S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Cái Lồng Khác Cỡ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những Cái Lồng Khác Cỡ

Trong một bài viết trước đây, tôi đã từng kể chuyện người lính già Vũ Cao Quận, sau

rất nhiều năm xông pha chiến đấu vị độc lập và tự do cho đất nước, đã phải ngậm ngùi

ví von tình cảnh dân tộc như được chuyển từ một cái lồng sắt đen sì sang một cái lồng

sơn son thếp vàng nhưng cũng chẳng lấy gì làm sung sướng. Rồi cụ băn khoăn: “Chẳng

lẽ cả dân tộc đi xuyên suốt một chặng đường máu lửa để chỉ đổi được từ cái lồng này

sang một cái lồng khác hay sao?” (“Một nền dân chủ nhọc nhằn”. Gửi lại trước khi về

cõi. Tiếng quê hương, Hoa Kỳ, 2006, 125).

Chính là từ cái “lồng sơn son thếp vàng” này, ngày 12 tháng 2 năm 2006, bạn Nguyễn

An Nguyên, Nghiên cứu sinh ngành kinh tế học Rice University, thành viên nhóm

Vietnam Economic Society, có bài viết “Công đoàn – Đình công – Lương tối thiểu: Từ

góc nhìn vĩ mô” tường thuật rằng:” Người công nhân có khi không thấy ánh mặt trời vì

vào công xưởng từ 6g30 sáng tới 8-9 giờ khuya. Điều kiện sinh hoạt quá khó khăn bên

lề trung tâm kinh tế lớn nhất nước cũng làm cho công nhân dễ coi mình là kẻ bị gạt ra

lề” (www.viet-studies.info/kinhte/NANguyen_DinhCong.pdf).

Bị gạt ra đứng bên lề, trong một đất nước mà mình làm chủ và thuộc giai cấp lãnh đạo

chắc thấy cũng tủi thân (nên) giới công nhân VN đã gửi đến Đảng và Chính phủ “Nỗi

niềm khóc hận thương tâm” của họ:

“Thưa quý vị,

Đất nước ta là đất nước cộng sản theo chủ thuyết Lênin chuyên chính vô sản, giải

phóng cho hai tầng lớp nông dân và công nhân. Nhưng nay ta có đảng lãnh đạo suốt

30 năm mà người dân chúng tôi phải è cổ, cho bọn thương gia bóc lột là sao? […] Bản

thân chúng tôi bị vắt cạn kiệt sức lao động, mà […] lấy sạch đất đai của dân, thì buộc

chúng tôi phải làm nô lệ. Nhưng chúng tôi không phải làm nô lệ cho một ông chủ, một

bản thân, mà phải chia ra làm tôi mọi bị bóc lột từ nhiều phía, nhiều cơ quan”.

“Như tôi, Nguyễn Thị Tuyết, người con gái nhỏ bé 21 tuổi cũng như anh chị em khác, bị

những khâu chia chác mồ hôi, sức lao động như sau:

“Tôi ở Kiên Giang đi cùng chúng tôi là bốn chị em khác lên tại Sài Gòn xin vào công

ty. Trước khi đi, địa phương đã thu của tôi bốn mươi lăm nghìn đồng (VN$45,000) tiền

lao động công ích, tiền an ninh là hai mươi lăm nghìn (VN$25,000). Mức thuế thân

này chúng tôi phải đóng trước khi rời khỏi địa phương, như mỗi năm tôi phải đóng hai

lần, cộng cả thảy là một trăm năm mươi nghìn đồng, chưa tính tiền xe đi lại hầu hạ

mấy ông cán bộ cấp Xã. Vào xin được việc làm, phải mướn phòng trọ mỗi tháng hai

trăm năm mươi ngàn đồng (VN$250,000); tiền điện, tiền nước là sáu mươi nghìn đồng

(VN$60,000). Như vậy, tính ra tôi phải bắt buộc chi tiêu tối thiểu là bốn trăm sáu mươi

nghìn đồng (150,000+250,000+60,000= VN$460,000”.

“Trong khi lương của tôi chỉ được một triệu, là mức lương đã làm được ba (3) tháng,

tay nghề tương đối đã rành. Còn mới vào sáu (6) tháng đầu, chỉ có bảy, tám trăm ngàn,

tính ra ăn uống và phương tiện đi lại thì không mua nổi áo quần để mặc. Những lúc

bệnh nhẹ cũng không có tiền mua vài liều thuốc. Mấy chị em cùng đi với tôi có người

thì bỏ về cào tôm, lượm sò. Số còn lại họ không làm nổi vì công việc quá cực. Thức

đêm tăng ca không tăng tiền, họ đành vào những quán café ôm, rồi sau đó họ sa vào

lưới của xã hội tạo ra, bán rẻ trinh tiết cho những tay có tiền. Ở Việt Nam hiện nay ai

là những kẻ có lắm tiền, chỉ có những kẻ quan chức cán bộ mới có nhiều tiền mà thôi.

Chính họ dồn ép tuổi thanh xuân chúng tôi vào đường cùng để cướp của người này,

đem mua những thứ khác, có phải vậy không Ngài Tổng bí thư?”

“Chúng tôi phân tích không sai, mong ông hãy nghĩ tới người Việt Nam máu đỏ da

vàng, không phân biệt Kinh hay Thượng. Cha ông đã nói nước Việt Nam là Một, dân

tộc Việt Nam là Một. Vậy quý vị còn có chút lương tâm con người không?”

“Hiện nay chúng tôi vẫn bám víu vào công việc tại nhà máy bao bì cho ông chủ Đài

Loan. Ở đây thật đau lòng, chúng tôi như người bị tù, vì công đoàn là bộ phận an ninh

của Đảng và an ninh nội bộ luôn bám sát chúng tôi. Bộ phận công đoàn sẵn sàng lợi

dụng những người nhẹ dạ không biết thương nhau trong đám công nhân, để phát triển

thành đoàn viên, là cánh tay hậu bị của đảng làm công cụ cho công đoàn, sẵn sàng đàn

áp chúng tôi bằng những tờ báo cáo mật hay chỉ trích một khi chúng tôi có sự đòi hỏi

chính đáng.”

Để trả lời cho câu hỏi “Vậy quý vị còn có chút lương tâm con người không?” Nhà

nước đã bắt ông Đoàn Huy Chương, a.k.a Nguyễn Tấn Hoành (đại diện công nhân của

khu công nghiệp Điện Bàn, Quảng Nam, một trong những người đã ký tên trong bức

thư “khóc hận thương tâm” thượng dẫn) và xử phạt đương sự 18 tháng tù giam.

Khu nhà trọ nam công nhân gần cổng Khu công nghiệp Tân Tạo. Ảnh: N.B. Nguồn: Tuổi trẻ Online

Nguyễn Tấn Hoành được trả tự do ngày 13 tháng 5 năm 2008. Sau đó, trong một cuộc

phỏng vấn dành cho phóng viên Việt Hùng – RFA – ông cho biết:

“Bị cùm cũng có, bị biệt giam cũng có, chế độ dinh dưỡng trong tù thì không có. Đặc

biệt hơn họ tôi bị cùm và biệt giam mà họ gọi là cách ly… Tình trạng sức khỏe của tôi

hiện giờ rất yếu, trong thời gian tôi ở tù tôi bị những chứng bệnh như bị liệt, đau đầu và

bây giờ khó thở. Sức khỏe của tôi rất yếu, đi lại rất khó khăn, không thể làm được việc

gì…Họ bắt tôi ký vào Lệnh trả tự do, khi về địa phương làm thủ tục nhập lại hộ khẩu

thì họ bắt tôi phải viết một bản cam kết là từ nay về sau không đấu tranh nữa. Nhưng

mà tôi nói thẳng với họ là tôi không làm, bởi vì chừng nào mà chính quyền còn đàn áp

công nhân chúng tôi thì chúng tôi vẫn đấu tranh”.

Hai năm sau, báo Lao động – số ra ngày 1 tháng 6 năm 2010 – có đăng lại “Lá thư đầy

uất nghẹn của một công nhân”:

Kính gửi: Ông Chủ tịch Tổng LĐLĐVN

Tôi tên: Nguyễn Thị Thắm – Công nhân (CN) kiểm hàng (QC) của Cty TNHH Hansoll

Đồng Nai – Khu công nghiệp (KCN) Bàu Xéo – Trảng Bom – Đồng Nai.

CN chúng tôi ở đây có rất nhiều bức xúc mà không biết đi đâu để tìm ra lẽ công bằng.

Tôi cũng đã tìm sự giúp đỡ từ các tổ chức xã hội nhưng chưa thấy hồi âm. Sau thời

gian tìm địa chỉ, tôi cũng đã suy xét kỹ càng và quyết định viết lá thư này gửi đến ông.

Không! Tôi không “kiện” Cty, tôi viết ra tiếng nói của tôi – NLĐ, mong ông bớt chút

thời gian để lắng nghe và thấu hiểu tiếng “than ôi” trong lòng chúng tôi. Mong ông đặt

mình vào vị trí của tôi – NLĐ để cảm thông cho số phận CN, cương vị Chủ tịch Tổng

LĐLĐVN nhận xét xem công dân của nước Việt đang làm việc trong cảnh thế nào.

Trước khi viết ra những bức xúc, tôi có lời xin lỗi trước. Nói một cách chua chát thì

Cty lấy “tiền” dán “miệng thiên hạ” để che đậy cho cái gọi là “áp bức, bóc lột sức lao

động”. Sự thiếu tri thức và hiểu biết Luật Lao động đã xiềng xích quyền lợi hợp pháp

của NLĐ. Chúng tôi đã phải vất vả lao động, trái lại đồng lương thì ít ỏi mà “luật” thì

quá nhiều. Cty yêu cầu CN đi sớm để họp “trước giờ”, nhưng về trễ thì chẳng có thêm

đồng nào, làm hành chính nghỉ trưa 1h mà cũng bị “chém đầu, chém đuôi” 20 phút.

Vào giờ là làm đến có chuông mới được rời vị trí đi ăn cơm, trong giờ đi tiểu hoặc

uống nước còn bị dòm ngó, chửi bới. Chính tôi đây kiểm hàng một mình một làn, vội đi

vệ sinh để trống bàn, chuyên gia người Hàn Quốc (tôi cũng chưa biết tên) la lối ầm lên,

chưa được 5 phút tôi đã quay ra và được giội xối xả những câu chửi tiếng Hàn, bực quá

tôi cũng nạt lại “đi vệ sinh mà cũng cấm sao” mặc bà ấy muốn nói thêm gì thì nói…

Khi đồng nghiệp, đồng bào vẫn tiếp tục bị chèn ép “chửi bới xối xả” như thế thì Nguyễn

Tấn Hoành (tất nhiên) “vẫn tiếp tục đấu tranh” – như chính ông đã hứa. Cái giá của lời

hứa trang trọng này, xem ra, hơi mắc!

Ông bị bắt lại lần thứ hai vào ngày 23 tháng 2 năm 2010, cùng với hai người bạn cùng

chí hướng: Nguyễn Hoàng Quốc Hùng (30 tuổi) và Đỗ Thị Minh Hạnh (26 tuổi). Hơn

một năm sau, vào ngày 19 tháng 3 năm 2011, RFA đi tin:

“Ba người hoạt động cho quyền của người lao động tại Việt Nam bị toà án Việt Nam

kết tội phá rối an ninh, y án sơ thẩm. Phiên toà diễn ra từ 8 giờ sáng, thân nhân không

được tham dự. Ba bị cáo đều khẳng định vô tội trước toà. Luật sư Đặng Thế Luân thuộc

Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho ba bị can, cho biết kết quả phiên

xử là Quốc Hùng 9 năm tù, Minh Hạnh và Huy Chương [Nguyễn Tấn Hoành] cùng bị

án 7 năm tù”.

Nguồn: Uỷ ban bảo bệ người lao động Việt Nam

Sau khi tiếp xúc với gia đình, và Luật sư của 3 bị cáo, thông tín viên Tường An có bài

tường trình, với kết luận như sau:

“Một phiên tòa diễn ra nhanh chóng, không có gia đình, không có nhân chứng tham dự.

Và tại hãng giầy Mỹ Phong ở Trà Vinh, nơi xảy ra cuộc biểu tình lớn năm 2010, nơi mà

ba bị cáo đã bị kết án là cầm đầu cuộc biểu tình này. Không một công nhân nào được

tham dự. Theo Luật sư và gia đình, quá trình điều tra của công an cũng như việc xử án

có rất nhiều điểm còn khuất tất…”

Bản án khắc nghiệt, cũng như “việc xử án có rất nhiều điểm còn khuất tất…” mà Chính

quyền cách mạng vừa dành cho ba công dân trẻ tuổi Việt Nam khiến tôi (lại) nhớ đến

lời tâm sự của ông Vũ Cao Quận – hồi năm 2006: “Không có tự do dân chủ thì thân

phận dân tộc ta chẳng khác lũ chim cảnh được chuyển từ cái lồng sắt đen sì của chế độ

thuộc địa sang cái lồng sơn son thiếp vàng lòe loẹt của chủ nghĩa xã hội. Ngạn ngữ có

câu ‘cái lồng đẹp không nuôi sống được con chim!’ Chẳng lẽ cả dân tộc đi xuyên suốt

một chặng đường máu lửa để chỉ đổi được từ cái lồng này sang một cái lồng khác hay

sao?”

Thốt nhiên, tôi muốn gọi điện thoại nói chuyện chơi với ông Vũ Cao Quận vài câu quá

nhưng (nghĩ lại) sợ làm bận lòng người lính già – lúc đang đau ốm – nên thôi. Thôi, tôi

đành nói thầm cho chính mình nghe vậy:

“Nếu cả cả dân tộc đi xuyên suốt một chặng đường máu lửa để chỉ đổi được từ cái lồng

này sang một cái lồng khác, cùng cỡ, thì… đỡ (khổ) biết chừng nào. Cái lồng sắt của

chế độ thuộc địa tuy (ngó) đen sì nhưng ít nhất thì nó cũng đủ rộng để qúi vị tiền bối

cách mạng có thể tha hồ hô hào đình công mà chả ai phải lãnh chịu mấy chục năm tù

– như bản án mà Đảng và Nhà Nước vừa dành cho ba công nhân: Đỗ Thị Minh Hạnh,

Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, và Nguyễn Tấn Hoành”.

TNT

Bình luận về bài viết này