian.
3/ Bần cùng bất năng di nghĩa là thất bại không đầu hàng thời cuộc.
Người đời sau đã tôn ông là Á Thánh Mạnh Tử (tức là vị thánh đứng sau Khổng tử).
III/ Chữ Nhân:
Cả hai lý tưởng bồ tát và quân tử đều tập trung vào chữ Nhân. Tức là hướng một con người bình thường trở thành một bậc trí thức, trượng phu hay kẻ sĩ. Tức là người có học, có đạo đức cũng như biết cách làm người đúng nghĩa, để rồi từ đó có thể phục vụ nhân quần xã hội một cách tốt đẹp. Khi một trí thức hay kẻ sĩ đã được trang bị đầy đủ hai hành trang tinh thần nêu trên họ sẽ là những vị vua anh minh, tướng lãnh tài ba kiệt xuất, quan văn thanh liêm tận tụy với trách nhiệm v.v…
Cả hai dòng tư tưởng lớn của Đông phương là Trung Hoa và Việt Nam đều đặt nặng chữ Nhân. Tuy nhiên chữ Nhân của hai dòng tư tưởng này có rất nhiều sự khác biệt.
Chữ Nhân của người Tầu được trình bày đầu tiên trong Ngũ Thường của Khổng Tử. Vốn để đào tạo một chính nhân quân tử Trung Hoa. Ngũ Thường gồm Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Thầy Mạnh Tử định nghĩa người đại trượng phu quân tử như sau: Uy vũ bất năng khuất. Người quân tử không bao giờ bị khuất phục bởi sức mạnh, cường quyền; Phú quý bất năng dâm. Khi người quân tử được giàu sang thì không nên say mê danh vọng, địa vị, sắc đẹp, bài bạc, hút sách ở cuộc đời; Bần cùng bất năng di. Người quân tử cho dù gặp nhiều khó khăn trở ngại hay bần cùng trong lý tưởng hay trên cuộc đời cũng không nên nản chí mà bỏ đi lý tưởng mình đã và đang theo đuổi;
Tuy nhiên chữ Nhân nói trên còn bị khá nhiều giới hạn. Giới hạn của nó ở chổ chỉ nhằm tu chỉnh con người bên ngoài nhưng thiếu chú trọng về mặt tâm hồn. Nghĩa là tu dưỡng nội tâm để trở nên một con người có thể tự thắng mình. Con người tự thắng mình tức là con người đã vượt qua được những sự phiền não, tựu chung ở tham lam, giận dữ và mê muội. Hơn nữa chữ Nhân của người Tầu không mở rộng thành tình thương giống nòi đồng loại.
Chữ Nhân của người Việt là trường hợp khá đặc biệt. Dân tộc ta sống cạnh một nước láng giềng to lớn, hung hăng cũng như rất tham lam bành trướng lãnh thổ. Kể từ thời lập quốc cách đây trên 5000 năm đã liên tục đề kháng lại sự xâm lăng của người Tàu phương Bắc. Chữ Nhân này đã được tổ tiên chúng ta ngay từ thưở xa xưa đã được phổ biến cũng như hành trì như là khuôn mẫu gìn giữ độc lập cũng như sự tự do giống nòi. Với quan niệm :”Ta thà bỏ mạng sống một đời chứ không bỏ chí lớn, quên mình để yên ổn quần sanh, đó là lòng NHÂN bao trùm trời đất vậy“.
Như phần I đã trình bày, cũng chính nhờ chữ Nhân này mà sau khi Hai Bà Trưng thất bại trong cuộc chiến chống quân Tàu xâm lăng vào năm 43 sau Tây lịch, tổ tiên ta đã có thể giữ vững nòi giống cũng như duy trì được văn hóa Lạc Việt, đồng thời tạo nên những sức bật thần kỳ đánh đuổi quân xâm lăng phương Bắc của các bậc anh hùng lớn 60 năm sau cuộc thất trận của Hai Bà ở cuộc khởi nghĩa Tượng Lâm; Lý Nam Đế (503 – 548) là một vị vua Việt Nam, người đã sáng lập nhà tiền Lý năm 544 và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân sau khi đánh đuổi quân Tàu xâm lược.
Chiến thắng sông Bạch Đằng đánh bại quân Nam Hán của Ngô Vương Quyền năm 938 đã giải thoát hẳn dân tộc Việt Nam khỏi ách đô hộ của người Tầu phương Bắc; năm 981 hoàng đế Lê Đại Hành đã oanh liệt chiến thắng quân Nam Tống trên chiến tuyến sông Đồ Lỗ (Toàn Thư gọi là sông Chi Lăng, Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ gọi là sông Bạch Đằng) với bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà mà người chấp bút là thiền sư Pháp Thuận; đến cuộc phạt Tống của Tướng quân Lý Thường Kiệt năm 1075; rồi đến chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 1288 do vua Trần Nhân Tông lãnh đạo cùng với Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn; 10 năm kháng chiến chống quân Minh của Đức Vua Lê Thái Tổ cùng với Ức Trai Nguyễn Trải; Phá tan 20 vạn quân Thanh năm 1789 của Quang Trung Hoàng Đế và Trúc Lâm Đệ Tứ Tổ Ngô Thời Nhậm.
Nhờ ở vị thế địa lý khá đặc biệt nên nước ta mới có cơ hội thâu nhập được 2 nền văn minh lớn đó là nước Tầu phương Bắc và Ấn Độ phía Nam, cùng với với nền văn minh tộc Việt là Đông Sơn và Lạch Trường đã hình thành nên lòng Nhân bao trùm trời đất. Chính nhờ lòng Nhân này dân tộc Việt, văn hóa Việt mới còn hiện diện cho đến ngày hôm nay. Điều tinh yếu làm thế nào để dung hóa những nền tư tưởng nêu trên cũng như chan hòa với nền văn minh Đông-Sơn và Lạch-Trường nhằm phục vụ một cách thiết thực cho dân tộc? Câu trả lời đó là tư tưởng Tam giáo đồng nguyên tức là Phật giáo, Khổng giáo và Nho giáo. Khi đề cập đến ba hệ tư tưởng trên tức là đề cập đến cách sống và sự thích ứng được vào đời sống hằng ngày, hơn nữa làm thế nào có ích lợi cho bản thân cũng như cộng đồng xã hội. Lý tưởng Bồ tát (lòng Nhân của tộc Việt) cũng như lý tưởng quân tử (của thầy Mạnh Tử) đều nằm ở đây cả.
Ngày hôm nay, năm 2011, thiết nghĩ nền Tam giáo đồng nguyên nêu trên đã được điều chỉnh cũng như mở rộng trở thành một nền Đa giáo đồng nguyên. Do sự hội nhập cũng như phát triển của nhiều tôn giáo khác như Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo…Tinh thần của đa giáo đồng nguyên cần phát triễn hài hòa để một mặt có thể nâng cao tinh thần, sức sống tâm linh của mỗi tín đồ hay giáo dân, mặt khác có thể đóng góp hữu hiệu vào công cuộc làm hưng thạnh đất nước Việt Nam bằng nhiều hình thức. Trước mắt là công cuộc vận động cho Tự do, nhân quyền Việt Nam.
IV/ Kẻ sĩ Đông phương:
Trong ba chương nêu trên, chúng tôi đã trình bày một cách khái quát dòng tư tưởng Việt Nam hay Đông phương, cụ thể qua lý tưởng bồ tát và lý tưởng quân tử. Cũng như một vài khái niệm về Đa giáo đồng nguyên. Lẽ đương nhiên dòng tư tưởng đã tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc Việt không thể nào chỉ một vài trang đánh máy có thể lột tả hết sự thâm thúy. Chúng tôi mong rằng, trong một dịp thuận tiện sẽ trở lại đề tài này một cách chi tiết hơn.
Trong lịch sử cổ đại, trung đại, cận đại của nước nhà, số lượng những kẻ sĩ Đông phương đúng nghĩa, thật không thể nào liệt kê hết cho được.
Và gần đây trong thời hiện đại, chúng tôi cũng thường mong mỏi rằng sẽ xuất hiện những kẻ sĩ Đông phương với lý tưởng bồ tát và quân tử để có thể cứu nước, giúp dân trong tình hình dầu sôi lửa bỏng hiện tại.
Chúng tôi không quen biết gì với Tsls Cù Huy Hà Vũ. Xuất xứ đã khác, môi trường làm việc cũng khác, học thuật cũng không giống nhau. Tuy nhiên có một niềm tâm sự chung có thể chia xẻ là muốn có một đất nước Việt Nam tốt đẹp hơn. Xin nói vắn tắt là thế.
Từ điểm đó, theo những thông tin, hoạt động của ông trên nhiều lãnh vực, đặc biệt từ lúc ông chính thức chấp nhận bào chữa cho giáo xứ Cồn Dầu. Rồi đến vụ xử án ngày 04/04/2011 chúng tôi nhận thấy Tsls Cù Huy Hà Vũ chính là một Kẻ Sĩ Đông Phương đúng nghĩa như đã trình bày bên trên.
V/ Kẻ sĩ Đông phương Cù Huy Hà Vũ:
Thế thì Tiến sĩ luật sư Cù Huy Hà Vũ đã làm những gì để có thể gọi là Kẻ sĩ Đông phương?
Xin thưa rất nhiều, cụ thể qua 14 điểm nêu trong bài viết Cù Huy Hà Vũ Nobel Hòa Bình 2012.
Chúng tôi xin nêu chi tiết từng điểm như sau:
Lý tưởng bồ tát:
1/ Ta thà chịu tổn mạng chứ không bỏ đạo Nhân
* Chữ Nhân ở đây có nghĩa là tình thương hay lòng từ bi bao trùm đến khổ đau của những con người không phải là bà con thân nhân của mình, và tình thương đó lan sang cả loài thảo mộc, thiên nhiên.
– Trong lời tuyên bố của Tsls Cù Huy Hà Vũ về vụ án ngày 04/04/2011, có đoạn viết : ” Tôi là một con người bình thường, bằng xương bằng thịt, chứ không phải là sắt là đá. tôi có một mái ấm gia đình, có những con người để chăm sóc, thương yêu chứ không phải để xa lìa. Nhưng tôi ngẩng cao đầu quyết giữ vững những quan điểm vì Nước, vì Dân ấy cho dù sự đàn áp, trả thù kia có khốc liệt đến đâu, để không hổ thẹn với truyền thống yêu nước của gia đình tôi...”
– Khởi kiện Nguyễn tấn Dũng, thủ tướng cộng sản Việt Nam về việc cho Tầu khai thác Boxit ở Tây nguyên làm thiệt hại môi trường sinh thái của dân cư bản địa; cũng như đã kiện các cấp lãnh đạo địa phương ở 10 tỉnh đã cho Tầu lục địa, Đài Loan và Hương Cảng thuê rừng đầu nguồn gây thiệt hại môi trường sống của dân địa phương.
– Cổ vũ và bênh vực cho những người hoạt động dân chủ đã và đang đòi lại các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do lập hội.
2/ Bất Nhân trái đạo thà chết chứ không làm
– Ở đoạn khác (Lời tuyên bố của Tsls Cù Huy Hà Vũ về vụ án ngày 04/04/2011), được khẳng định như sau : “Sứ mệnh của người trí thức là góp phần cải biến xã hội bằng những quan niệm, nhận thức của mình. Không sống và làm được như thế thì không xứng đáng là kẻ trí thức.”
3/ Bồ tát thấy dân rên la trong lửa đỏ, nên phải lăn vào để cứu dân.
– Bào chữa cho giáo xứ Cồn Dầu: Tiến sĩ luật sư Cù Huy Hà Vũ đã can đảm nhận bào chữa cho 6 giáo dân Cồn dầu, mặc dù văn phòng của ông đã không được nhà cầm quyền Đà Nẵng cho phép.
– Trước nỗi thống khổ của dân oan, bị các nhà cầm quyền địa phương cướp đất, cướp ruộng, Tsls Cù Huy Hà Vũ thường lên tiếng bảo vệ những người thế cô sức yếu này. Như trường hợp bà Dương thị Kính đã bị Lê Thanh Hải, ủy viên Bộ chính trị, bí thư thành ủy, nguyên chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Sài gòn và phe nhóm đã đập nhà, cướp đất v.v…
Lý tưởng quân tử:
1/ Uy vũ bất năng khuất nghĩa là không sợ hãi cường quyền bạo lực.
– Vụ kiện Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế về dự án đồi Vọng Cảnh.
– Tự ứng cử chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin
– Tranh cử Đại biểu Quốc hội
– Yêu cầu sửa đổi Hiến pháp
– Bào chữa cho tướng Trần Văn Thanh (một tướng công an chống tham nhũng)
2/ Phú quý bất năng dâm nghĩa là giàu sang không đắm mùi si mê của thế gian.
– Cho dù gia đình là một trong những người có công đối với đảng cộng sản Việt Nam, bản thân của Tsls Cù Huy Hà Vũ đã không gia nhập đảng để hưởng vinh hoa phú quý. Ông lập ra văn phòng luật sư trước là lo sinh kế gia đình, sau đó là nơi binh vực, che chở cho những người sức cô thế yếu.
3/ Bần cùng bất năng di nghĩa là thất bại không đầu hàng thời cuộc.
– Trước phiên tòa xử án Tsls Cù Huy Hà Vũ đã có thái độ bình thản đón nhận bản án. Vì ông biết rằng chủ tọa đoàn mà ông Nguyễn Hữu Chính là đại diện chỉ là công cụ cho đảng cầm quyền không hơn không kém. Trong thái độ bình thản và tha thứ lại càng nổi bật hơn với quyết tâm :” Tôi ngẩng cao đầu quyết giữ vững những quan điểm vì Nước, vì Dân ấy cho dù sự đàn áp, trả thù kia có khốc liệt đến đâu, để không hổ thẹn với truyền thống yêu nước của gia đình tôi…”
VI/ Cù Huy Hà Vũ Kẻ Sĩ Đông Phương, Nobel Hòa Bình 2012:
Những hành động vì dân, vì nước nêu trên của Tsls Cù Huy Hà Vũ đã chứng tỏ ông chính là một Kẻ Sĩ Đông phương đúng nghĩa.
Hơn nữa trên trận tuyến bảo vệ Sự thật, công lý và hòa bình, ông lại càng xứng đáng nhận Giải Nobel Hòa Bình 2012.
Do đó, một lần nữa chúng tôi xin gởi lời kêu gọi đến tất cả các tổ chức, đảng phái chính trị, cũng như các tôn giáo, hội đoàn thân hữu, các cơ quan truyền thông của người Việt Nam yêu chuộng Sự thật, công lý, hòa bình và có tinh thần đấu tranh cho một nước Việt Nam dân chủ và Nhân quyền, hãy yểm trợ tích cực để Tiến sĩ luật sư Cù Huy Hà Vũ được trao giải Nobel Hòa Bình 2012.
Khi Kẻ sĩ Đông phương Cù Huy Hà Vũ được trao giải Nobel Hòa Bình đó là niềm vinh dự lớn lao cho dân tộc Việt Nam, cũng như cho tiếng nói tự do dân chủ nhân quyền Việt Nam được thăng hoa nở rộ trên trường quốc tế.
Cụ thể chúng tôi kính mời quý độc giả cùng đồng bào khắp nơi hãy tham gia đông đảo 2 hình thức dưới đây để ủng hộ Kẻ sĩ Đông Phương, Nobel Hòa Bình 2012 Cù Huy Hà Vũ:
1/ Cù Huy Hà Vũ Nobel Hòa Bình 2012 – Cu Huy Ha Vu’s Nobel Peace Prize 2012, bỏ phiếu ủng hộ Tsls Cù Huy Hà Vũ được trao giải Nobel Hòa Bình 2012. Được online ngày 06/04/2011.
Địa chỉ ký tên: http://www.gopetition.com/petition/44519.html
2/ Tự Do Cho Tiến Sĩ Luật Sư Cù Huy Hà Vũ – Free for Doctorate in law Cu Huy Ha Vu. Đòi trả tự do cho Tsls Cù Huy Hà Vũ cũng như hỗ trợ hồ sơ kiện nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam ra Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc do Luật sư Nguyễn Xuân Phước chủ xướng. Văn bản online ngày 30/03/2011.
Địa chỉ ký tên : http://www.gopetition.com/petition/44318.html
Ký tên ủng hộ xin được xem như hành động hỗ trợ cho nhân quyền, tự do ở Việt Nam. Kính mời quý độc giả cùng đồng bào khắp nơi hưởng ứng tích cực.
VII/ Phần kết:
Trong thời gian vừa qua ngoài Tsls Cù Huy Hà Vũ, đất nước chúng ta đã xuất hiện rất nhiều những Kẻ sĩ Đông phương, như Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, tù nhân chính trị Trương Văn Sương, Nguyễn Hữu Cầu, kỹ sư Đỗ Nam Hải, cô Tạ Phong Tần, nữ văn sĩ Trần Khải Thanh Thủy, Nhà báo tự do Điếu cày Nguyễn Văn Hải, Anh ba Sài Gòn, luật sư Lê Chí Quang, cô Phạm Thanh Nghiêm, Nữ luật sư Lê thị Công Nhân, ông Vi Đức Hồi, luật sư Lê Quốc Quân, bác sĩ Nguyễn Hồng Sơn, Mẹ Nấm v.v…
Trong những người vừa nêu, Tsls Cù Huy Hà Vũ được xem là nhân vật tiêu biểu. Và khi chúng tôi đề danh Tiến sĩ luật sư Cù Huy Hà Vũ là Kẻ sĩ Đông phương nhằm đề cao tinh thần vì dân phục vụ, vì nước quên mình của Tsls Vũ, chứ không vì cảm tình, hay vì cá nhân của ông ta.
Lúc thực hiện bài viết, thâm tâm chúng tôi mong mỏi và tin tưởng rằng, trong đại khối dân tộc Việt ở trong và ngoài nước còn tiềm ẩn rất nhiều, rất nhiều những kẻ sĩ Đông phương cưu mang lý tưởng bồ tát, lý tưởng quân tử để cứu nước cứu dân.
Và một ngày nào đó, những vị vừa nêu sẽ lần lượt xuất hiện để
Âu châu ngày 12 tháng 4 năm 2011, nhằm mùng 10/03 âm lịch giổ tổ Hùng Vương
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc (Tổng thư ký Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử Việt Nam và Tinh Thần Trúc Lâm Yên Tử tại Âu Châu – Secretary General of The Vietnamese historical Researcher Group. and Spirit of TRUC LAM YEN TU in Europe)
Người viết xin tiếp nhận những góp ý trong tinh thần tương kính và bổ túc cho nhau. Xin gởi về email truclamyentu@truclamyentu.info, website : http://www.truclamyentu.info. Đa tạ

CON ỦNG HỘ Ý KIẾN BÁC LỘC, HOAN HÔ
CÁC BÁC Ở QUÃNG NGÃI NGHĨA THỤC CHO CHÁU VÀO DĂNG BÀI CHƠI VỚI
Vui vẻ đón nhận.
Nguyễn Liệu