THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM 65 NĂM NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU – 1945
THÀNH KÍNH TƯỞNG NIỆM
65 NĂM NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU – 1945
Nỗi day dứt của cha
Con ạ,
Trong lịch sử dân tộc
Nhục nhất là nạn đói
Năm 1945
Khi hàng triệu con người
Từ những đồng đất rộng
Phải ăn cả cỏ cây
Vẫn không sao dằn bụng
Vơ sạch cả chuột bọ
Vẫn không thể tạm no
Đành lê thân tràn khắp phố phường
Bởi thôi thúc bản năng: SINH TỒN
Những cô nàng 16
Tuổi trăng tròn như mộng
Lê thân trần lõa thể
Không còn ngại đám đông
Chỉ vì vài vụn bánh
Chỉ còn khái niệm đói
Thôi thúc mọi tế bào
Không cảm xúc nào khác
Còn đủ sức duy trì
Là biểu hiện tột cùng
Của nỗi đau nhân loại
Khi hàng triệu con người
Chìm tận đáy đớn đau
Vật vờ đến triệu giây
Mới mong được giải thoát
Khỏi kiếp người gian nan!
Ôi sông Hồng, sông Lam, sông Mã
Cùng sông Thương, sông Đuống, Thái Bình
Những con sông mang nặng phù sa
Sao đẩy dân mình vào thảm họa
Đọa đày trong nạn đói rút xương:
Chồng sắp chết, khóc cho vợ con sẽ chết
Vợ chờ chết, khóc cho chồng con đang chết
Mẹ đã chết, con còn bú day để chết!
1 phần 6 nhân dân miền Bắc
Vật vờ trong thảm họa kinh hồn:
Đói dai dẳng, đói cho đến chết!
Kho từ ngữ của toàn nhân loại
Vẫn chưa thể nói hết nỗi đau
Chỉ trừ khi, những con người ấy
Được sống lại, để tự thốt ra!
Thật lạ là, chính sử nước nhà
Hình như cố tình lờ chuyện ấy
Bằng cách chỉ ghi vội mấy dòng:
Hơn 2 triệu người đà chết đói
Do thiên tai, nào tại thiên tài
Rồi do bọn Nhật, Pháp quá tham
Giặc tham tàn là điều dễ hiểu
Nhưng, hào kiệt dân ta khi ấy
Đang mãi lo toan tính những gì?
Mà còn gì có thể trọng hơn
Việc hàng triệu dân mình chết đói
Trong khi kho thóc Nhật vẫn còn
Vựa lúa trong Nam vẫn sẵn sàng!
Con ạ, cha vẫn chưa thể hiểu
Tiêu chí nào để luận anh hùng
Vì cứ theo sách sử
Thì cùng giai đoạn ấy
Lắm anh đã vỗ ngực
Vênh vênh dáng anh hùng!
Sỹ Nhàn