Hãy lắng nghe quá khứ – Nguyễn Hữu Nghĩa
Hãy lắng nghe quá khứ
Nguyễn Hữu Nghĩa
Một lời nói có thể làm thay đổi cuộc đời một cá nhân hoặc nhiều cá nhân, thậm chí có thể giết chết một cá nhân hoặc nhiều cá nhân.
Một ý tưởng có thể tiêu diệt một vương triều, một dân tộc, nhưng một ý tưởng cũng có khả năng đánh thức một dân tộc, cứu vãn một giang sơn.
Chúng ta hãy tìm trong lịch sử vài trường hợp cụ thể để xem những chứng cứ về điều này.
“ Một hôm Huệ Tông ngồi nhổ cỏ ở sân chùa Chân Giáo, Thủ Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng : “ Nhổ cỏ thì phải nhổ cả cái rễ nó đi! ” Huệ Tông nghe thấy, phủi tay đứng dậy nói rằng : “ Nhà ngươi nói ta hiểu rồi “.Được mấy hôm, Thủ Độ cho người đến mời Huệ Tông, Huệ Tông biết ý, vào nhà sau thắt cổ tự tận. Thủ Độ đưa bách quan đến tế khóc xong rồi hỏa táng, chôn ở tháp Bảo Quang “.(1)
Không kể Lý Chiêu Hoàng, Huệ Tông được xem như vị vua cuối cùng của nhà Lý. Một câu nói của Trần Thủ Độ có khả năng chấm dứt một vương triều. Lời nói ấy xuất phát từ ý tưởng, phải làm mọi cách giữ ngôi cho nhà Trần được vững bền.
Năm Đinh Tỵ (1257), Ngột Lương Hợp Thai – một danh tướng của Mông Cổ đưa quân sang xâm chiếm Việt nam lần thứ nhất. Thế giặc quá mạnh, vua tôi nhà Trần phải bỏ kinh thành Thăng Long rồi lui về tận Hưng Yên, Thái Tông hỏi ý kiến quan Thái úy Trần Nhật Hiệu, ông này đề nghị “ nhập Tống “. Thái Tông lại hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Thủ Độ nói rằng : “Đầu tôi chưa rớt xuống đất, thì xin bệ hạ đừng lo “. (2)
Hai câu nói của hai vị đại thần đầu triều phản ánh hai tâm thức về cùng một hoàn cảnh. Hai tâm thức ấy sẽ dẫn đưa dân tộc đến những hệ lụy khác nhau.
Hai con người cùng thời đại, cùng suy tư về tổ quốc. Cả hai cùng thấy dân tộc đang lầm than trong hoàn cảnh cực kỳ khắc nghiệt, nhưng hai ý tưởng đưa ra lại không dung tha nhau. Một ý tưởng khiến dân tộc có thể bị nô lệ rồi tiêu vong. Một ý tưởng khiến dân tộc bừng lên ý chí tự chủ để tìm cách trường tồn.
Khi tầng lớp lãnh đạo dân tộc, trong tâm thức tự ý chấp nhận thân phận nô lệ; không phải dân tộc đã từ chối, nhưng, cả dân tộc đã bị những kẻ ấy truất quyền tìm đến những tín hiệu tập họp; tổ quốc sẽ vô cùng khó khăn trong hành trình khôi phục sự tự chủ. Vì vậy, tổ quốc đang đứng bên bờ vực của sự tiêu vong.
Khi dân tộc bị cưỡng bách trong thân phận nô lệ, tổ quốc sẽ điêu linh, nhưng, trong hành trình đi tìm sự tự chủ, tổ quốc vẫn còn cơ hội độc lập, nếu, được một tầng lớp sáng suốt lãnh đạo. Tổ quốc dẫu mong manh, nhưng, những tín hiệu tập họp đầy uy lực vẫn còn đó và hùng tráng vang lên lời réo gọi. Cả dân tộc quy về một hướng, và, sẵn sàng khởi phát khi điều kiện thuận lợi.
Năm Quý Mùi (1283), một lần nữa, quân Mông Cổ muốn chiếm nước ta nên giả tiếng mượn đường đi qua nước ta để đánh Chiêm Thành. Trong triều, kẻ này nói nên cho mượn đường, kẻ kia nói nên triều cống để xin hoãn binh. Riêng Hưng Đạo Vương Trân Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư quyết xin đem quân đi phòng giữ những nơi hiểm yếu, không để quân Mông Cổ tràn sang nước ta.
Vó ngựa quân Mông tiến nhanh như vũ bão, sự tàn bạo của họ khiến dân chúng nơi nơi khiếp đảm. Vua Nhân Tông triệu tập các bô lão tại điện Diên Hồng để hội nghị và trưng cầu dân ý. Ý chí hùng tráng của dân tộc được hô vang : “ Quyết chiến “. Quá khứ đầy kiêu hãnh của tiền nhân làm nức lòng dân tộc, cũng đồng thời, là tín hiệu tập họp đầy uy lực quy nạp mọi khả năng chiếu về một hướng.
Vua Nhân Tông, khi thấy Hưng Đạo Vương thua trận chạy về Vạn Kiếp, đã lo sợ mà nói với Hưng Đạo Vương rằng : “ Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân “. Hưng Đạo Vương tâu rằng : “ Bệ hạ nói câu ấy thì thực là lời nhân đức, nhưng mà Tôn Miếu Xã Tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng “.(3)
Lời tâm tình trong “ Hịch tướng sĩ “ đã nhìn thấu tâm can những con người dạn dầy trận mạc, những tướng sĩ đang ngày đêm trừng mắt về biên cương, đã trở thành tín hiệu dân tộc đồng lòng “ rửa hờn quốc sỉ “.
Một lần nữa, khí thiêng sông núi, oai linh tổ tiên đã hun đúc thêm chí quật cường cho dân tộc qua tiếng quát vang lừng trước mặt quân thù của tướng quân Trần Bình Trọng : “ Thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc “ (4).
Tiếng quát thoát thai từ nỗi uất hận ngàn năm Bắc thuộc, từ nỗi hoài niệm Trưng,Triệu – hai bậc cân quốc anh thư, từ tiếng gió thoảng qua lau sậy vi vu nơi bến sông Hát Giang oan nghiệt, từ hình ảnh Ngô Quyền với chiến bào đẫm máu lung linh trong khói sóng Bạch Đằng, đã vinh quang phá tan ách ngàn năm Bắc thuộc, mở đầu cho các triều đại tự chủ của tổ quốc.
Tiếng quát ấy, chứa đựng cả một quá khứ tang tóc ngậm ngùi, là lời minh thị cho quyết tâm tự chủ của dân tộc, là tín hiệu phối hợp với “ Hịch tướng sĩ “để tập họp dân tộc cùng đồng tâm quyết tử bảo vệ giang sơn ngàn đời gấm vóc.
Năm Đinh Hợi (1287), Mông Cổ xâm lăng tổ quốc lần thứ 3, lấy danh nghiã đưa Trần Ích Tắc, một hoàng tộc nhà Trần đã đầu hàng Thoát Hoan trong lần xâm lăng trước, về Việt nam làm “ An Nam quốc vương “.
Sau khi dồn triều đình phải lui về tận Thanh Hoá, dưới vó ngựa quân Mông, quê hương đã tan tác, điêu tàn. Nhưng, quân Mông bắt đầu choáng váng khi liên tiếp thất trận tại các vị trí chiến lược, và, Thoát Hoan đã xác định rằng, không thể chiếm được Việt Nam nên vội vàng sắp xếp về nước theo hai đường thủy, bộ.
Quân Mông Cổ không thể không biết quân Nam Hán đã từng nếm ô nhục trên giòng sông này, do vậy, khi sử dụng đường thủy, sự kiện lịch sử đó hẳn nhiên sẽ sống động trong tâm trí Ô Mã Nhi – một danh tướng Mông Cổ.
Khi chứng kiến những chiến thuyền lần lượt vỡ nát trên giòng sông lịch sử, Ô Mã Nhi chợt hiểu, lịch sử không phải là sự lập đi lập lại, mà, chính những bài học lịch sử mới là thứ cần phải học đi học lại.
Khi kéo quân từ Thái Bình ra đi, Hưng Đạo Vương cùng toàn bộ tướng sĩ chỉ sông Hòa Giang mà thề : “ Trận này không phá xong giặc Nguyên, thề không về đến sông này nữa “.(5) Lời thề sắt son trước giang sơn nguy biến, chính là, một tín hiệu tập họp tài trí Việt nam khiến sóng Bạch Đằng quét sạch bóng quân thù, đồng thời, đặt dấu chấm hết mộng xâm lăng của đế quốc Nguyên Mông về phương Nam.
Sông Bạch Đằng, với tài trí Việt nam, một lần nữa đi vào lịch sử, ghi dấu ấn chói lọi muôn đời.
Trên đây chỉ là vài chứng cứ trong lịch sử trung đại.
Và, lịch sử cận đại nói gì ?
Khi chuẩn bị toàn quốc kháng chiến, một tín hiệu làm rúng động tâm can con dân Việt đã được phát đi. Cả dân tộc đã quá nhiều đau khổ, nhục nhã. Không nghi ngờ gì nữa, dân tộc chỉ còn một con đường là chiến đấu đến cùng. Tín hiệu đó đã phải chờ đợi 80 năm mới được Hồ Chí Minh phát đi : “Hỡi đồng bào cả nước! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước. ” (6)
Khác với các tín hiệu trong quá khứ, trong tín hiệu này, tổ quốc và nhân dân được đặt lên hàng đầu. Chỉ có tổ quốc và nhân dân mà thôi, dấu vết cá nhân được che đậy kỹ lưỡng, học thuyết ngoại lai được ngụy trang dưới chiêu bài cứu nguy dân tộc.
Tín hiệu đã chứng tỏ khả năng tập họp thật mạnh mẽ, nhân dân nức lòng hy sinh không suy tính, cân nhắc và thành công đạt được vang dội cả thế giới.
Chúng ta nhìn nhận rằng, không gì nêu cao tính kiêu hùng của dân tộc bằng thành quả độc lập giành được bằng sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân, đó là nền độc lập được trả giá bằng máu xương cả một thế hệ.
Nhưng, một chữ “ nhưng “ oan nghiệt lại đưa dân tộc vào một hiểm họa khôn lường.
Chúng ta biết rằng, sự hiện diện của người Mỹ tại miền Nam trước ngày 30.4.1975, tương tự như tình trạng của Nhật bản, Phi Luật Tân, Nam Hàn…., do đó, về mặt hiện tương cũng như bản chất, không phải là một cuộc xâm lăng.
“ Bản tổng kết lịch sử cho thấy, từ ngày lập quốc đến nay, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị trong hai mươi năm, và, lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm….
Nếu các nhà lãnh đạo miền Bắc trước kia và những nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết, thì không có một lý do nào có thể binh vực được sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Quốc. Chỉ có một sự lệ thuộc về lý thuyết, mà thật ra cả Nga Sô lẫn Trung Quốc đều sử dụng như là một phương tiện, mới có thể mù quáng hy sinh quyền lợi của dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của dân tộc Trung Quốc….
Chính Mao Trạch Đông đã viết câu sau đây về thuyết Cộng Sản :“Sở dĩ chúng ta nghiên cứu thuyết Các-mác không phải vì luận điệu tốt đẹp của nó, cũng không phải vì nó đựng một phép thần diệu để trừ ma quỉ. Nó không đẹp, nó cũng không thần diệu. Nó chỉ ích lợi. Có nhiều người cho nó là thần dược trừ bá chứng. Chính những người này đã xem thuyết Các-mác là một giáo lý. Phải nói cho những người này hiểu rằng giáo lý của họ không có ích lợi bằng phân bón. Phân bón còn làm giàu ruộng đất, giáo lý không làm được việc đó.”….
Nghĩa là các lãnh tụ tối cao của khối Cộng Sản đều xem thuyết Cộng Sản là một phương tiện. Họ chế ngự phương tiện tinh thần đó – do Tây phương phát minh ra – cũng như những phương tiện vật chất khác của Tây phương. Ngược lại, các sáng tác chính trị của các nhà lãnh đạo miền Bắc trước kia và những nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay , lại chứng tỏ rằng, những người lãnh đạo này còn đang say mê thuyết Cộng Sản và đương nhiên tôn nó lên hàng một chân lý….
Đưa một phương tiện chiến đấu của người lên làm một chân lý của mình, là mặc nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bậc đối với các lãnh tụ Cộng Sản quốc tế và tự biến mình thành một thứ nô lệ trí thức để cho người sử dụng. Vì vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay, lý thuyết Cộng Sản được để lên trên quyền lợi của dân tộc, điều ấy chứng tỏ rằng, trong lĩnh vực ngoại giao giữa các quốc gia, họ tin rằng một sự đồng minh về lý thuyết có thể đặt trên quyền lợi của dân tộc….
Do các lý lẽ trên đây chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay vẫn chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa dân tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục….
Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud cựu Thủ tướng Pháp, trong cuộc thăm viếng nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ tướng Krutchev: “Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu châu.”…
Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên….
Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị, vì, không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất….
Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Quốc vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gửi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra phải có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia đôi Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc, cũng vì lý do trên….
Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc trước kia cũng như các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thơ lại chính trị còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược mà Nga Sô đã vứt bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt….
Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa….
Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, và hiện nay, sự xâm lăng đang diễn ra dưới chiêu bài đầu tư kinh tế….
Ai cũng biết chính sách kinh tế mềm của Trung Quốc :“ hàng hóa Trung Quốc tràn đến đâu thì biên giới Trung Quốc mở rộng đến đó “. Hiện nay, vấn đề không chỉ còn là hàng hóa mà chính là cách thức và khu vực mà Trung Quốc đang đổ tiền và nhân lực vào đầu tư….
Đừng ngây thơ tin rằng Trung Quốc có thiện chí đối với Việt Nam. Căn cứ trên một ngàn năm lịch sử bang giao giữa hai quốc gia, chúng ta có thể quả quyết rằng trường hợp này không bao giờ phát triển được, mà lại chúng ta sẽ tròng vào cổ dân tộc cái ách nô lệ mà tổ tiên chúng ta, trong một ngàn năm đã đổ nhiều xương máu để loại trừ.
Các nhà lãnh đạo miến Bắc trước kia cũng như các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Quốc, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sự kiện Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính đã triệt tiêu các cơ hội nắm bắt các mâu thuẫn quốc tế để phát triển Trong tình trạng như vậy, việc Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Chúng ta đang đối diện với lần xâm lặng thứ chín – lần xâm lăng tàn khốc nhất trong lịch sử.
Như thế thì, việc chấp nhận một khuôn khổ phát triển theo lối Cộng Sản, bất kể hoàn cảnh đặc biệt của chúng ta, là một hành động thiếu sáng suốt. Và sự gắn liền vận mạng của Việt Nạm với vận mạng của Trung Quốc, trong giai đoạn phát triển hiện nay, là một hành động di hại cho dân tộc.
Hiện nay, đất nước chỉ thống nhất mà không phát triển, vì, một sự thống nhất theo đường lối Cộng Sản sẽ đương nhiên làm mất cơ hội phát triển.
Độc lập không phải là mục đích. Phát triển dân tộc mới là mục đích. “ (7)
Khi các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn khăng khăng dẫn dắt đất nước phát triển theo “ nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã “ thì đất nước sẽ vẫn còn trong vòng luẩn quẩn, vì rằng, cụm từ đầy mâu thuẫn này chỉ diễn tả một điều duy nhất là “ bế tắc “.
Toàn dân mong chờ một cuộc giải phẫu đến nơi đến chốn.
Hãy xứng đáng với trí tuệ và xương máu tiền nhân. Hỡi con dân Việt !
Nguyễn Hữu Nghiã
26.03.2011
—————————-
(1), (2) , (3) , (4) , (5) Trần Trọng Kim – Việt Nam Sử Lược, quyển 1, NXB Tp.HCM – 2000.
(6) trích trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh năm 1946.
(7) Trích dẫn trong “ Chính đề Việt Nam” của Ngô Đình Nhu.