Bàn về văn hóa Nho giáo – Lý Sơn

Bàn về văn hóa Nho giáo In Email
https://i0.wp.com/www.formerfatguy.com/sunrider-foods/blog/confucius.jpgXin giới thiệu các bạn một bài bàn về nho giáo, như là một phản hồi liên quan đến loạt bài bút kí của tôi về Nagoya.  Bài viết của tác giả Lý Sơn, một chuyên gia về văn học và giỏi Hán Nôm. NVT 

Trong bài Nhật ký‎ Nagoya có đoạn:

Vấn đề văn hóa:

Tư tưởng “Đại nhất thống” của văn hóa Nho giáo nhấn mạnh sự thống nhất cao về chính trị và văn hóa của quốc gia; nó có mặt tích cực là nhấn mạnh ý thức tập thể, song lại xóa bỏ ý thức chủ thể của cá nhân và tự do ý chí. Đồng thời “Đạo Trung Dung” mà văn hóa Nho giáo đề xướng cũng kiềm chế tư duy mới của chúng ta. “Trung Dung” là nguyên tắc cơ bản trong triết học Khổng Tử, là vũ trụ quan, phương pháp luận và tiêu chuẩn đạo đức được văn hóa Nho giáo ra sức đề cao. “Trung Dung” lấy hài hòa thống nhất làm tiền đề, cho rằng sự phát triển của con người hoặc sự vật đều nên vừa phải, trong giới hạn thích đáng, không “quá mức” và “bất cập”. Ảnh hưởng rõ nhất của tư tưởng này đối với giáo dục là thầy giáo chỉ thích các học sinh ngoan ngoãn vâng lời mà ra sức bài xích các học sinh nói năng hoặc có suy nghĩ “ngoài khuôn phép”, đòi hỏi chúng phải “cải tạo” cho hợp khuôn phép. Như thế tuy đã đưa học sinh vào khuôn phép nhưng lại bóp chết năng khiếu của biết bao trẻ em thông minh. Rất tiếc là tới nay nhiều người vẫn chưa nhận thức được tai hại sâu xa của các mặt tiêu cực trong văn hóa truyền thống Trung Quốc đối với việc giáo dục tinh thần sáng tạo KHKT.

Tôi nghĩ chỉ thay đổi hai chữ “Trung Quốc” bằng “Việt Nam”, chúng ta cũng có một lời giải thích tại sao Việt Nam chưa bao giờ có ai chiếm giải thưởng khoa học lớn (chứ chưa nói đến giải Nobel).

Ý kiến của Lý Sơn

Trước khi tranh luận với quan điểm trên, xin mời bạn đọc lướt qua vấn đề lịch sử đạo Nho sơ lược dưới đây.

Nguyên nhân nào phát sinh đạo Nho ?

Nguyên nhân lịch sử (quá trình hình thành Nho học)

Chu Công Đán tên thực Chu Cơ Đán (được kính trọng gọi là Chu Công) thực sự là người đặt nền móng cho Nho học sau khi nhà Chu thống nhất đất nước. Chu Công Đán chính là kiến trúc sư của nhà Chu với chế độ nô lệ, rồi dần dần chuyển sang chế độ phong kiến.

Chu Công, tiếp thu tư tưởng của cha là Chu Văn Vương, xác lập đẳng cấp trong xã hội gồm có: thiên tử – chư hầu – khanh, đại phu – sĩ. Chế độ đẳng cấp này được giai cấp thống trị các triều đại sau tiếp nhận và chịu ảnh hưởng sâu sắc[.

Ông có nhiều cống hiến trong việc định ra lễ nghi và nhạc trong triều đình. Ông đề ra các thể chế như phong tước, triều kiến, thăm hỏi, tang lễ, cúng tế… Đề ra quy định về trang phục như “ngũ phục” (5 loại quần áo mặc khi có tang), “ngũ lễ”, tân, quân, gia, tam tòng tứ đức… làm cho quan hệ đẳng cấp có tôn ti trật tự, bảo đảm ổn định xã hội.

Ông đề ra quy định chặt chẽ về nhạc và điệu múa ở các đẳng cấp khác nhau: hội hè, yến tiệc, hôn thú, ma chay… phải có kiểu riêng. Chế độ lễ nhạc mà Chu Công soạn ra tương đối hoàn chỉnh, giúp cho xã hội ổn định trật tự và phát triển. Lễ nhạc mà ông soạn ra cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến các triều đại sau này.

Lớn lên vào cuối thời Xuân thu (778 – 455 tr CN) Khổng tử chứng kiến cảnh xã hội suy đồi, chư hầu xâu xé nhau, mưu bá đồ vương. Ông cho rằng tình trạng rối ren ấy là do lễ nhạc nhà Chu bị coi rẻ. Muốn duy trì ổn định xã hội thì phải duy trì được lễ nhạc.

Tiếp thu tư tưởng của các vị tiền nhân như (các vua tiền sử như Nghiêu, Thuấn, Vũ và vua Chu Văn Vương, ông Chu Công Đán), Khổng tử coi đó là nền tảng tư tưởng của mình. Ông viết sách, mở lớp dạy học, có lúc làm quan cho nước Lỗ, có khi bỏ đi nước khác du thuyết mong các vua chư hầu chấp nhận học thuyết của mình, nhưng đều thất bại. Cuối cùng ông chỉ còn hi vọng vào lớp hậu thế nên đã chuyên tâm dạy học, mong truyền lại tư tưởng của mình. Trong bài giảng, khi nêu ra một ý tưởng ông đều nói đó là của cổ nhân, thánh nhân truyền lại (Chu Văn Vương, Chu Công Đán), “thuật nhi bất tác” (chỉ thuật lại mà không sáng tác) , không cần giữ “bản quyền tác giả”. Bởi ông biết tâm lý người đời phục cổ nên dù là lời của mình cũng nói đó là của tiền nhân, cốt sao học trò tin theo là được. Nho học là công trình do một tập thể tác giả tạo nên, kết lại trong hai bộ Tứ thư và Ngũ kinh, tạm phân biệt như sau:

Kinh Thi: Khổng tử sưu tầm, biên tập tuyển tập 300 bài ca dao dân ca 15 nước phía  bắc Hoàng Hà.

Kinh Thư: Khổng tử ghi ghép truyền thuyết, huyền thoại  về các vua thượng cổ và vua nhà Chu

Kinh Dịch: Theo truyền thuyết, người vạch ra đầu tiên là thần Nông (vua Phục Hy). Người tiếp tục khai triển là Chu Văn Vương, người chú giải là Chu Công Đán. Khổng tử vẫn tiếp tục chú giải Kinh Dịch.

Kinh Xuân Thu : cuốn sử nước Lỗ do Khổng tử biên soạn.

Kinh Lễ (Lễ ký): Khổng tử ghi chép các lễ nghi thời trước ( từ Nghiêu, Thuấn, Vũ đến Chu Công Đán),  hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện dạy học để duy trì và ổn định trật tự xã hội.

Tứ thư: Ba cuốn đầu Đại học, Trung Dung và Luận ngữ là của Khổng tủ. Cuốn chót “Mạnh tử thư” là của Mạnh tử (học trò của Tử Tư- cháu nội Khổng Tử).

Nhìn chung các trước tác trên đều do học trò ghi chép lại và mãi sau mới xuất bản được. Chẳng những thế, qua các đời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, các nhà nho lại gia công vào hai bộ sách ấy. Vậy  Nho học còn lại ngày nay quả là công trình tập thể rồi.  Tuy nhiên các nhà nghiên cứu vẫn cố gắng phân biệt Nho học nguyên thủy (của Khổng tử) và Hán nho, Đường nho, Tống nho, Minh nho, Thanh nho. Ôi thật là phức tạp và khó khăn biết bao!

Xét cho cùng, Nho học là công trình tập thể, Khổng tử là trung tâm của Nho học.

Mỗi triều đại lại sửa sang Nho học theo quan điểm và lợi ích riêng của họ.

Vì sao Nho học tồn tại 2000 năm ở Trung Quốc và 1000 năm ở Việt Nam ?

+ Nguyên nhân chủ quan:

Trước hết, Nho học giúp cho sự ổn định xã hội, và trở thành ý thức hệ phong kiến.

(Xin hỏi có nhà cầm quyền nào trong lịch sử nhân loại, kể cả ngày nay, lại không thích xã hội mình ổn định và trật tự ?)

Ngày nay, nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng Khoa học cơ bản và KH kỹ thuật ngày nay trong khối XHCN kém phát triển là do các nước xã hội chủ nghĩa không chịu tiếp thu văn hóa tư bản phương Tây. Họ tự trói buộc bằng ý thức hệ Marxism, đặc biệt chưa tôn trọng vai trò cá nhân. Họ mải miết nhồi nhét “chủ nghĩa”, cần phải giáo điều để tránh mọi sự phản biện bất lợi cho chế độ chính trị.

+ Nguyên nhân khách quan:

TQ và VN (nói rộng ra là phương Đông) cơ bản thuộc vùng văn hóa nông nghiệp, trồng trọt, tĩnh lặng. Ý thức sống là ưa quân bình âm dương, không thích xáo trộn.

Phương Tây thuộc vùng văn hoá du mục, thích phiêu lưu, khám phá cái mới, từ đó dẫn đến thói quen phát minh, khám phá, thiên về khoa học kỹ thuật.

Lẽ ra, theo qui luật dòng chảy văn hóa, người phương Đông cần phải tiếp thu tư duy khoa học và cách mạng sớm hơn của phương Tây, nhưng do quan hệ giao tiếp Đông –Tây gặp khó khăn khách quan về lãnh thổ, khí hậu, ngôn ngữ.v.v… nên việc hội nhập của phương Đông quả là rất chậm. Người thực dân phương Tây phải dùng quan hệ “xâm chiếm thuộc địa” thì quá trình giao lưu hội nhập mới xảy ra được.

Vậy xin đừng qui tội hết cho “Khổng tử và Nho học”.

Ngày nay đánh giá Nho học là một việc khó khăn phức tạp. Thời đại mới cần gạt bỏ những yếu tố lạc hậu, giữ lấy những yếu tố tích cực.

Không nên phủ nhận tinh hoa truyền thống và phê phán nó hoàn toàn.

Xin mời đọc mấy bài sau đây của Khổng tử

(Luận ngữ – cuốn sách tiêu biểu nhất của Nho học)

Luận ngữ, thiên 5 Công Dã Tràng, bài 26

颜渊,季路侍. 子曰:“盍各言尔志”. 子路曰:“原车马,衣轻裘,与朋友共,敝之而无憾”.  颜渊曰:“愿无伐善,无施劳”. 子路曰:“愿闻子之志”. 子曰:“老者安之, 朋友信之,少者怀之” .

Nhan Uyên, Tử Lộ thị. Tử viết: Hạp các ngôn nhĩ chí ?  Tử Lộ viết: Nguyên xa mã, y khinh cừu, dữ bằng hữu kỳ, tệ chi nhi vô hám. Nhan Uyên viết: Nguyện vô phạt thiện, vô thi lao. Tử Lộ viết: Nguyện văn tử chi chí. Tử viết: Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi.

Nhan Uyên, Tử Lộ theo hầu. Khổng tử nói: Sao chẳng nói ý chí của các anh (cho ta nghe) ?

Tử Lộ thưa: Con nguyện mang xe ngựa, áo da cừu của con cho bạn hữu dùng, dù đến hỏng cũng không oán giận.

Nhan Uyên nói: Con nguyện không phô trương ưu điểm của con, không tỏ rõ công lao của mình.

Tử Lộ thưa: chúng con muốn nghe thầy nói nguyện vọng của thầy.

Khổng tử đáp:  Người già được nuôi dưỡng đầy đủ, bạn bè tin cậy lẫn nhau, trẻ em được quan tâm chăm sóc.

(Lời bàn: Khồng tử khuyến khích học trò mạnh dạn nói ra ước mơ hoài bão của mình)

Luận ngữ, thiên 7 Thuật nhi, bài  8

子曰:不愤不启,不悱不发。举一隅不以三隅反,则不复也。

Tử viết:  Bất phẫn bất khải, bất phỉ bất phát. Cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã.

Khổng tử nói: Kẻ nào chưa uất ức vì chưa hiểu được thì ta không gợi mở cho. Kẻ nào không hậm hực vì chưa thể nói ra được thì ta chẳng hướng dẫn cho nói. Người học đã biết một góc (vuông) mà chẳng biết tự xét ba góc kia thì ta chẳng dạy nó nữa.

(Lời bàn: Khổng tử khuyến khích học trò tích cực chủ động suy nghĩ)

Luận ngữ, thiên 11 Nhan Uyên, bài ·3

子曰:回也非助我者也,于吾言无所不说。
Tử viết: Hồi dã phi trợ ngã giả dã, vu ngô ngôn vô sở bất thuyết

Khổng tử nói: Nhan Hồi không phải người giúp ta mở mang kiến thức. Không lời nào ta nói mà trò ấy không thích.

(Lời bàn: Khổng tử nêu ra một tư tưởng độc đáo: Thầy và trò cùng mở mang nâng cao kiến thức cho nhau… chúng ta gọi là giáo dục tương tác)

Lý Sơn

Bình luận về bài viết này